sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

30. Trên Đường Tìm Tự Do (Nguyễn Hữu Bào) - Phần 2

Anh Xuân lắc đầu thở dài. Anh Chính dịu dàng giải thích:

- Người ta là ân nhân của chúng ta. Chúng ta nên lịch sự, biết điều và thông cảm cho sự bất đắc dĩ họ mới phải làm thế.

Anh Tròn không có ý kiến gì. Tứ lúc trên tàu anh Tròn lừ đừ ít nói và ít ăn uống. Thấy mọi người im lặng, lo lắng, anh Chính trấn an:

- Tôi đã được xem cái bè rồi. Bè vô cùng vững chắc và rất tốt.

Trong lúc nói chuyện với anh em thủy thủ, chúng tôi mới biết nơi chúng tôi được cứu cách Vũng Tàu năm mươi hải lý. Tàu chạy nhanh như vậy mà hai ngày mới tới vịnh Thái Lan. Từ lúc biết tin chúng tôi sẽ phiêu lưu trên cái bè ai nấy đều lo lắng, hồi hộp, ăn không ngon, ngủ không được. Chúng tôi sống trên tàu được hai ngày. Đến hai giờ sáng ngày 21 tháng 6 các thủy thủ nhắc chúng tôi sửa soạn hành lý. Đến bốn giờ sáng tàu tới Vịnh Thái Lan và chúng tôi sẽ xuống bè tự bơi vào bờ.

Giờ phút thử thách sắp tới. Chúng tôi vô cùng hồi hộp. Hành trang của chúng tôi đã theo thuyền chìm xuống đáy biển. Chúng tôi hoàn toàn trắng tay, sống nhờ lòng tốt của thiên hạ. Tùy anh em thủy thủ nhắc chúng tôi sửa soạn hành lý, nhưng thực ra anh em đã sắp sẵn cho chúng tôi đủ rồi. Một gói gạo chừng năm ký, một cái xô sắt tráng men chứa lưng xô sữa đặc, mấy hộp thịt, mấy hộp cá, hai ổ bánh mì, một lọ thuốc cảm, một gói quần áo, một cái đèn pin, một cây thuốc lá và mấy bao diêm. Anh bếp lén tặng chúng tôi một con dao có bao da rất đẹp. Đúng bốn giờ sáng thì phúc phận đã điểm. Tàu ngừng hẳn, chúng tôi được dẫn lên boong. Cái bè từ từ hạ thủy. Một thủy thủ chỉ tay về phía đèn sáng và bảo chúng tôi: “Đó là ngọn hải đăng. Còn đây là vịnh Thái Lan. Các anh cứ bơi thẳng tới nới có đèn là tới bờ.” Chúng tôi cảm ơn ông thuyền trưởng Và thủy thủ đoàn đã cứu giúp chúng tôi. Giây phút từ giã, anh em còn căn dặn thêm: “Từ giờ phút này các anh hãy quên chúng tôi đi nhé!”

Ánh mắt anh em thủy thủ ai cũng có vẻ ái ngại, băn khoăn, lo lắng cho số phận của chúng tôi. Sau khi bắt tay chào từng người, chúng tôi rụt rè lần bước từng bậc thang xuống cái bè định mệnh.

Chúng tôi vừa bước xuống bè, con tàu từ từ rẽ sóng tiến thẳng. Bè do bốn thùng phuy hàn dính với nhau, kích thước lớn bằng cái chiếu. Trên bốn thùng phuy có một khung sắt. Tấm ván ép đặt lên khung sắt. Bè làm khá vững chắc. Dây cáp cột rất cẩn thận. Trên bè có sẵn bốn cái bơi chèo và một thùng nước ngọt. Đêm tối ánh sáng hải đăng rất rõ. Bốn cái bơi chèo nhịp nhàng khuấy nước. Chúng tôi vững tâm. Trời sáng dần. Hải đăng mờ dần. Khi vừng đông ló dạng, chúng tôi mới biết ngọn núi hải đăng xa lắm, bé tí teo. Ban ngày chúng tôi mới rõ cái bè tuy vững chắc nhưng thất cách. Vì nó hình vuông nên di chuyển rất khó. Cứ bơi ngược ba thước thì sóng đẩy lui lại hai thước. Chúng tôi luôn tay bơi từ sáng đến chiều mà ngọn núi trước mặt vẫn còn xa mờ mịt.

Trời tối hẳn. Hải đăng lại tỏa sáng. Cái bè của chúng tôi cứ dập dềnh như đùa giỡn cùng sóng biển. Bất thần gặp luồng hải lưu cuốn cái bè trôi băng băng về bên tay trái. Ngọn hải đăng cứ lùi dần về bên phải. Một lúc sau chúng tôi không thấy ngọn hải đăng đâu nữa. Chán nản mỏi mệt, chúng tôi kẻ nằm người ngồi bó gối ngủ gục.

Sáng hôm sau, chúng tôi gặp đoàn tàu đánh cá. Có lẽ thấy lạ nên họ đậu quanh chúng tôi. Họ ngắm nhìn hồi lâu rồi bỏ đi. Cùng lúc đó sóng gió đẩy bè trôi gần vào bờ. Chúng tôi lên tinh thần ráng sức bơi. Nhưng khi cách bờ chừng ba trăm mét sóng gió lại kéo bè ra không sao cưỡng lại được.

Bánh mì, đồ hộp sữa đã ăn hết, thùng nước ngọt hai mươi lít uống chỉ còn phân nửa. Đã hai ngày chúng tôi sống trôi nổi trên cái bè kỳ cục. Chiều 23 tháng 6 có một chiếc tàu Thái Lan đánh cá cứu chúng tôi bằng cách họ kéo cái bè vào hoang đảo. Sau này chúng tôi mới biết lúc bấy giờ chính phủ Thái Lan ban hành cấm cứu tàu tị nạn. Vì vậy nên tàu đánh cá không dám cho chúng tôi vào đất liền. Trước khi lên hoang đảo, chúng tôi được chủ tàu cho ăn cơm với cá kho.

Chúng tôi đặt chân lên hoang đảo lúc trời vừa tối. Nằm đất, nằm cát chúng tôi ngủ một giấc ngon lành. Sáng hôm sau mọi người tỉnh dậy mới biết hòn đảo nhỏ xíu, chiều dài chừng ba trăm mét, chiều rộng chừng hai trăm mét. Trên đảo chỉ có cây cỏ dại. May mắn lúc đó vào mùa mưa. Khát, chúng tôi kiếm những tảng đá chũng đựng nước mưa, cúi xuống uống. Cái xô sắt trước đựng sữa đặc, giờ dùng làm nồi cũng tạm được. Gói gạo nấu cháo mười người ăn được hai ngày. Hết gạo chúng tôi xuống bờ biển kiếm những con hào bám vào đá đập lấy ruột ăn.

Sau đó những con hào không còn, chúng tôi không biết lấy gì ăn. Những cây rau dại hoa vàng mọc trên đảo rất nhiều. Anh Xuân bảo đó là rau cúc tần, ăn được. Tôi chả biết rau cúc tần ra sao, nghe anh Xuân nói tôi tin và ra hái liền. Rau cúc tần nấu cháo đắng nghét, nhưng tôi cũng như mọi người cố gắng nuốt. Đêm nào tôi cũng bị đau bụng, tiêu chảy, nhưng ban ngày vẫn phải ăn cháo cúc tần.

Tàu Thái Lan qua lại đánh cá rất nhiều, nhưng không ai thèm để ý đến chúng tôi. Có một đêm hải tặc viếng hoang đảo. Bọn hải tặc lố nhố tới hơn mười tên. Một tên có súng. Còn các tên khác cầm dao, cầm búa. Bọn cướp bắt chúng tôi ngồi tập chung một chỗ. Chúng đốt đuốc sáng rực. Lục soát không có gì đáng lấy. Chả hiểu nghĩ sao bọn cướp lại cho chúng tôi một gói cơm và một con cá nướng khá lớn. Trước khi rút lui, một tên cướp ngứa tay bắn lủng mấy cái thùng phuy dùng làm bè.

Chúng tôi sống trên hoang đảo đã mười ngày. Thấy chờ đợi mỏi mòn, vô vọng, anh Tròn bàn tính:

- Anh Xuân, anh Bào, chú Chính, ba người hãy tìm cách bơi vào đất liền. Đến nơi các anh báo cho chính quyền địa phương cứu gia đình tôi. Nếu tất cả chúng ta đều ở lại chờ đợi hão huyền thì chúng ta sẽ chết đói hết.

Anh Xuân gật đầu, lâp lại lời anh tròn:

- Đúng. Chờ đợi hão huyền chúng ta sẽ chết đói hết.

Anh Chính cũng đồng ý và khen anh Tròn tính như vậy là phải lắm.

Từ hoang đảo tới đất liền tôi thấy khá xa, ước chừng đến mười cây số. Thấy anh Xuân và anh Chính đồng ý với anh Tròn nên tôi nghe theo. Riêng tâm tư tôi không khỏi ngại ngùng. Tôi sợ biển lắm rồi.

Kiếm được hai cây tre khô, chúng tôi cột lại làm phao. Sáng sớm ngày 23-6-1979, Xuân, Chính, Bào từ giã gia đình anh Tròn rồi vác phao hạ thủy. Trước khi chia tay, anh Tròn dặn đi dặn lại: “Tới đất liền các anh nhớ phất cái áo lên cho chúng tôi biết nhé”. Ba người bám vào hai cây tre, tay bơi, chân đạp. Có lúc chúng tôi bơi trong vùng biển san hô cứa đứt cả chân. Có lúc gặp luồng nước biển lạnh ngắt khác thường làm tôi rợn cả người. Trong khi bơi tôi cứ hay nghĩ dại, nếu vô phúc gặp cá mập nó táp cho một miếng là đi đứt cặp giò. Tưởng tượng tôi không khỏi rùng mình lo sợ.

Đến xế chiều quay lại nhìn hòn đảo nhỏ như một đốt ngón tay. Đất liền vẫn còn xa mù mịt. Ước chừng chúng tôi mới bơi được nửa đoạn đường. Bụng đói, lại vận động không ngừng suốt từ sáng đến chiều nên ba anh em mệt lả. Mệt đến nỗi tay chân không còn sức cử động nữa. Nước cuốn chúng tôi trôi sang bên phải. Nhìn những cây xuất hiện xa xa, anh Xuân bảo đó là cây thốt nốt. Tôi hoảng sợ nếu lạc vào đất Miên thì coi như lao đầu vào chỗ chết. Biển nguy hiểm như thế chúng tôi cũng đành mặc cho nước cuốn đi. Sức tàn lực kiệt, chúng tôi như ba con cá ngáp ngáp trên mặt nước chờ chết. Sắp sửa vĩnh biệt cõi đời, tôi tỉnh táo và bình tĩnh niệm Phật. Tôi chỉ ân hận là không được chết trên quê hương, không được nhìn những người thân yêu cuối cùng trước khi đi vào giầc ngủ ngàn thu.

Trong giây phút tuyệt vọng đó, bỗng có tàu đánh cá xuất hiện, khi tàu đến bên cạnh chúng tôi mới biết. Trên tàu quăng giây xuống cho chúng tôi bám lấy. Chúng tôi vận dụng hết sức mới leo lên được sàn tàu. Lên đến nơi cả ba người nằm mệt thiếp đi.

Tỉnh dậy tôi thấy trời gần tối và tàu đang vào bến đậu. Thoát chết! Chúng tôi mừng khôn xiết. Tôi tưởng tượng ba người sẽ được chính quyền tiếp đón nồng hậu, săn sóc chu đáo, tử tế. Ngờ đâu chừng nửa giờ sau cảnh sát Thái Lan đến điệu chúng tôi và chủ tàu về bót thẩm vấn. Trong khi cảnh sát thẩm vấn chúng tôi báo ngoài hoang đảo còn một gia đình gồm bảy người. Chúng tôi yêu cầu họ cho tàu ra cứu.

Nghe chúng tôi báo cáo, họ im lặng. Sau một tiếng đồng hồ thẩm vấn, họ đưa bốn người từ bốt về chi nhánh cảnh sát tỉnh Ryon. Nơi đó chúng tôi bị tống giam vì tội nhập cảnh bất hợp pháp. Còn chủ tàu bị giam vì tội cứu người vượt biển và khi bị giam tôi thấy anh chủ tàu không tỏ vẻ gì oán trách tụi tôi, ngược lại anh còn có vẻ hài lòng vì vừa làm được một việc thiện. Đêm hôm đó, bốn người chúng tôi bị nhốt trong cũi sắt với sáu phạm nhân khác. Trong lòng cũi sắt rộng bằng cái chiếu mà chứa đến mười người nên nghẹt bụng, phải ngồi bó gối thu hẹp lại mới đủ chỗ.

Sáng hôm sau chúng tôi bị còng tay dẫn xuống phòng thẩm vấn. Sau đó, ba tên nhập cảnh bất hợp pháp được giam riêng trong một cũi sắt. Còn chủ tàu, ân nhân của chúng tôi, được thả về. Anh ta vô tội vì khai thấy ba người sắp chết đuối đều ở trần nên anh ta tưởng là người Thái. Chúng tôi ra dấu cảm ơn anh chủ tàu. Anh ta cũng làm dấu diễn tả cảm tưởng anh ta rất sung sướng vì làm được một việc thiện. Bị giam cầm, chúng tôi còn phải chịu đói nữa. Bữa ăn, mỗi người được phát một chén cơm. Hàng ngày mỗi người được phát hai chén cơm. Đói rã rời! Đói thê thảm! Đêm nào cũng mơ được ăn cơm no bụng. Tỉnh dậy, tôi thấy miệng đang nhai nước miếng tóp tép. Chúng tôi bị nhốt trong bốt cảnh sát tỉnh Ryon vừa tròn một tuần. Sau đó chúng tôi bị còng tay dẫn lên xe chuyển đến nhà tù lớn thuộc tỉnh Chantaburi.

Chúng tôi bị nhốt chung với các can phạm thuộc nhiều nước khác như Miến Điện, Miên, Lào...

Đến giờ ăn, thấy mỗi người bưng một dĩa cơm, tụi tôi cũng lấy mỗi người một dĩa. Anh Xuân vừa ăn được một miếng thì bị tên cai ngục giật lại. Hắn dật luôn cả dĩa cơm trên tay anh Chính và tay tôi. Hắn giải thích chúng tôi là tù mới chưa có phiếu ăn. Hắn bảo tụi tôi đưa tiền hắn đi mua giùm. Chúng tôi làm gì có tiền, cũng chẳng có cái gì để bán được. Chúng tôi phải nhịn đói hai ngày mới được lãnh phần ăn đầu tiên. Xuất cơm của nhà tù Chantaburi cho ăn cũng không hơn gì nhà tù Ryon. Chúng tôi vẫn đói liên miên thê thảm. Sau bữa ăn vẫn đói tôi gầy đến nỗi ngồi không vững. Tôi bị đi kiết lỵ nặng, mỗi lần đi cầu mất đến nửa lon máu tươi. Bệnh nặng như vậy mà không có thuốc. Tôi tưởng đã chết trong nhà tù Thái Lan. Trong nhà tù chỉ có ba người Việt Nam là đói nhất. Còn các phạm nhân khác một là họ có tiền mua cơm, mua quà bánh ăn thêm, hai là họ có thân nhân tiếp tế.

Tôi nhớ có một buổi đẹp trời, anh bạn tù người Cam Pốt tặng chúng tôi một gói cơm và mấy muỗng đường. Ăn cơm nguội với đường ngon vô cùng. Tưởng như từ thủa chào đời đến giờ chưa được ăn món nào ngon như vậy.

Không khí trong nhà tù Chantaburi làm tinh thần tôi luôn bị khủng bố, đang nằm ngủ, nghe tiếng xích sắt loảng xoảng là tôi giật mình tỉnh dậy. Khi thì họ tống thêm tù nhân vào, khi thì họ kêu tên và còng tay một vài người dẫn đi. Nhất là lúc hai, ba giờ sáng, cảnh sát đến kêu tên tù nhân làm ai nấy nhớn nhác lo sợ. Riêng tôi, mỗi lần diễn ra cảnh như vậy tôi sợ đến lạnh cả người.

Hồi tám giờ sáng 25-7-1979 cai tù đứng ngoài xong sắt kêu tên:

- Nguyễn Duy Xuân.

- Nguyễn Duy Chính.

- Nguyễn Hữu Bào.

Chúng tôi hồi hộp nửa mừng nửa lo. Thấy họ dẫn đến văn phòng và chỉ ghế ngồi tôi mới yên tâm phần nào. Thư ký văn phòng bảo chúng tôi ký tên vào sổ và cho chúng tôi biết chúng tôi được trả tự do. Chúng tôi đi tìm tự do kể từ ngày 15-6-1979, mãi đến 25-7-1979 chúng tôi mới được hưởng tự do, mới biết tự do quý như thế nào.

Chúng tôi được ngồi xe hơi và được cảnh sát chở đến trại tị nạn Leamsing, chúng tôi nhập trại hồi bốn giờ chiều 25-7-1979. Hơn bốn mươi ngày xa quê hương, nay chúng tôi mới gặp lại đồng hương, mới được nghe tiếng mẹ đẻ yêu quen thuộc. Chân tôi bước vào trại mà tưởng chừng như không chấm đất.

Ngày hôm sau chúng tôi được phái đoàn Liên Hiệp Quốc phỏng vấn. Chúng tôi khai với phái đoàn là còn một gia đình gồm hai vợ chồng và năm đứa con nhỏ hiện còn trên hoang đảo. Hai ngày sau phái đoàn Liên Hiệp Quốc cho biết tin gia đình anh Đỗ Thanh Tròn chỉ có hai người sống sót là vợ và con gái anh Tròn. Mấy ngày sau mẹ con chị Tròn cũng được đưa đến trại Leamsing. Gặp chúng tôi chị Tròn mếu máo kể chuyện:

- Sau khi mấy chú đi rồi, chúng tôi chờ hoài không thấy tàu nào đến cứu. Anh Tròn quyết định kiếm tre khô làm bè đưa vợ con vào bờ...

Lau nước mắt chị Tròn kể tiếp:

- Anh Tròn ghép nhiều đoạn tre làm thành cái bè hình chữ nhật. Ảnh cho tôi cùng các cháu ngồi trên bè. Còn ảnh lội dưới nước vừa bơi vừa đẩy bè đi.

Chúng tôi im lặng chăm chú nghe. Giọng chị Tròn nghẹn ngào đẫm lệ:

- Tôi nghiệp! Ảnh sợ tụi nhỏ rớt xuống biển nên phải cột từng đứa dính liền với bè tre. Chờ thủy triều lên ảnh mới thả bè xuống nước. Nhờ nước triều lên bè trôi khá nhanh...

Kể đến đây chị Tròn nghẹn ngào không nói nên lời. Tôi cũng không ngăn được những dòng nước mắt thương cảm. Tôn trọng sự đau khổ của người vợ mất chồng, người mẹ một lần mất bốn đứa con, chúng tôi ngồi yên lặng.

- Thảm lắm! Các chú có biết không? Trên mặt biển các con tôi cứ chết dần...chết dần từng đứa. – Chị Tròn vừa khóc vừa nói – Tội nghiệp! Thằng Doãn nó nói: “Ba giết tụi con rồi. Ba ơi!”

Chị Tròn khóc hu hu. Chúng tôi không biết nói sao an ủi chị. Hy vọng những giọt nước mắt khiến nỗi đau khổ lắng xuống, những giọt nước mắt sẽ xoa dịu dần vết thương lòng.

- Đẩy được cái bè đến gần bờ, ảnh đứng mực nước tới ngực rồi. Nhưng vì kiệt lực nên anh xỉu rồi chết luôn.

Từ nãy đến giờ chúng tôi không dám hỏi một câu.

- Xác năm cha con đưa vào nhà thiêu. Còn tôi với cháu Trinh được xe cứu thương đưa vào bệnh viện.

Kết thúc câu chuyện quá đau thương, chị tròn căn dặn chúng tôi:

- Mấy chú có viết thư về Sài Gòn xin đừng nhắc đến gia đình tôi. Coi như chúng tôi mất tích.

(Kỷ niệm hai mươi ba năm xa quê hương.)

Ngày 10 tháng 10 năm 2002

Nguyễn Hữu Bào

Nguyễn Hữu Bào sinh ngày 16 tháng 6 năm 1936 tại làng Đông Lao, tỉnh Hà Đông, miền Bắc Việt Nam. Di cư vào miền nam và sinh sống ở thủ đô Sài Gòn từ năm 1955. Nhà giáo Nguyễn Hữu Bào dạy học từ năm 1960. Ngoài thì giờ dạy học ông còn soạn sách giáo khoa, viết văn, làm thơ.

Vượt biển ngày 16 tháng 6 năm 1979. Sau hơn 9 tháng tạm trú tại trại tị nạn Leamsing, Thái Lan, ông được định cư tại Hoa Kỳ ngày 8 tháng 4 năm 1980. Hiện cư ngụ tại thành phố Westminter, tiểu bang Califonia.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx