sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

10. Thủy Táng (Hồng Nhung) - Phần 2

Nói xong Vũ tuột xuống mấy nấc thang. Chàng thấy một đám người bu quanh lấy bà Quốc. Người đàn bà mặt xám ngắt, nằm nghẻo đầu sang một bên. Ông Quốc nắm tay vợ khóc sướt mướt. Hai đứa nhỏ cũng gào thét bên mẹ. Bên cạnh, bác sĩ Tường buông cổ tay bắt mạch cho bà Quốc rồi lắc đầu:

- Tim bà ấy ngừng đập rồi!

Ông Quốc mếu máo, nhìn bác sĩ Tường với ánh mắt van lơn:

- Bác sĩ làm ơn làm phước ráng cứu vợ tôi.

Bác sĩ Tường thở dài:

- Trong hoàn cảnh không có dụng cụ, không thuốc men, một chứng bệnh bình thường tôi cũng đành bó tay, huống chi bà ấy đang có thai, bị sóng biển hành đuối sức.

Một bà lên tiếng hỏi:

- Bác sĩ coi kỹ lại đi. Có thể bà ta chỉ ngất xỉu một lúc thôi?

Bác sĩ Tường im lặng. Trong hoàn cảnh này ông cũng chẳng biết phải trả lời làm sao. Một linh mục mặc áo dòng đen, vẹt mọi người ra hai bên rồi chen vào ngồi bên xác người đàn bà xem xét. Đó là cha Tự. Ông Quốc nắm bàn tay lạnh giá của vợ, nhìn cha Tự sụt sùi nói:

- Xin cha làm phép xác cho nhà con!

Cha Tự quỳ gối làm dấu thánh giá rồi cất giọng đọc mấy câu kinh. Những người đi đạo cũng lên tiếng đọc kinh theo cha. Mọi người trong khoang đều cúi đầu mặc niệm.

Buổi chiều hôm ấy, khi những tia nắng cuối cùng của mặt trời còn le lói phía chân trời tây. Mọi người lên trên sàn ghe dự đám thủy táng bà Quốc. Thi thể người đàn bà được đặt nằm ngay ngắn trên sàn, không quan tài, không vải liệm. Chiếc ghe tắt máy, bềnh bồng trôi. Giọng cầu kinh trầm buồn của mọi người vang lên. Xong bài kinh, cha Tự ngước mắt lên trời, cất giọng buồn thảm:

- Lạy Chúa! Xin Chúa hãy đón nhận linh hồn của bà Quốc và đứa hài nhi chưa chào đời, và yên nghỉ nơi nước trời. Người chết đã yên phận, nhưng còn đám thuyền nhân khốn khổ chúng con đây, đang tiếp tục một cuộc hành trình không bờ bến, đầy gian khổ. Xin Chúa hãy đưa chúng con thoát khỏi hiểm nguy mà bình yên đến được bến bờ tự do. A-men!

Lời cầu nguyện trầm buồn của cha Tự khiến nhiều người rơi nước mắt. Cái xác bà Quốc được mấy người đàn ông khiêng lên, đi tới sườn ghe. Ông Quốc và hai đứa con khóc òa lên. Một tiếng “ùm” khô khan. Thân thể người đàn bà bất hạnh nổi dật dờ một lúc như gởi lời vĩnh biệt, rồi chìm sâu dưới làn nước xanh biếc. Nét mặt buồn thảm hiện trên gương mặt của mọi người. Bác sĩ Tường nói vài lời an ủi ông Quốc. Mấy người đàn bà dỗ dành hai đứa trẻ cho chúng nín khóc. Sau đó mọi người lại lục đục kéo nhau xuống khoang ghe với tâm trạng buồn nản.

Hai ngày nữa trôi qua trong lo âu thấp thỏm. Đám thuyền nhân trên ghe bắt đầu nếm mùi cực khổ. Ba can nước trên ghe đã được hạn chế sử dụng đến mức tối đa, chỉ được dùng để nấu cháo vì họ không thể ăn gạo sống được, và ưu tiên cho những đứa bé. Người lớn phải cố chịu đựng và chỉ được thấm môi khi quá khát. Người ta cầu mong có được một trận bão như hôm nào để có nước uống, nhưng quái ác thay trời cứ nóng như thiêu như đốt. Ban ngày mặt trời chói chang hừng hực lửa. Ban đêm những cơn gió hầm hập mang luồng không khí nực nội thổi luồn xuống khoang khiến da thịt mọi người như bị sấy khô đi. Ai nấy đều mang một giấc mơ ước được gặp chiếc tàu buôn nào đó đi ngang vùng biển này, cứu vớt họ.

Bốn ngày nữa lại nặng nề trôi qua. Mưa vẫn không đổ xuống, và ca nước cuối cùng cũng vừa hết, khoang ghe bao trùm bầu không khí nặng nề khó thở. Người ta nằm bẹp trong khoang ghe mệt mỏi, những cặp mắt lo sợ nhìn nhau. Dường như bóng dáng Tử Thần đang lảng vảng quanh đây.

Hưng Sâm, ông thương gia vùng chợ lớn, lả người gối đầu lên chiếc túi da đựng hai trăm cây vàng, và một túi nữ trang, tài sản của vợ chồng ông mang theo trong chuyến vượt biển này. Ông nuốt nước bọt. Chiếc lưỡi khô queo, đắng ngắt của ông không còn một chút nước. Trí óc ông lúc mê, lúc tỉnh. Ông đang tưởng tượng những ly nước đá lạnh trong vắt mà hằng ngày ông vẫn hắt đổ đi sau khi uống thừa. Bây giờ nếu có được, ông sẵn lòng đổi hai trăm cây vàng này để lấy một ly nước lạnh đó cho gia đình ông. Đời thật trớ trêu. Trong cuộc sống thường nhật, ông đâu có ngờ có ngày ông lại lâm vào tình trạng đói khát trong lúc ông đang nắm trong tay bao nhiêu tiền bạc như hôm nay đâu. Hối hận chợt dâng lên trong lòng ông, nếu biết như thế này thì ông không dám bước chân xuống ghe để mạo hiểm.

Màn đêm lại buông xuống. Đại dương lại bao trùm một màn đen ghê rợn. Những đứa trẻ con bắt đầu khóc đòi uống nước. Một đứa bé chừng một tuổi khóc ré lên trong lòng mẹ vì nó khát. Người đàn bà cố nhét vú của mình vào miệng con, nhưng vú chị không còn sữa. Đứa bé nhả vú mẹ ra, khóc lặng người đi. Người đàn bà giàn giụa nước mắt vỗ về con. Tiếng khóc của đứa bé yếu dần, chìm trong những tiếng khóc của những đứa trẻ lớn hơn. Đám cha mẹ của chúng ôm lấy con nghẹn ngào. Rồi những đứa trẻ lại lả người đi.

Đêm dài lại nặng nề trôi qua. Chiếc ghe lâm nạn bồng bềnh trôi. Dưới khoang ghe, cơn đói khát đã bắt đầu hành hạ mọi người. Không còn ai đủ sức ngồi dậy vì mệt lả. Một thanh niên leo lên miệng hầm, lảo đảo đi tới lườn ghe. Vũ ngồi trên sàn ghe, thấy thế vội chạy ra la lớn:

- Anh kia làm gì vậy?

Thanh niên quay lại, mặt thất thần:

- Tôi khát nước quá, muốn lấy nước biển uống.

Vũ trợn mắt:

- Bộ anh điên hả? Nước biển mặn chát, làm sao mà uống?

- Tôi phải uống chứ không còn chịu nổi nữa rồi.

Gã thanh niên nói xong lao mình xuống nước. Vũ nhào tới toan giữ tay anh ta nhưng không còn kịp nữa. Gã thanh niên chới với trong nước. Vũ vội vàng chạy đến đống lưới lấy một sợi dây thừng, quay lại hông ghe để tiếp cứu, nhưng thân hình gã thanh niên biến mất trên mặt biển.

Vũ buồn bã đưa mắt nhìn xuống những đợt sóng biển nhấp nhô đập vào mạn ghe. Mắt anh rưng rưng khi nhớ đến mẹ mình. Chợt Vũ đưa mắt nhìn ra khơi. Xa thật xa, có bóng dáng của hai chiếc ống khói tàu nhô lên khỏi mặt nước, với đám khói đang bay lên cao. Vũ mừng rỡ, chạy vào trong phòng lái lấy cái ống nhòm của lính, nhìn về phía hai chấm đen đang nhả những sợi khói mỏng. Ông Tư tài công đang nằm trên chiếc phản gỗ nơi phòng lái, vội ngồi nhỏm dậy hỏi dồn:

- Có chuyện gì đấy Vũ?

Vũ quan sát thật kỹ, rồi nói:

- Có một chiềc tàu buôn mang cờ Pháp, nhưng nó ở quá xa.

Ông Tư tài công mừng rỡ nói:

- Vậy mình cầu cứu nó đi.

Vũ trả chiếc ống nhòm cho ông Tư tài công rồi nói nhanh:

- Để con đốt lửa làm hiệu.

Vũ cởi phăng chiếc áo thun đang mặc tới chỗ phuy dầu chạy máy được hàn dính trên sàn ghe, mở nắp nhúng chiếc áo thung vào. Một người thanh niên vừa dưới khoang chui lên, cũng cởi chiếc áo mình ra đưa cho Vũ. Hai chiếc áo được bỏ trong chiếc thau nhôm méo mó, đốt lên, nhưng ngọn lửa quá yếu, và bị gió thổi bạt nên khói không bốc nổi lên cao. Gã thanh niên chạy lại nắp hầm khom người nói vọng xuống:

- Mình gặp tàu lớn rồi bà con ơi. Tôi cần thêm một ít quần áo để đốt lửa cầu cứu họ tới vớt mình.

Đám người nằm trong khoang nghe có tàu vớt như được uống thuốc hồi sinh. Họ ngồi nhổm cả dậy. Đám đàn ông vội cởi hết những cái áo đang mặc đưa cho gã thanh niên. Vài người còn sức lực vội leo lên khỏi miệng hầm để xem. Ngọn lửa nhờ có thêm quần áo bùng cháy cao hơn. Khói bay lên trời cuồn cuộn. Vũ hỏi ông Tư tài công:

- Nó tới gần mình chút nào chưa?

Ông Tư tài công nhìn xong, đưa ống nhòm cho Vũ lắc đầu buồn bã:

- Nó quẹo mũi chạy hướng khác rồi.

Vũ dán mắt vào chiếc ống nhòm. Tim chàng bỗng nhói lên khi thấy hai chiếc ống khói tàu mỗi lúc một nhỏ dần rồi khuất dưới mặt biển. Chàng thở dài nói với cha:

- Nếu mình nhìn thấy họ thì chắc chắn họ cũng phải nhìn thấy mình đốt khói chớ. Như vậy có thể là họ bỏ rơi mình rồi. Đám đàn ông trên sàn ghe đang cố tẩm thêm dầu vào những chiếc áo đốt tiếp tục với hy vọng được các tàu khác cứu. Ngọn lửa cháy với ngọn khói đen lại bị gió thổi tạt nằm rạp xuống. Thêm một vài chiếc đầu nữa với gương mặt phờ phạc ló lên khỏi miệng hầm:

- Tàu vớt đâu? Tàu vớt đâu?

Đám người đốt lửa không buồn trả lời. Niềm thất vọng hiện rõ trong ánh mắt họ khi bóng dáng chiếc tàu đã biến mất nơi chân trời xa. Ông Tư tài công, Vũ và đám đàn ông, mặt buồn xo nhìn ngọn lửa bập bùng trên sàn ghe, tàn dần niềm hy vọng mong manh của họ vừa bừng lên đã lịm tắt đi. Đám đàn ông đứng ngó mông lung ngoài mặt biển một lúc, rồi lại chui xuống khoang với nỗi thất vọng. Chợt Vũ nghe có tiếng người la hoảng bên dưới khoang vọng lên:

- Trời ơi! Sao miệng đứa bé toàn máu không vậy nè?

Vũ tụt xuống khoang. Một đám người bu quanh chị đàn bà có đứa con một tuổi, đứa bé nhỏ nhất trong ghe. Chị ta đang cho con bú. Thằng bé mút lấy mút để vú mẹ. Một dòng máu đỏ tràn qua mép đứa bé. Người đàn bà dựa thành khoang ghe, ôm con, đôi mắt nhắm nghiền, khuôn mặt lợt lạt. Bà Thiện vội lay mạnh chị đàn bà:

- Nè chị! Tỉnh dậy mà coi con chị nó sao rồi.

Chị đàn bà không mở mắt. Bà Thiện vội vàng kéo đứa bé ra khỏi lòng mẹ. Mũi và miệng đứa bé ngoe ngoe máu. Mọi người trợn to mắt kinh hãi khi thấy đầu vú người đàn bà có một vết cắn sâu vào thịt. Một cô gái sợ hãi quá la lên:

- Trời ơi! Bà cắn vú cho con uống máu mình nè trời!

Bác sĩ Tường vạch đám đông, chen tới, đặt người đàn bà ngay ngắn, rồi làm động tác hô hấp để cứu tỉnh người đàn bà. Máu ở đầu vú chị ta vẫn ứa ra. Người đàn bà khẽ mở đôi tròng mắt lạc thần nhìn những khuôn mặt lờ mờ đang vây quanh chị. Bác sĩ Tường cúi mặt hỏi chị:

- Tại sao chị làm chuyện dại dột vậy?

Chị đàn bà thều thào:

- Con... tôi nó khát... Tôi... muốn nó còn sống... để gặp tàu vớt.

Chị đàn bà nói xong nhắm nghiền đôi mắt lại. Bàn tay chị lạnh giá từ từ. Dòng máu đỏ trên núm vú chị đã ngưng chảy. Bác sĩ Tường bắt mạch cho nạn nhân rồi lắc đầu thở dài:

- Tim chị ấy ngừng đập rồi!

Có tiếng khóc đâu đây của vài cô gái. Cha Tự cũng có mặt. Cha vội quỳ xuống, làm dấu thánh giá đọc kinh cầu nguyện cho người qua đời. Bà Thiện bế đứa nhỏ, ngơ ngác hỏi chồng:

- Sinh mạng những người trên ghe này đành phó thác cho Trời. Bây giờ mẹ đứa bé đã chết thì trong ghe chúng mình đành phải trông coi nó, chứ biết tính sao bây giờ.

Thằng bé con thấy người lạ bu quanh mình, nó khóc òa lên rồi bò tới bên xác mẹ. Bà Thiện phải kéo đứa bé ra, lau gương mặt dính ngoe ngóet máu của nó.

Vài người đàn ông khiêng xác người mẹ xấu số ra hông ghe. Thêm một thây người nữa được trả về lòng biển. Đám thủy táng chỉ có Vũ, cha Tự, Bác sĩ Tường, ông Quốc và vài người đàn ông còn sức tham dự. Tất cả những người còn lại không đủ sức leo lên miệng hầm nữa. Hết nước, không thể nấu cơm, những nắm gạo sống được phân phát cho mọi người nhấm nháp cầm hơi, nhưng người ta cũng nuốt không nổi khi miệng ai nấy đều khô queo vì không còn nước.

Chiều xuống thật mau. Không gian chuyển sang một màu tối ám. Mặt trời đỏ ối như máu, tròn to như cái mâm, chìm một nửa xuống lòng biển xám. Những dải ánh sáng vàng cam, tím sẫm và xanh biếc còn bịn rịn, le lói ở cuối trời như muốn gởi lời chào từ biệt đám người bất hạnh. Chiếc ghe vẫn bập bềnh nhấp nhô như chiếc lá khô trôi giữa dòng sông. Biển sao lặng lẽ quá. Từng đợt sóng con vỗ nhẹ vào lườn gỗ róc rách.

Trời nóng như một cái lò lửa. Những cơn gió oi ả vẫn lùa xuống khoang, hâm nóng mọi người. Ai nấy đều vã mồ hôi và khát xé cả họng. Vài đứa bé con đã ngất xỉu đi trên tay mẹ chúng. Lại thêm những tiếng khóc thảm thiết của mấy người đàn bà.

Màn đêm buông xuống bao phủ mặt biển bao la. Vài đứa trẻ con co giật thân người, chờ chết bên những cái thân rũ liệt của cha mẹ chúng. Đứa bé mất mẹ lại khóc thét lên vì đói khát, bà Thiện cố nhai miếng gạo sống để mớm cho thằng bé, nhưng miệng bà cũng chẳng còn tí nước bọt nào. Đêm hôm đó đứa bé lả đi, nằm bất động bên cạnh thân xác rã rời của bà Thiện. Mọi người đã quá đuối sức. Chẳng ai trong ghe còn sức lực và tỉnh táo để quan tâm tới đứa bé còn sống hay đã chết. Lác đác trong khoang ghe, những người già không còn sức chịu đựng cũng đang nằm bẹp trên sàn thoi thóp. Nếu không có những lồng ngực còn nhấp nhô thở nhẹ thì người ta tưởng như trong ghe toàn là xác chết, và chiếc ghe trở thành một quan tài nổi đang bồng bềnh trên biển.

Trên sàn ghe, ông Tư tài công đã kiệt sức, nằm lả người trên chiếc phản trong phòng lái. Vũ cố gượng ngồi trên đám lưới canh chừng mặt biển. Dù sao, còn là thanh niên, Vũ vẫn còn sức chịu đựng hơn là mọi người trên ghe. Chàng đưa đôi mắt mệt mỏi nhìn lên bầu trời đen thẫm với hàng triệu vì tinh tú. Ánh sao sáng lấp lánh khi mờ khi tỏ. Chàng không hiểu ngôi sao bản mệnh của chàng và những người khốn khổ trên ghe này nằm ở góc trời nào. Chúng còn sáng hay lu mờ sắp tắt. Đầu óc Vũ như nặng trĩu bởi cơn buồn ngủ dữ dội đang kéo tới. Mắt chàng mờ dần đi và cứ phải chớp liên hồi mới có thể nhìn được cảnh vật. Vũ biết rằng bộ óc chàng thiếu nước. Có chịu đựng giỏi lắm cho tới bình minh ló rạng là chàng sẽ gục chết ở đây.

Vũ đưa lưỡi liếm bờ môi khô, nứt nẻ của chàng. Lưỡi chàng cũng không đủ ướt để làm mềm bờ môi. Cơn gió nóng hầm hập của biển thổi qua khiến Vũ cảm thấy như muốn ngộp thở. Tiếng lao xao của sóng biển đêm như tiếng thì thào than khóc của hàng vạn oan hồn thuyền nhân cũng chỉ vì muốn xa lánh Cộng Sản để tìm một sinh lộ cho gia đình, cho đàn con nhỏ của họ sống trong no ấm và có tương lai mà họ đã ra đi tìm tự do để rồi phải chết chìm vì bão tố hay chết lần mòn giữa biển khơi vì cạn hết lương thực nước uống như chiếc ghe này. Vũ không hiểu thế giới bên kia như thế nào? Thế giới bên kia có những đau khổ, bất hạnh, chiến tranh, chết chóc, và hận thù như thế giới của những người đang sống này hay không? Tự nhiên Vũ cảm thấy tinh thần mình thanh thản lạ thường, một sự bình tĩnh để đón nhận giờ phút cuối cuộc đời. Thôi, nếu không tìm thấy được một mảnh đất tự do để có một hạnh phúc nhỏ nhoi, thì chết nơi lòng biển, Chúa, Phật cũng sẽ dẫn dắt linh hồn đám thuyền nhân bất hạnh này tới vùng đất thiên đàng của các ngài, thế cũng được an ủi lắm rồi.

Chiếc ghe bất hạnh vẫn nổi bồng bềnh trong màn đêm dầy đặc. Gió rít từng hồi. Mặt đại dương đen sẫm như tương lai của biết bao thuyền nhân trong những chuyến hải hành khốn khổ, đi tìm tự do trong lòng biển đêm đầy giông tố, hãi hùng.

Nguyễn Thị Hồng Nhung


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx