sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Đời nhẹ khôn kham - Phần V - Chương 2

6

Sau buổi nói chuyện với gã đàn ông trên bộ, Tomas thấy lòng mình chìm đắm trong nỗi buồn vô hạn. Càng nghĩ anh càng không hiểu tại sao anh có thể kéo dài câu chuyện với gã trong bầu không khí vui vẻ như vậy. Đồng ý đi theo gã (chuyện xảy đến bất ngờ quá và anh không nắm rõ luật pháp cái gì được phép và cái gì trái phép), nhưng ít nhất anh vẫn có thể khước từ lời mời uống rượu với gã như hai người bạn thân thiết chứ! Giả sử có người trông thấy anh vào quán với gã và biết gã là công an chìm, người đó đương nhiên sẽ suy luận Tomas đang cộng tác với công an nhà nước! Và việc gì anh phải cho gã biết bài viết anh bị cắt xén? Tại sao anh phải ném ra sự kiện đó? Anh tự bất mãn với chính anh không để đâu cho hết.

Hai tuần lễ sau, gã đàn ông trên bộ lại đến tìm anh. Gã lại mời anh đi uống rượu nhưng lần này Tomas yêu cầu nói chuyện ngay tại văn phòng anh.

“Vâng, bác sĩ, tôi hiểu rõ lắm.” Gã đàn ông vừa trả lời vừa nhếch mép cười.

Tomas hơi thắc mắc về thái độ gã đàn ông. Gã nói năng như tay đấu cờ đang cho đối thủ biết nước cờ trước chú mày đi hỏng rồi.

Hai người ngồi đối diện nhau, Tomas sau bàn giấy. Sau chừng mười phút nói chuyện lan man về trận dịch cúm đang hoành hành, gã đi vào vấn đề chính, “Chúng tôi suy nghĩ rất nhiều về trường hợp của anh. Giữa chúng ta chuyện đó thật chẳng có chi trọng đại. Nhưng ở đây chúng ta có quần chúng để quan tâm. Chính vì thế dù có chủ ý hay không bài viết của anh cũng đã thổi phồng ngọn lửa chống Cộng điên cuồng vào quần chúng. Tôi phải cho anh hay sự việc nghiêm trọng đến nỗi có người đòi đưa anh ra tòa xét xử. Xúi giục dân chúng bạo động là có tội.”

Gã ngưng nói trong chốc lát để nhìn vào mắt Tomas. Anh nhún vai không nói gì. Gã đàn ông đổi lại giọng hòa nhã. “Nhưng chúng tôi biểu quyết chống đề nghị đó. Không cần biết trách nhiệm của anh ra sao trong việc đó, xã hội phải biết tận dụng những người có khả năng như anh. Ông bác sĩ trưởng nơi bệnh viện anh làm việc lúc trước đề cao anh hết lời. Chúng tôi còn nhận được báo cáo từ bệnh nhân của anh nữa. Anh làm một chuyên gia giỏi. Bác sĩ không cần phải hiểu biết chính trị. Anh đã để mình bị lôi cuốn. Đã đến lúc chúng ta giải quyết chuyện này, một lần cho xong, rồi thôi. Vì lẽ đó, chúng tôi dự thảo lá thư này để anh kí tên vào. Anh chỉ cần gửi lá thư cho báo chí, chúng tôi sẽ thu xếp mọi chuyện làm sao cho lá thư xuất hiện đúng lúc trên mặt báo.” Gã trao vào tay Tomas mảnh giấy.

Tomas đưa mắt đọc sơ và anh toát mồ hôi hoảng sợ. So với lá thư ông y sĩ trưởng yêu cầu anh kí cách đây hai năm trước tờ giấy này mang lời lẽ nặng nề độc hại hơn nhiều. Ngoài chuyện rút lại bài viết về Oedipus, lá thư còn chứa đựng những câu như tỏ ý mến yêu Liên bang Xô viết, tuyên thệ trung thành với đảng Cộng sản, lên án thành phần trí thức, đổ lỗi thành phần này muốn đẩy đất nước vào cảnh nội chiến; và, trên hết, nó miệt thị ban biên tập tờ báo tuần (đặc biệt nhấn mạnh đến người tổng biên tập cao cao lưng gù; Tomas chưa bao giờ gặp mặt, nhưng anh biết tên tuổi ông và thấy hình ảnh ông xuất hiện trên mặt báo), tố giác những người đó đã bóp méo bài viết của anh, dùng bài viết như công cụ, biến nó thành lời kêu gọi dân chúng phản cách mạng. Thật hèn nhát! Không dám tự phát biểu những điều đó, họ phải núp sau lưng người y sĩ thật thà ngây thơ.

Gã đàn ông nhận ra nét hoảng sợ trong ánh mắt Tomas. Gã chồm tới thò tay dưới gầm bàn thân thiện vỗ lên đùi anh. “Bác sĩ nên nhớ đây chỉ là bản dự thảo thôi! Bác sĩ suy nghĩ thật kĩ và nếu có gì trong đó anh muốn thay đổi tôi chắc không đến nỗi khó khăn lắm đâu. Nói cho cùng, chính anh là người kí tên mà!”

Tomas trả lại gã công an chìm tờ giấy như thể anh không muốn giữ nó trong tay mình thêm phút giây nào nữa, như thể anh lo sợ rủi có người tìm ra dấu tay anh trên đó. Nhưng thay vì cầm lại tờ giấy, gã công an chìm dang hai cánh tay ra với thái độ sững sờ đầy giả dối (tư thế gã rất giống lúc Đức Giáo hoàng giang tay ban phép lành cho tín đồ dưới bao lơn.) “Ô hay, tại sao bác sĩ lại làm thế? Cứ giữ nó đi. Về nhà rồi bình tĩnh suy nghĩ lại.”

Tomas lắc đầu, cánh tay anh vẫn nhẫn nại đưa thẳng về phía trước. Cuối cùng, gã đàn ông phải thu lại tư thế giang tay như Đức Giáo hoàng để cầm tờ giấy.

Tomas định nói thẳng vào mặt gã một cách rạch ròi là anh sẽ không đời nào viết hay kí tên vào bất cứ văn bản nào, nhưng chưa kịp nói anh vụt đổi ý, và bằng giọng nói từ tốn anh bảo gã, “Tôi đâu có mù chữ, phải không? Tại sao tôi phải kí tên vào mảnh giấy không do chính tôi đặt bút viết?”

“Tốt lắm, bác sĩ. Làm theo cách của anh cũng tốt thôi. Anh cứ tùy tiện viết xuống rồi chúng ta cùng duyệt lại sau. Anh có thể dựa vào những gì anh vừa đọc làm bản mẫu.”

Tại sao Tomas không từ chối phứt cho xong?

Có lẽ đây là điều đang vụt qua trí óc anh: Ngoài việc dùng những lá thư tương tự để áp đảo dân trong nước (hiển nhiên đây là chiến lược của người Nga), riêng trường hợp Tomas nha công an có thể đang nhắm vào mục đích cụ thể: rất có thể họ đang đi thu lượm tang chứng để truy tố ra tòa những biên tập viên tờ báo đăng bài viết của anh. Nếu quả thật như vậy, họ cần văn kiện để trưng ra trong phiên xử và dùng nó cho chiến dịch bôi nhọ trên báo chí. Trường hợp anh từ chối thẳng, trên nguyên tắc, nha công an vẫn có thể ngang nhiên ngụy tạo chữ kí anh rồi đăng tải lá thư không cần biết anh có cho phép hay không. Sẽ chẳng tờ báo nào dám đăng lời thanh minh của anh. Không người nào trên cõi đời này không tin anh viết hay kí tên vào lá thư. Trông thấy người khác khổ sở nhục nhã người ta thống khoái đến độ chẳng ai buồn quan tâm đến một lời giải thích biện minh.

Cho bọn công an hi vọng anh tự tay viết lá thư, anh kéo dài được ít thì giờ. Ngay ngày hôm sau anh xin nghỉ việc. Anh suy nghĩ (đúng) sau khi anh tự nguyện bước xuống nấc thang thấp nhất của xã hội (cùng với cả ngàn trí thức ở các lãnh vực khác), bọn công an sẽ để anh yên. Lí do giản dị bởi khi anh ở nấc thang thấp nhất, lá thư dù tung ra sẽ chẳng ai tin là thật. Xưa nay sự bôi nhọ thường đi đôi với sự đi lên của người kí tên chứ chẳng bao giờ dính líu đến người đi xuống.

Nhưng quốc gia nơi Tomas sinh trưởng, bác sĩ là nhân viên nhà nước và nhà nước có quyền quyết định cho đi hay giữ lại người làm. Nhân vật Tomas thương lượng xin thôi việc biết rõ tên tuổi và chức phận anh, ông cố nài nỉ anh ở lại. Đột nhiên Tomas thấy hoang mang về quyết định của mình, nhưng cùng lúc anh thấy bị trói buộc vào quyết định đó bằng lời thề bất thành văn, vì vậy anh đứng bật dậy. Và đó là câu chuyện đưa đẩy Tomas trở thành người lau chùi cửa sổ.

7

Ít năm sau đó, trong lúc trên đường từ Zurich quay về Praha, Tomas lẩm nhẩm trong đầu câu, ”Es muss sein!”Anh đang nghĩ đến chuyện tình yêu anh dành cho Tereza. Tuy vậy, lúc vừa băng qua biên giới, anh bỗng thấy hoang mang trong lòng và anh không rõ có thật không còn con đường nào khác và anh phải trở về. Sau đó, lúc nằm yên bên cạnh Tereza, anh hồi tưởng duyên cớ anh và Tereza gặp nhau do một chuỗi những biến cố tình cờ đến tức cười xảy ra bảy năm trước đó (khi ông y sĩ trưởng bị đau dây thần kinh háng) và những biến cố run rủi đẩy anh vào cái cũi anh không còn cách nào thoát ra.

Phải chăng điều đó có nghĩa đời sống anh thiếu ”Es muss sein!” anh không có động lực cần thiết tự làm chủ đời mình ư? Có chứ, theo tôi nghĩ. Nhưng nó ở bên lãnh vực nghề nghiệp của anh chứ không phải trong tình yêu. Anh làm nghề thuốc không phải do tình cờ hay chủ ý lựa chọn mà do lòng khao khát sâu đậm trong anh.

Nếu phải phân loại con người ra nhiều thành phần khác nhau, tiêu chuẩn phân định đảm bảo chính xác nhất là nỗi khao khát ăn sâu trong lòng mỗi người muốn làm công việc gì suốt cuộc đời mình. Mỗi người Pháp là một con người cá biệt. Nhưng tất cả diễn viên trên cõi đời này tương tự như nhau – dù ở Paris, Praha hay bất cứ chân trời nào khác. Diễn viên là người ngay từ thuở ấu thơ đã tự nguyện suốt cuộc đời đem chính bản thân ra phô diễn cho công chúng xem. Nếu không có lòng tự nguyện cơ bản đó, không ai có thể trở thành diễn viên. Lòng tự nguyện không dính dáng gì đến bản chất thiên tư, trong con người nó nằm ở tầng sâu hơn tầng bản chất. Tương tự như vậy, y sĩ là người tự nguyện dùng trọn đời mình làm công việc liên quan đến thể xác con người và tất cả những gì dính líu đến nó. Chính lòng tự nguyện cơ bản đó (không phải tài năng thiên phú) là động cơ thúc đẩy hắn bước chân vào phòng mổ năm đầu trường thuốc và bền tâm vững chí suốt những năm trời học hỏi.

Ngành phẫu thuật đẩy chức năng cơ bản của nghề thuốc đến bến bờ tận cùng nhất, nơi con người tiếp cận với thiêng liêng. Khi có người bị đánh thật mạnh vào đầu, hắn ngã vật xuống và tắt thở. Mặt khác, không chuyện gì xảy ra, ngày nào đó hắn cũng sẽ ngừng hơi thở. Cách giản dị, sát nhân chỉ là hành động thúc đẩy cho mau chóng cái gì Thượng đế đã an bài. Có thể giả thiết Thượng đế nghĩ đến trường hợp sát nhân chứ Ngài không nghĩ đến ngành phẫu thuật. Ngài không bao giờ tưởng tượng nổi có kẻ dám cả gan thò tay vào bộ máy Ngài tạo dựng, bộ máy có lớp da bao bọc cẩn thận bên ngoài che kín không cho con mắt phàm tục nào trông thấy. Khi Tomas cầm con dao mổ chạm vào da thịt người bệnh đang bị gây mê và rạch thủng làn da với nhát dao thật chuẩn xác đều đặn (như thể đó là miếng vải – áo khoác ngoài, váy đàn bà hay bức màn che), trong thoáng chốc nhưng vô cùng mãnh liệt anh có cảm giác dường như Thượng đế đang bị anh thách thức. Chính đây mới là cái gì cuốn hút anh! Đây mới thực sự là cái ”Es muss sein!” bám rễ sâu chặt trong lòng anh, và nó được cấy vào không phải do những sự kiện tình cờ may rủi, không phải vì chứng bệnh đau dây thần kinh háng của ông y sĩ trưởng hay bất cứ duyên do ngoại tại nào khác.

Nhưng, phần đời trọng đại như thế làm sao anh có thể vất bỏ cách mau chóng, quả quyết và dễ dàng như vậy?

Có lẽ anh sẽ giải thích anh làm như vậy chẳng qua chỉ vì anh không muốn bọn công an lợi dụng mình. Nhưng thành thật mà nói, trên lí thuyết điều đó rất có thể xảy ra (một số trường hợp thật sự xảy ra như vậy), nhưng không có gì làm chắc công an sẽ dùng chữ kí của anh cho một bài báo ngụy tạo.

Đồng ý, người ta có quyền sợ hãi những điều hung hiểm vẩn vơ. Đồng ý, anh rầu rĩ với chính anh, vì anh quá vụng về, và anh muốn tránh né mọi tiếp xúc với công an để khỏi phải chịu đựng cảm giác bất lực mỗi khi bị tra vấn. Và đồng ý, dù sao anh cũng mất việc rồi, bởi công việc phát thuốc anh làm nơi chẩn y viện nọ không chút liên quan đến khái niệm của anh về ngành thuốc. Ngay cả như vậy, tôi vẫn thấy có điều gì bất thường kì quặc trong cách thế anh quyết định vội vã bỏ đi. Phải chăng còn có cái gì khác lạ sâu bên dưới tiềm ẩn trong anh và nằm ngoài mọi lí lẽ suy nghĩ thông thường?

8

Mặc dù qua Tereza anh biết thưởng thức và yêu nhạc Beethoven, Tomas thật ra không có căn bản nhiều lắm về âm nhạc, và tôi chắc anh không biết rõ câu chuyện thật xảy ra đằng sau mô-típ ”Muss es sein? Es muss sein!” nổi tiếng của Beethoven.

Chuyện đó xảy ra như sau: Có người tên Dembscher thiếu nợ Beethoven năm chục quan tiền, và khi nhà soạn nhạc, vốn lúc nào cũng rỗng túi nhắc nhở Dembscher về món nợ, ông ta thở hắt ra ảo não và trả lời, ”Muss es sein?” Beethoven cười lớn đáp, ”Es muss sein!” và lập tức ông ghi xuống sổ tay hai câu nói đó cùng với giai điệu kèm theo. Dựa trên mô-típ rất thật này Beethoven soạn khúc luân xướng cho bốn giọng: ba giọng hát câu ”Es muss sein, es muss sein, ja, ja, ja, ja!” (Phải vậy thôi, phải vậy thôi, vâng, vâng, vâng, vâng!), và giọng thứ tư lượn hòa theo ”Heraus mit dem Beutel!” (Hãy chìa ví tiền ra!)

Một năm sau, cũng mô-típ đó xuất hiện làm căn bản cho hành âm thứ tư trong tứ cầm khúc cuối cùng, Opus 135. Ở thời điểm này, Beethoven quên bẵng ví tiền của Dembscher. Nhóm chữ ”Es muss sein!”bỗng nhiên thụ đắc tiếng chuông trang trọng hơn nhiều; như thể nó trực tiếp xuất phát từ đôi môi của Định mệnh. Trong ngôn ngữ của Kant, ngay cả câu nói “Chào ông” nếu phát âm đúng lúc cũng có thể mang hình thức một công án siêu hình. Tiếng Đức là ngôn ngữ với những từ nặng kí. ”Es muss sein!”không còn là câu chuyện đùa giỡn khôi hài nữa; nó biến thành ”der schwer gefasste Entschluss” (nỗi khó khăn hay quyết định trọng đại.)

Vì lẽ đó, Beethoven biến nguồn cảm hứng tầm phào lăng nhăng đó thành khúc nhạc nghiêm trang, từ câu chuyện bông phèng thành chân lí siêu hình. Một mẩu chuyện lí thú từ nhẹ biến thành nặng hay, như Parmenides nói, từ dương tính sang âm tính. Tuy vậy, điều đó chẳng làm chúng ta ngạc nhiên. Mặt khác chúng ta sẽ bị sốc nặng giả như Beethoven cải biên nhạc bản tứ cầm khúc trang trọng thành khúc luân xướng bốn giọng bông phèng lăng nhăng về cái ví tiền của Dembscher. Nếu làm vậy, Beethoven sẽ mang tinh thần Parmenides biến nặng thành nhẹ, nghĩa là từ âm tính sang dương tính! Thọat tiên (dưới dạng bản phác thảo chưa hoàn chỉnh) là chân lí siêu hình, và chung cuộc (một tuyệt tác) – là câu chuyện nhăng nhít tào lao chưa từng thấy! Nhưng chúng ta không biết tư duy như Parmenides nữa.

Tôi có cảm tưởng Tomas từ lâu bị cái ”Es muss sein!” trang trọng, khắc nghiệt, hung hãn kia âm ỉ dày vò và anh âm thầm ôm ấp hòai vọng theo đuổi tinh thần Parmenides biến nặng thành nhẹ. Nên nhớ có thời điểm trong cuộc đời, anh hoàn toàn dứt bỏ mọi liên hệ với người vợ trước và đứa con trai, anh còn thấy nhẹ nhõm khi chính cha mẹ ruột anh không thèm nhìn mặt anh. Phải chăng bên dưới mọi thứ đó hiện hữu duy nhất một hành động bừa bãi và hoàn toàn phi lí để phủ nhận cái gì vẫn lên tiếng tự nhận là trọng trách, là ”Es muss sein!” của anh?

Dĩ nhiên, đó là cái “Es muss sein!” ngoại tạo do xã hội gán lên anh, trong khi cái “Es muss sein!” nội tại là lòng đam mê anh dành cho nghề thuốc. Thật là thiệt thòi cho anh biết bao. Chức năng nội tại bao giờ cũng mãnh liệt hơn và vì thế lúc nào cũng là động cơ xúi giục nổi loạn mạnh mẽ hơn các yếu tố khác.

Làm bác sĩ giải phẫu là cắt xẻ bề ngoài sự vật và nhìn thấu suốt bên trong. Có lẽ Tomas chọn nghề giải phẫu vì lòng khao khát muốn nhìn thấy tận mắt bề bên kia cái “Es muss sein!”; nói cách khác, anh muốn biết đời sống anh còn lại gì sau khi anh phủ nhận những điều trước đó được xem là sứ mệnh.

Hôm đi nhận việc mới từ người đàn bà tốt bụng bao thầu mọi công việc lau chùi cửa tiệm, phòng trưng bày ở Praha, và đối đầu với thực tế cụ thể kẹt cứng do chính tay mình gây ra, anh bị sốc nặng. Anh tê cứng trong cơn sốt đó liên tiếp mấy ngày đầu. Nhưng sau khi cảm giác lạ lùng đến rụng rời đó trôi qua (mất một tuần), anh đột nhiên thấy mình như đang hưởng những ngày nghỉ hè dài hạn.

Giờ đây, anh thấy vô cùng thú vị làm công việc trước đây anh chẳng bao giờ thèm đếm xỉa. Anh chợt hiểu lí do tại sao những người (có lúc anh nhìn họ với con mắt tội nghiệp xót thương) thơ thới trong lòng khi họ làm công việc không bị cưỡng ép phải mang trên vai trọng trách “Es muss sein!”. Họ quên ngay công việc giây phút từ sở làm về nhà mỗi tối. Đây là lần đầu tiên anh có cảm giác vui sướng khác lạ này. Trước đây, mỗi khi có chuyện khó khăn trắc trở trên bàn mổ, anh buồn rầu chán nản đến mất ngủ. Ngay cả đàn bà anh cũng chẳng thiết ngó ngàng. Cái “Es muss sein!” của nghề nghiệp như con ma cà rồng hút hết máu mủ anh.

Giờ đây, lang thang trên đường phố Praha, gậy gộc, bàn chải vác trên vai, anh thấy mình trẻ lại đến mười tuổi. Các cô bán hàng gọi anh là “bác sĩ” (hệ thống truyền tin rỉ tai ở Praha làm việc hữu hiệu hơn bao giờ) và nhờ vả anh cố vấn những chứng bệnh tật thông thường như cảm cúm, nhức lưng hay kinh nguyệt không đều. Các cô ngượng ngùng nhìn anh tưới nước lên mặt kính, gắn bàn chải vào đầu gậy và chăm chỉ lau chùi. Nếu bỏ mặc khách hàng trong tiệm được thì các cô đã chạy ra giành lấy bàn chải trên tay anh.

Tomas làm việc hầu hết tại những cửa tiệm lớn, nhưng đôi khi bà chủ anh cũng sai anh đến làm tại tư gia. Dân chúng vẫn đứng sau giới trí thức bị nhà nước đàn áp ngược đãi, và khi hay tin Tomas phải đi lau chùi cửa kính kiếm kế sinh nhai, bệnh nhân cũ của anh gọi điện thọai tới tấp đòi chính anh đến nhà họ. Họ mời anh vào nhà uống sâm banh hay rượu mận. Họ kí tên vào tờ giấy biên nhận lau chùi mười ba ô cửa sổ rồi ngồi đối ẩm nói chuyện vãn với anh cả hai tiếng đồng hồ. Sau đó Tomas lòng thơ thới hân hoan xách đồ nghề tiếp tục đến điểm hẹn tới. Trong lúc gia chủ các sĩ quan Nga lục đục tìm nhà định cư và đài phát thanh ra rả đọc thông báo loan tin viên chức ngành công an thay thế xướng ngôn viên bị bãi chức, Tomas hớn hở vui chân trên đường phố Praha, từ li rượu này sang li rượu khác như người lao đầu vào những bữa tiệc vui chơi bất tận. Quả anh đang tận hưởng những ngày nghỉ hè tuyệt diệu.

Anh trở về thời kì độc thân. Đột nhiên Tereza bước ra khỏi đời anh. Hai người chỉ thấy mặt nhau lúc khuya khi Tereza từ quán rượu về và anh đã mơ màng thiếp vào giấc ngủ. Lúc khác là buổi sáng khi Tereza còn ngái ngủ và anh vội vã thức dậy đi làm. Mỗi ngày làm việc, anh có mười sáu tiếng đồng hồ cho riêng anh, một khoảng thời gian tự do bất ngờ. Và từ thời thanh xuân của Tomas điều đó có nghĩa là đàn bà.

9

Khi bạn bè cật vấn bắt phải khai ra có bao nhiêu đàn bà qua tay trong đời, Tomas thường tránh né câu hỏi. Nếu bị dồn quá anh chỉ nói úp mở, “À, khoảng trên dưới hai trăm.” Kẻ ganh tị bảo anh nói quá. “Vậy mà anh bảo là nhiều?” Anh trả lời nhân thể tự bào chữa. “Tôi dính líu đến đàn bà tính đến nay đã hai mươi lăm năm. Lấy hai trăm chia hai mươi lăm, tính ra trung bình khoảng tám người đàn bà một năm chứ nhiều nhõi gì. Có phải vậy không?”

Nhưng lối sống đó của anh bị vướng víu khá nhiều từ khi Tereza về chung sống dưới cùng mái nhà. Anh phải rút ngắn những cuộc truy hoan lại trong khoảng thời gian thật eo hẹp (từ phòng mổ về nhà.) Anh tận dụng khoảng thời gian đó như người cày ruộng miền núi tận dụng dải đất nhỏ bé của mình. Bởi thế không thể so sánh với bây giờ khi anh đột nhiên có đến mười sáu tiếng đồng hồ mỗi ngày. (Tôi nói mười sáu tiếng bởi suốt tám tiếng lau chùi cửa sổ lúc nào bên cạnh anh cũng xôn xao những cô gái bán hàng, những bà nội trợ, những nữ nhân viên làm việc văn phòng mà mỗi người là một đối tượng cho những cuộc mây mưa.)

Anh tìm kiếm gì ở đàn bà? Cái gì cuốn hút anh? Phải chăng làm tình chẳng qua chỉ là hành động lặp đi lặp lại đến vô tận duy nhất một động tác?

Hoàn toàn không. Khi nhìn đàn bà, anh tự nhiên cho trí óc tưởng tượng lôi kéo vẽ vời trong đầu hình ảnh người đàn bà đó nếu khỏa thân sẽ ra sao (kinh nghiệm bác sĩ bổ sung kinh nghiệm người tình.) Nhưng mấp mé giữa sự phỏng đoán của ý tưởng và thực tế chính xác, hiện hữu kẽ hở nhỏ không cho phép óc tưởng tượng len lỏi chui vào, và chính kẽ hở đứt đoạn này khiến anh tìm kiếm không ngừng. Và rồi, cuộc chạy đuổi theo cái bóng tưởng tượng không dừng lại lúc thân thể người đàn bà bị lột trần; nó tiếp tục đi xa hơn: Lúc cởi quần áo, cử chỉ cô như thế nào? Miệng cô thốt những câu gì trong lúc làm tình với anh? Tiếng cô rên xiết ra sao? Lúc đạt đến tuyệt đỉnh ái ân khuôn mặt cô bị méo mó như thế nào?

Sự cá biệt của “cái tôi” trong mỗi con người ẩn giấu ở phần không ai tưởng tượng được về người đó. Chúng ta chỉ có thể tưởng tượng ra những phần tương tự người nào cũng có như nhau. “Cái tôi” cá biệt tách rời cá nhân ra khỏi đám đông. Nó là phần không ai có thể đoán chừng hay suy tính mà nhìn xuyên thấu được. Muốn biết phải vén lên, phải lật ra, phải chinh phục.

Suốt mười năm trong ngành y tế, Tomas chuyên về não bộ. Anh biết rất rõ không gì khó khăn hơn làm thế nào nắm bắt được “cái tôi” trong con người. Giữa Hitler và Einstein hoặc giữa Brezhnev và Solzhenitsyn có nhiều tương đồng hơn là tương dị. Dùng con số, chúng ta có thể phán bên cạnh một phần triệu phần khác biệt có chín trăm chín mươi chín ngàn chín trăm chín mươi chín phần giống nhau.

Khát vọng muốn khám phá và chiếm đoạt cái một phần triệu đó ám ảnh Tomas. Đối với anh đây mới là trọng điểm nỗi ám ảnh. Anh bị ám ảnh bởi cái gì nơi người đàn bà không trí óc tưởng tượng nào khám phá nổi, nói cách khác, cái một phần triệu khiến người đàn bà này khác tất cả đàn bà khác.

(Ở đây, có lẽ, lòng say mê nghề giải phẫu và đam mê đàn bà trong anh nhập làm một. Ngay cả với những cô tình nhân, anh không buông con dao mổ tưởng tượng của anh xuống được. Bởi anh khao khát muốn sở hữu cái gì nằm sâu trong họ, anh cần mổ banh họ ra.)

Dĩ nhiên, chúng ta có thể đặt câu hỏi tại sao anh cắc cớ muốn tìm kiếm cái phần một triệu đó trong thú vui xác thịt mà không ở những thứ khác. Tại sao anh không chịu tìm nó nơi dáng điệu, tài nội trợ hay trình độ thưởng ngoạn nghệ thuật của người nữ?

Hẳn nhiên, cái tương dị một phần triệu đó hiện hữu mọi ngõ ngách trong đời sống con người, nhưng ở những phần khác ngoài phạm vi tình dục, nó phơi bày trước mắt mọi người và chẳng cần ai cất công tìm tòi khám phá, nó không đòi hỏi phải có con dao mổ trong tay. Người đàn bà này thích ăn phó mát sau bữa ăn, người khác ghét su-lơ, và mặc dù qua đó mỗi người phô bày cá tính mình nhưng đó là cá tính không quan hệ, nó chẳng phóng ra tín hiệu nào bắt chúng ta phải chú tâm tìm hiểu.

Chỉ trên lãnh vực tình dục, cái tương dị một phần triệu kia trở nên quý giá, bởi muốn có nó người ta phải bỏ công đi chinh phục. Năm sáu mươi năm trước đây, những cuộc săn đuổi như vậy rất tốn kém thì giờ (nhiều tuần, có khi nhiều tháng), và thời gian chinh phục càng dài kết quả càng đáng giá. Ngay cả thời nay, mặc dù thời gian bỏ ra cho cuộc chinh phục giảm thiểu đi nhiều lắm nhưng tình dục vẫn là cái hộp cứng bí ẩn chứa “cái tôi” của người đàn bà.

Vì thế, lí do khiến Tomas theo đuổi đàn bà chính là lòng khao khát muốn sở hữu toàn thể thế giới (mổ banh thế giới bằng con dao mổ) chứ không phải dục vọng lạc thú (lạc thú là phần thưởng phụ trội kèm theo.)


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx