sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Giao Lộ Sinh Tử - Chương 31 - 32 - 33

CHƯƠNG 31

Vật dụng trong nhà tôi tận dụng lại từ trong kho (lồi lõm và xơ xác đến mức không thể đáp ứng tiêu chuẩn của các cửa hàng giá rẻ đã bán đồ cho Stormy), mấy quyển sách bìa mềm nằm ngay ngắn trên những cái kệ làm bằng gạch và ván chồng lại, ảnh đóng khung của nhân vật Quasimodo do Charles Laughton thủ vai, Hamlet do Mel Gibson đóng và ET trong bộ phim cùng tên (ba nhân vật hư cấu tôi đồng cảm vì nhiều lí do), tấm bìa cứng hình Elvis không ngớt mỉm cười…

Từ ô cửa để mở nơi tôi đang đứng, mọi thứ xem ra vẫn như lúc tôi rời nhà đi làm sáng thứ Ba.

Cánh cửa được khóa và không có dấu hiệu bị bẻ khóa đột nhập. Đảo quanh căn hộ, tôi để ý thấy không cửa sổ nào vỡ toang.

Hiện giờ tôi giằng co giữa việc để cửa mở nhằm dễ dàng chạy thoát nhanh chóng hay khóa cửa lại ngăn kẻ nào đó lẻn vào sau tôi. Sau một hồi do dự, tôi lặng lẽ đóng cửa và cài then.

Ngoại trừ tiếng rúc và gù của một con cú thỉnh thoảng lọt qua hai khung cửa sổ có lưới ngăn tôi để mở cho thông thoáng thì sự im ắng bao trùm sâu rộng đến mức trong bếp, một giọt nước rơi từ vòi xuống bồn rửa kêu tỏng cũng làm rúng động màng nhĩ của tôi.

Có kẻ muốn tôi nhặt súng lên nhưng tôi dễ dàng cưỡng lại sức cám dỗ đó và bước qua thứ vũ khí ấy.

Một trong những lợi ích của việc sống trong căn phòng đơn lẻ, ghế bành cách giường vài bước, giường cách tủ lạnh vài bước, đó là cuộc khám xét tìm kẻ đột nhập diễn ra chưa đến một phút. Huyết áp không có thời gian vọt lên tới mức gây đột quỵ khi chỉ cần liếc ra sau tràng kỷ và nhìn vào tủ đồ một ngăn là quét qua hết mọi chỗ có thể ẩn nấp.

Chỉ duy nhất phòng tắm vẫn chưa lục soát.

Cửa đóng. Tôi đã để mở nó.

Sau khi tắm, tôi luôn để cửa mở, vì phòng tắm chỉ có một cửa sổ nhỏ, không lớn hơn họng đại bác là mấy, và một cây quạt hút gió khuấy động không khí gây ra tiếng ồn tương đương cái trống trong tay nhạc công thể loại rock hạng nặng. Nếu không để cửa mở, phòng tắm sẽ nồng nặc mùi ẩm mốc và hơi người, và từ đó về sau chắc tôi phải tắm trong bồn rửa nhà bếp.

Rút điện thoại từ thắt lưng ra, tôi cân nhắc chuyện gọi cảnh sát trình báo vụ đột nhập.

Nếu cảnh sát đến mà không tìm thấy ai trong phòng tắm, tôi sẽ thành thằng khờ. Và viễn cảnh nảy ra trong đầu khiến tôi thấy mình có thể còn tệ hơn cả thằng khờ.

Tôi liếc nhìn khẩu súng trên sàn nhà. Nếu nó được đặt với sự tính toán cẩn thận, với mục đích mong tôi nhặt lên thì tại sao có kẻ muốn tôi giữ nó?

Sau khi để điện thoại lên bàn điểm tâm, tôi bước đến nép vào một bên cửa phòng tắm và dỏng tai nghe ngóng. Những âm thanh duy nhất là bài ca định kì của con cú và tiếng tỏng của một giọt nước khác rơi xuống bồn rửa trong bếp sau hồi lâu ngưng bặt.

Quả đấm ở cửa xoay tròn không chút khựng lại. Cánh cửa mở vào trong.

Có kẻ đã bật đèn.

Tôi chăm chỉ tiết kiệm điện. Chi phí có thể chỉ vài đồng lẻ nhưng một đầu bếp chế biến thức ăn nhanh đang chờ kết hôn không thể để đèn sáng hay bật sẵn nhạc nhằm mua vui cho lũ nhện hay những linh hồn có thể ghé thăm nhà anh trong lúc anh đi vắng.

Cánh cửa rộng mở, phòng tắm nhỏ tí không có chỗ cho kẻ đột nhập ẩn nấp ngoại trừ cái bồn tắm, phía sau tấm màn giăng ra.

Bao giờ tôi cũng giăng màn ra sau khi tắm vì nếu lùa hết sang một bên, màn sẽ không khô hẳn trong cái không gian kém thông thoáng này. Nấm mốc sẽ lập tức tiến hành công việc cai quản trong các nếp gấp ẩm ướt.

Từ lúc tôi rời nhà vào sáng thứ Ba có kẻ đã kéo màn qua một bên. Kẻ đó hay một kẻ khác lúc này đây đang ụp mặt trong bồn tắm.

Hắn ta xem ra đã ngã hoặc bị đẩy vào bồn như một xác chết. Chẳng người sống nào lại nằm trong tư thế khó chịu như vậy, mặt đè lên lỗ thoát nước, cánh tay phải bị vặn ra sau người theo góc độ uốn khúc cho thấy phần vai trật khớp hay thậm chí cơ xoay cổ tay đã đứt lìa.

Mấy ngón tay trên bàn tay phơi trần nhợt nhạt đã quặp lại cứng đờ. Chúng không co giật, cũng không run rẩy.

Dọc theo thành bồn đằng kia, một đốm máu nhỏ đã khô trên bề mặt sứ.

Khi máu đổ tràn trề, bạn có thể ngửi thấy, không chỉ mùi tanh của máu tươi mà nó phảng phất dai dẳng và đáng sợ. Tôi không thể dò ra chút xíu mùi đó ở đây.

Một vệt xà phòng nước long lánh trên bệ đá lát quanh bồn và lớp bọt xà phòng dày sâu trong chậu cho thấy tên sát nhân rửa tay kỹ sau khi thực hiện hành vi, chắc để cọ sạch máu hay dấu vết thuốc súng.

Lau khô xong, hắn ném khăn vào bồn. Khăn phủ lên gáy nạn nhân.

Không mục đích rõ ràng, tôi lùi ra khỏi phòng tắm, đứng ngay ngoài cánh cửa để mở.

Tim tôi đập theo nhịp không tương xứng với giai điệu của con cú.

Tôi liếc về phía khẩu súng trên thảm, ngay bên trong cửa chính. Sự miễn cưỡng theo bản năng khiến tôi không chạm vào thứ vũ khí ấy đã chứng tỏ sự sáng suốt, dù tôi vẫn chưa nắm rõ toàn bộ ý nghĩa của sự việc đã diễn ra ở đây.

Điện thoại di động của tôi để trên bàn điểm tâm, còn điện thoại nhà nằm ở bàn cạnh giường. Tôi cân nhắc xem nên gọi ai và ai tôi có thể gọi. Chẳng chọn lựa nào có vẻ hấp dẫn.

Để hiểu rõ tình hình hơn, tôi cần nhìn mặt tử thi.

Tôi trở vào phòng tắm, cúi xuống bồn. Né tránh những ngón tay co quắp và vặn vẹo, tôi túm lấy quần áo của hắn và vất vả đôi chút mới đẩy được người đàn ông đã chết ấy nghiêng sang một bên rồi sau đó lật ngửa ra.

Cái khăn trượt xuống khỏi mặt hắn.

Vẫn màu xám bạc thếch nhưng giờ đây không còn vẻ thích thú kì quái đặc trưng, cặp mắt Bob Robertson dồn sang phần chết hơn hẳn phần sống. Ánh mắt trợn trừng dán chặt vào tầm nhìn xa xôi như thể trong khoảnh khắc tồn tại sau cuối, hắn đã thấy thứ gì đó gây sửng sốt và khiếp đảm hơn hẳn diện mạo tên sát nhân.

CHƯƠNG 32

Trong chốc lát tôi chờ đợi Gã Nấm nháy mắt, nhe răng cười nham nhở, chộp lấy và lôi tôi vào bồn tắm với gã, cắn tôi bằng hàm răng đã phụng sự rất tốt cho gã trong cơn háu ăn tại quầy phục vụ ở Quán Vỉ nướng Pico Mundo.

Cái chết bất ngờ của gã khiến không còn kẻ tàn bạo nào trước mắt tôi, kế hoạch của tôi trật chìa và chủ đích của tôi lung lay. Tôi cứ ngỡ là gã tay súng điên khùng bắn những người bị hại trong giấc mơ tái diễn của tôi chứ không đơn thuần là một nạn nhân khác. Robertson chết, mê cung không còn Nhân ngư để tôi theo dấu và tiêu diệt.

Gã bị bắn một phát vào ngực ở vị trí gần đến mức tôi có cảm tưởng là họng súng đã ấn vào người. Trên áo gã có vệt loe cháy sém màu nâu xám.

Vì tim ngừng đập tức thì nên chỉ có chút máu từ cơ thể rỉ ra.

Một lần nữa tôi rút lui khỏi phòng tắm.

Tôi gần như đã đóng sát cửa lại. Và rồi tôi có ý nghĩ kì lạ biết đâu đằng sau cánh cửa khép kín, mặc cho trái tim vỡ toạc, Robertson sẽ lẳng lặng nhổm dậy từ bồn tắm và đứng đợi, thình lình đánh úp khi tôi trở vào.

Gã đã chết ngắc, và tôi biết gã chết rồi, thế mà những lo lắng vô lí kiểu ấy làm dây thần kinh của tôi thắt lại.

Để cửa phòng tắm vẫn mở, tôi bước đến bồn rửa trong bếp và rửa tay. Sau khi lau khô bằng khăn giấy, suýt chút tôi đã rửa lại lần nữa.

Dù chỉ đụng vào quần áo của Robertson nhưng tôi cứ cảm giác tay mình đầy mùi chết chóc.

Nhấc ống nghe ra khỏi điện thoại treo tường, tôi vô tình làm nó đập lách cách vào giá đặt, suýt đánh rơi. Đôi tay tôi đang run bần bật.

Tôi lắng nghe tín hiệu chờ quay số.

Tôi đã biết số cảnh sát trưởng Porter, không cần tìm kiếm.

Cuối cùng tôi gác điện thoại trở lại mà chưa hề bấm đến một số trên bàn phím.

Tình hình đã làm thay đổi mối quan hệ thân thiết thoải mái của tôi với cảnh sát trưởng. Một người chết chờ được phát hiện trong căn hộ của tôi. Khẩu súng giết gã cũng ở đây.

Trước đó tôi lại trình báo một cuộc đụng độ đáng lo ngại với nạn nhân tại nhà thờ St. Bartholomew. Và cảnh sát trưởng biết tôi đã vào nhà Robertson một cách bất hợp pháp lúc chiều thứ Ba, và điều đó cho gã Robertson lí do đối đầu với tôi.

Nếu khẩu súng này là của Robertson, giả thiết rõ ràng nhất bên phía cảnh sát sẽ là gã đến đây nằng nặc muốn biết tôi làm gì trong nhà gã và có thể đe dọa tôi. Họ sẽ nghĩ tôi và gã cãi cọ, dẫn đến ẩu đả và tôi bắn gã bằng súng của chính gã nhằm tự vệ.

Cảnh sát sẽ không cáo buộc tôi tội giết người hay ngộ sát. Có thể họ còn không bắt giữ để tra hỏi.

Song nếu khẩu súng này không phải của Robertson, tôi sẽ kẹt cứng như chuột trên bẫy keo dính.

Ông Wyatt Porter hiểu tôi quá rõ nên sẽ không tin tôi có thể giết người kiểu máu lạnh, khi mạng sống tôi không lâm nguy. Là cảnh sát trưởng, ông bố trí người hoạt động và đưa ra các quyết định quan trọng về thủ tục, nhưng ông đâu phải cảnh sát duy nhất trong lực lượng. Những người khác sẽ không nhanh chóng tuyên bố tôi vô tội trong tình huống đáng ngờ này, và nếu không vì lí do gì ngoài việc giữ thể diện, cảnh sát trưởng có thể phải giam tôi lại một ngày, đến khi ông tìm ra cách giải quyết vấn đề theo hướng có lợi cho tôi.

Trong tù, tôi sẽ an toàn tránh khỏi tai ương đẫm máu đang giáng xuống thị trấn Pico Mundo, nhưng tôi sẽ không ở vào đúng vị trí dùng năng lực ngăn chặn thảm kịch. Tôi không thể hộ tống chị Viola cùng hai con chị từ nhà đến nơi nương náu an toàn hơn ở chỗ em gái chị. Tôi không thể tìm cách thuyết phục gia đình Takuda thay đổi kế hoạch ngày thứ Tư của họ.

Tôi đã hi vọng bám theo bọn ông kẹ đến địa điểm tội ác sắp xảy ra khi sáng thứ Tư chuyển dần sang trưa, khi sự việc dường như được định đoạt sẽ xảy ra. Các linh hồn tà tâm kia sẽ tụ tập trước lúc đổ máu. Có thể cho tôi đủ thời gian để thay đổi số phận tất cả những ai không hề hay biết mình đang đi đến cái chết tại một nơi đến giờ vẫn còn là ẩn số.

Thế nhưng Odysseus bị xiềng xích không thể dẫn đường trở về Ithaca.

Tôi nhắc đến câu ám chỉ văn vẻ này chỉ vì tôi biết Ozzie “bé” sẽ buồn cười chuyện tôi cả gan dám ví mình như một vị anh hùng vĩ đại trong cuộc chiến Trojan.

“Cho câu chuyện một văn phong tươi sáng hơn mức em nghĩ nó xứng đáng, cậu em thân mến ạ. Bởi lẽ em sẽ không tìm thấy chân lí của cuộc sống trong tình trạng u tối, chỉ tìm thấy trong hi vọng thôi”, anh đã chỉ dẫn như thế trước khi tôi bắt tay vào viết.

Lời hứa tuân theo hướng dẫn ấy trở nên khó thực hiện hơn khi câu chuyện của tôi diễn tiến đến lúc xuất hiện súng ống. Tươi sáng lùi ra xa và u tối kéo đến. Để làm vừa lòng chàng thi sĩ to lớn có sáu ngón tay, tôi phải dùng mánh lới như chêm vào một câu trong truyện Odysseus nói trên.

Quyết định rằng không thể tìm cảnh sát trưởng Porter nhờ giúp đỡ vào những hoàn cảnh thế này, tôi tắt hết đèn trừ một ngọn trong phòng tắm. Tôi không thể ở trong bóng tối hoàn toàn với cái xác, vì tôi cảm thấy, cho dù đã chết, gã vẫn có thể gây bất ngờ cho tôi.

Trong không gian lờ mờ, tôi nhanh chóng tìm ra đường đi xuyên suốt căn phòng bừa bộn một cách đầy tự tin như thể tôi bị khiếm thị bẩm sinh và lớn lên ở đây từ khi lọt lòng.

Tại một khung cửa sổ trước nhà, tôi quay cần điều khiển để mở rèm cửa Levolor.

Bên phải, tôi nhìn thấy những bậc cầu thang trong ánh trăng được các khe của rèm cửa chia thành nhiều lát. Không có ai tiến lên nhà tôi.

Ngay phía trước là con đường, nhưng do mấy cây sồi chen ngang nên tầm nhìn không thông suốt. Tuy nhiên giữa các nhánh cây, tôi có thể thấy phố Marigold Lane và chắc rằng không chiếc xe nào khả nghi đậu ở lề đường từ lúc tôi về tới.

Xét bằng chứng thì tôi không bị theo dõi sít sao, vậy mà tôi cứ cảm thấy nhất định kẻ thủ tiêu Bob Robertson sẽ trở lại. Khi chúng biết tôi đã về nhà và phát hiện ra cái xác, chúng sẽ khử luôn cả tôi và làm cho vụ ám sát đôi trông giống như giết-người-rồi-tự-tử, hoặc có thể chúng sẽ gọi điện thoại nặc danh cho cảnh sát và đẩy tôi vào cái xà lim mà tôi kiên quyết tránh xa.

Nghĩ tới đó, tôi hiểu ra vụ dàn cảnh.

CHƯƠNG 33

Sau khi đóng rèm Levolor ở cửa sổ lại, tắt đèn, tôi đi đến tủ ngăn kéo đặt gần giường. Trong căn phòng đơn này có thể tìm thấy mọi thứ ở gần giường, kể cả tràng kỷ và lò vi ba.

Ở ngăn kéo cuối của cái tủ, tôi cất bộ mền gối dự trữ duy nhất của mình.

Dưới bao gối, tôi tìm thấy khăn trải giường đã ủi thẳng thớm và xếp gọn gàng.

Tuy chắc rằng tình hình đáng để hi sinh bộ mềm gối xịn nhưng tôi vẫn tiếc phải bỏ cái khăn trải giường đó. Mền gối bằng vải bông gia công khéo đâu có rẻ, và tôi còn hơi dị ứng với rất nhiều loại sợi vải tổng hợp thường dùng may những mặt hàng này.

Vào phòng tắm, tôi trải tấm khăn ra sàn.

Đã chết queo nên cần gì quan tâm đến rắc rối của tôi, chẳng thể trông mong Robertson có thể khiến việc tôi làm dễ dàng hơn; thế nhưng, tôi ngạc nhiên khi gã không chịu để bị lôi ra khỏi bồn tắm. Đây không phải lực phản kháng chủ động của địch thủ có ý thức mà là sự chống cự thụ động của xác chết thẳng đơ.

Gã cứng ngắc và khó xoay chuyển như một chồng tấm ván đóng chung vào góc nghiêng kì quái.

Bất đắc dĩ, tôi đặt tay lên mặt gã. Gã lạnh hơn tôi tưởng.

Có lẽ cần điều chỉnh hiểu biết của tôi về những sự kiện trong đêm. Theo một cách không cân nhắc, tôi đã đặt ra những giả định mà tình trạng của Robertson không xác thực điều đó.

Để biết sự thật, tôi phải khám nghiệm gã kỹ hơn. Vì gã nằm úp mặt trong bồn khi tôi phát hiện ra, trước lúc tôi lật gã lên nên giờ tôi cởi nút áo gã ra.

Trong tôi trào lên nỗi ghê tởm và ác cảm, tôi đã lường trước điều đó nhưng chưa chuẩn bị tinh thần cho cảm giác ghét cay ghét đắng cái hành động gần gũi gây ra cơn buồn nôn.

Mấy ngón tay tôi đầm đìa mồ hôi. Những nút áo bề mặt như ngọc trai cứ trơn tuột đi.

Tôi liếc nhìn gương mặt Robertson, cảm giác ánh mắt trợn trừng của gã chuyển hướng tập trung từ cảnh tượng nào đó tận thế giới bên kia sang đôi tay lóng ngóng của tôi. Dĩ nhiên vẻ mặt bàng hoàng và hãi hùng của gã không thay đổi, và gã tiếp tục nhìn chăm chăm vào thứ gì đó nơi âm phủ chia cách thế giới này với thế giới kia.

Môi gã hơi hé mở, như thể bằng hơi thở cuối cùng, gã chào đón Tử thần hay thốt ra lời cầu xin không được đáp lại.

Nhìn mặt gã chỉ khiến nỗi bất an của tôi càng tệ hơn. Khi hạ thấp đầu, tôi hình dung cặp mắt gã lần theo hướng di chuyển sự chú ý của tôi sang mấy cái nút áo ngoan cố. Nếu cảm giác một luồng hơi thở hôi thối phả lên trán, chắc tôi sẽ hét lên, nhưng không lấy đó làm ngạc nhiên.

Chưa tử thi nào khiến tôi rùng mình dữ dội như thi thể này. Đa phần, những người chết mà tôi có mối liên hệ đều là hồn hiện lên, và tôi thừa biết vẻ nhếch nhác về mặt sinh học của cái chết.

Lần này, tôi khổ sở với mùi hôi và cảnh tượng bắt đầu thối rữa thì ít mà khó chịu do những điểm quái dị trên thân thể người chết thì nhiều, chủ yếu là nét đặc trưng giống loài nấm tơi xốp bộc lộ rõ khi gã còn sống, và còn bởi đam mê bất bình thường của gã, thể hiện ở những xấp tài liệu, với việc tra tấn, giết người tàn bạo, chặt chân tay, chém đầu và ăn thịt người.

Cởi xong cái nút cuối cùng, tôi banh áo gã ra.

Vì gã không mặc áo may ô bên trong nên lập tức tôi thấy ngay tình trạng tím bầm hiện rõ. Sau khi chết, máu lắng qua các mô xuống những điểm dưới cùng trong cơ thể, khiến những vùng đó có biểu hiện tím bầm trầm trọng. Bộ ngực bèo nhèo và cái bụng phệ của Robertson vằn vện, xỉn màu và ghê rợn.

Da lạnh ngắt, người cứng đờ, sự bầm tím rõ rệt cho thấy gã đã chết không phải cách đây một hai tiếng mà lâu hơn nhiều.

Sức nóng trong căn hộ của tôi đã đẩy nhanh tiến trình phân hủy cái xác nhưng không đến mức này.

Rất có khả năng, tại nghĩa trang nhà thờ St. Bart, khi Robertson làm động tác khiếm nhã lúc tôi từ trên tháp chuông nhìn xuống, gã đã hết là người sống mà thành ma hiện hồn.

Tôi cố nhớ xem Stormy có thấy gã không. Khi ấy nàng đang khom người lấy phô mai và bánh quy trong giỏ mây ra. Tôi vô tình hất chúng văng khỏi tay nàng, rơi vung vãi ra lối đi hẹp…

Không. Nàng không thấy Robertson. Lúc nàng ngẩng lên và tựa lan can ngó xuống nghĩa trang, gã đã đi mất.

Giây lát sau, khi tôi mở cửa chính của nhà thờ và bắt gặp Robertson đang đi lên mấy bậc thang thì Stormy đứng phía sau tôi. Tôi đóng sập cửa và hối hả kéo nàng ra khỏi tiền sảnh, đi vào gian giữa, hướng đến trước bệ thờ.

Trước khi đến nhà thờ St. Bart, tôi đã thấy Robertson hai lần ở chỗ Ozzie “bé” tại Jack Flats. Lần đầu, gã đứng trên vỉa hè trước ngôi nhà, lần thứ hai ở sân sau.

Không lần nào Ozzie ở vào thế có thể chứng thực kẻ viếng thăm ấy là một người có thật, còn sống.

Từ chỗ nằm trên bậu cửa sổ, Terrible Chester đã thấy gã này ở hàng rào trước nhà và phản ứng gay gắt. Nhưng điều ấy đâu có nghĩa Robertson xuất hiện tại đó bằng xương bằng thịt.

Rất nhiều dịp, tôi chứng kiến chó mèo có phản ứng đối với sự hiện diện của linh hồn, dù chúng không thấy ông kẹ. Thông thường động vật không phản ứng bằng kiểu dữ dội mà chỉ theo một cách tinh vi khó thấy; chúng dường như không mặn mà với các hồn ma.

Hành vi thù địch của Terrible Chester có lẽ là phản ứng không phải đối với việc Robertson là ma hiện hồn mà nhằm vào sự xấu xa toát ra không dứt nơi gã, đặc trưng của gã lúc còn sống lẫn khi đã chết.

Bằng chứng cho thấy lần cuối cùng tôi thấy Robertson còn sống là khi gã rời ngôi nhà ở Camp’s End, ngay trước lúc tôi cạy khóa, vào trong và phát hiện căn phòng tối đen.

Gã ám tôi từ lúc ấy, đầy tức tối. Như thể đổ lỗi cho tôi về cái chết của gã.

Tuy bị giết trong căn hộ của tôi nhưng chắc hẳn gã biết tôi không phải kẻ bóp cò súng. Đối mặt với tên sát nhân, gã bị bắn từ khoảng cách không quá vài phân.

Gã và tên sát nhân làm gì trong nhà tôi, tôi không thể hình dung. Tôi cần thêm thời gian và tình hình yên ổn hơn để suy nghĩ.

Chắc bạn nghĩ linh hồn giận dữ của gã trốn trong phòng tắm hay gian bếp nhà tôi, đợi tôi về, hăm hở hù dọa và quấy rối tôi như lúc ở nhà thờ. Bạn nhầm rồi vì bạn đã quên những linh hồn chưa yên nghỉ còn vất vưởng tại thế giới này vì họ không chấp nhận sự thật rằng họ đã chết.

Theo kinh nghiệm đáng kể của tôi, điều họ ít muốn làm nhất là quanh quẩn bên thi thể chính mình. Không gì gợi nhớ bi đát hơn về sự qua đời của một người bằng cái xác mục nát của người đó.

Trước thân xác không còn sự sống của chính mình, các linh hồn cảm nhận thêm mãnh liệt sự thôi thúc cần hoàn tất mọi việc nơi thế giới này và đi tiếp sang thế giới bên kia, một điều ép buộc mà họ kiên quyết cưỡng lại. Có thể cuối cùng Robertson sẽ ghé thăm nơi lìa đời của gã nhưng phải đến khi xác gã đã được đem đi và mọi vết máu đã được tẩy sạch.

Điều đó tiện cho tôi. Tôi không cần trò la ó rùm beng kết hợp với chuyến thăm viếng của một linh hồn giận dữ.

Vụ cố ý hủy hoại phòng để đồ thờ tại nhờ thờ St. Bart không phải việc làm của người sống. Hành động tàn phá đó được thực hiện bởi một hồn ma tà tâm và điên cuồng theo đúng kiểu yêu tinh.

Trước đây, tôi đã mất một dàn nhạc mới, một cây đèn, một máy radio có đồng hồ, một cái ghế đẩu cao đẹp đẽ và vài cái đĩa khi một con yêu như thế nổi trận lôi đình. Đầu bếp phục vụ thức ăn nhanh không đủ sức nghênh tiếp những vị khách đó.

Đây là một nguyên do vì sao đồ đạc trong nhà tôi là phế phẩm của cửa hàng giá rẻ. Càng có ít chừng nào thì càng mất ít chừng đó.

Tôi xem xét tình trạng tím bầm trên bộ ngực bèo nhèo và cái bụng phệ của Robertson, nhanh chóng đưa ra suy luận đã đề cập ở trên và cố cài nút áo gã lại mà không nhìn thẳng vào vết đạn. Sự hiếu kì không tốt đã thắng thế.

Trên bộ ngực thâm tím mềm nhũn, lỗ thủng nhỏ nhưng tả tơi, ươn ướt, và kì lạ là tôi không lập tức che nó lại nhưng cũng không muốn nhìn kỹ hơn.

Cơn buồn nôn bò lê trên thành dạ dày của tôi và trườn mỗi lúc một nhanh hơn. Tôi cảm giác như thể mình trở về năm bốn tuổi, mắc phải trận cúm nguy hại, phát sốt và là người đang nhìn chòng chọc xuống ruột gan của thi thể chính mình.

Vì bấy nhiêu thứ bừa bộn cần dọn sạch đã đủ quá rồi, chẳng cần tái hiện vụ nôn mửa cuối cùng đi vào lịch sử của Elvis nên tôi nghiến răng, trấn áp thức ăn trong bụng và cài hết nút áo Robertson cho xong.

Chắc chắn tôi biết cách xem xét tình trạng tử thi hơn người bình thường, nhưng tôi không phải chuyên gia pháp y. Tôi không thể xác định đúng đến từng giờ thời điểm mất mạng chính xác của Robertson.

Lập luận cho thấy giờ tử vong vào khoảng năm giờ rưỡi đến bảy giờ bốn mươi lăm. Suốt khoảng thời gian đó, tôi lục lọi ngôi nhà ở Camp’s End của gã và khám phá căn phòng tối đen, chở Elvis tới bữa tiệc nướng tại nhà cảnh sát trưởng rồi chở Elvis đến nhà thờ, và thơ thẩn một mình đến nhà Ozzie “bé”.

Cảnh sát trưởng Porter và khách khứa của ông có thể xác minh nơi tôi có mặt trong một phần khoảng thời gian đó, nhưng không tòa án nào chấp thuận tuyên bố rằng hồn ma của Elvis có thể cho tôi chứng cớ ngoại phạm trong khoảng thời gian kia.

Khả năng lâm nguy của tôi trở nên rõ ràng hơn vào lúc đó, và tôi biết thời gian đang cạn dần. Khi tiếng gõ cửa rốt cuộc sẽ vang lên, đó rất có thể là cảnh sát đến theo lời mách nước của một kẻ nặc danh.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx