Chương 4
XÂY DỰNG MỘT CHÍNH PHỦ QUỐC GIA
“Mỗi người dân thường, và tất cả mọi người trên trái đất này, đều có quyền tự trị”. – Thomas Jefferson, 1790 – Người soạn thảo Bản Tuyên ngôn Độc lập
Hiến pháp của các tiểu bang
Thành công của cuộc cách mạng đã đem lại cho người Mỹ cơ hội xây dựng khung pháp lý cho những lý tưởng của họ như đã được trình bày trong bản Tuyên ngôn Độc lập, đồng thời khắc phục mọi nỗi oan Đức thông qua các bản hiến pháp của tiểu bang. Ngày 10/5/1776, Đại hội Lục địa đã thông qua một nghị quyết kêu gọi các thuộc địa thành lập các chính phủ mới đảm bảo tốt nhất việc mưu cầu hạnh phúc và an toàn cho tất cả mọi cử tri. Một số chính phủ đã làm được như vậy, và trong vòng một năm sau khi Tuyên ngôn Độc lập ra đời, tất cả ngoại trừ ba tiểu bang, đã soạn thảo xong hiến pháp.
Các bản hiến pháp mới đã thể hiện ảnh hưởng của các tư tưởng dân chủ. Không có bản hiến pháp nào đoạn tuyệt thô bạo với quá khứ cả vì tất cả các bản hiến pháp đó đều được xây dựng trên một nền tảng vững chắc của những trải nghiệm qua thời kỳ thuộc địa và thực tiễn cuộc sống ở nước Anh. Nhưng mỗi bản hiến pháp đều được thổi thêm luồng sinh khí mới của tinh thần chủ nghĩa cộng hòa – một lý tưởng vốn từ lâu đã được các triết gia thời kỳ Khai sáng ca ngợi.
Theo lẽ tự nhiên, mục tiêu đầu tiên của những người khởi thảo những bản hiến pháp bang là bảo vệ những quyền tất yếu bởi việc vi phạm những quyền đó là nguyên nhân khiến các thuộc địa cũ đoạt tuyệt với nước Anh. Như vậy, mỗi bản hiến pháp đều bắt đầu bằng một tuyên ngôn về quyền. Bản hiến pháp của bang Virginia vốn được coi là mẫu mực cho tất cả các bang khác bao gồm bản tuyên ngôn về các nguyên tắc như chủ quyền nhân dân, giữ chức luân phiên, tự do bầu cử và xác định những quyền tự do căn bản: bảo lãnh có mức độ và trừng phạt mang tính nhân đạo, xử án nhanh thông qua bồi thẩm đoàn, tự do báo chí và tự do tín ngưỡng, và quyền của đa số được cải cách hay thay đổi chính phủ.
Các bang khác đã mở rộng danh mục các quyền tự do để bổ sung thêm quyền tự do ngôn luận, hội họp và thỉnh nguyện. Các bản hiến pháp của họ thường có những quy định như quyền được mang vũ khí, quyền bảo hộ nhân thân, quyền bất khả xâm phạm nơi cư trú và bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên, tất cả các bản hiến pháp đều bày tỏ sự trung thành với mô hình tam quyền phân lập – hành pháp, lập pháp và tư pháp – mỗi cơ quan đều được hai cơ quan còn lại kiểm soát và cân bằng.
Hiến pháp bang Pennsylvania là cấp tiến nhất. Ở tiểu bang này, các nghệ nhân Philadelphia, tín đồ Tin Lành đến từ Bắc Ai-len sinh sống ở biên giới và các chủ trang trại nói tiếng Đức đã nắm vai trò kiểm soát. Hội đồng lập pháp địa phương thông qua hiến pháp cho phép mọi người đóng thuế là nam giới và các con trai của mình có quyền bầu cử; yêu cầu các chức vụ phải được đảm nhiệm theo chế độ luân phiên (không ai có thể được làm đại diện quá bốn năm trong mỗi nhiệm kỳ bảy năm) và xây dựng cơ quan lập pháp đơn nhất.
Các bản hiến pháp bang có một số hạn chế rõ ràng, đặc biệt nếu xét theo tiêu chí hiện nay. Các hiến pháp được khởi thảo để đảm bảo cho mọi người những quyền tự nhiên của họ nhưng lại không bảo vệ được cho tất cả mọi người quyền tự nhiên căn bản nhất – bình đẳng. Các thuộc địa ở phía nam bang Pennsylvania đã tước đi của những người dân nô lệ các quyền tất yếu với tư cách là những con người. Phụ nữ không có các quyền chính trị. Không bang nào đi xa tới mức cho phép quyền phổ thông đầu phiếu cho tất cả nam giới. Thậm chí ngay cả ở những bang cho phép tất cả những người đóng thuế được đi bầu cử (ngoài bang Pennsylvania còn có các bang Delaware, Bắc Carolina và Georgia), thì những người giữ chức vụ trong chính quyền bắt buộc phải có một lượng tài sản nhất định.
Các điều khoản của liên bang
Trận chiến với nước Anh đã làm được nhiều điều khiến thái độ của thuộc địa thay đổi. Các hội đồng lập pháp địa phương đã bác bỏ Kế hoạch Liên minh Albany vào năm 1754, kiên quyết không trao quyền tự trị, dù là nhỏ nhất, cho bất cứ ai khác, kể cả những người mà chính họ đã bầu ra. Nhưng trong suốt quá trình diễn ra cách mạng, sự tương trợ lẫn nhau đã chứng minh có hiệu quả, đồng thời nỗi lo sợ về việc loại bỏ quyền lực cá nhân đã giảm đi rất nhiều.
Năm 1776, John Dickinson đã soạn thảo Những điều khoản của Liên bang và Liên minh vĩnh cửu. ại hội Lục địa đã thông qua các điều khoản này vào tháng 11/1777. Ngay sau khi được tất cả các bang phê chuẩn, các điều khoản trên đã có hiệu lực vào năm 1781. Do thể hiện tính chất rất mong manh của tư tưởng lập quốc mới còn chập chững, các điều khoản này đã quy định thành lập một liên minh rất lỏng lẻo. Chính phủ quốc gia không có quyền áp thuế quan, điều tiết thương mại và đánh thuế. Đồng thời, chính quyền liên bang kiểm soát rất ít về quan hệ quốc tế: một số các bang đã bắt đầu đàm phán với nước ngoài. Chín bang đã tổ chức quân đội riêng, và một số đã có hải quân riêng. Do thiếu một đồng tiền chung thống nhất nên trong lĩnh vực thương mại, quốc gia mới phải sử dụng kết hợp đủ loại tiền xu và tiền giấy phức tạp do chính họ và các tiểu bang phát hành. Tuy vậy, tất cả các đồng tiền đều nhanh chóng mất giá.
Những khó khăn kinh tế sau chiến tranh đã gióng lên những hồi chuông đòi thay đổi. Cuộc chiến kết thúc đã để lại hậu quả nghiêm trọng đối với các lái buôn trước đây đã tham gia cung cấp cho quân đội ở cả hai phe và giờ đây, họ đã mất đi những lợi thế có được từ việc tham gia vào hệ thống mậu dịch nước Anh. Các tiểu bang ưu tiên cho hàng hóa Mỹ trong các chính sách thuế quan, nhưng các biểu thuế quan lại không nhất quán. Chính điều đó đã thôi thúc cần phải có một chính phủ trung ương mạnh hơn để thực thi một chính sách thống nhất.
Có lẽ các chủ trại bị thiệt thòi nhiều nhất do những khó khăn kinh tế sau cuộc cách mạng. Nguồn cung cấp nông sản đã vượt cầu. Tình trạng bất ổn tập trung chủ yếu ở những chủ trại đang mắc nợ. Họ mong muốn có những biện pháp mạnh để tránh việc tịch thu tài sản hoặc tống giam vì mắc nợ. Các tòa án nhận được quá nhiều đơn kiện đòi nợ. Suốt mùa hè năm 1786, các hội nghị của tòa thị chính và các cuộc họp không chính thức ở một số bang đã yêu cầu cải cách trong các cơ quan hành chính bang.
Mùa thu năm đó, những đám đông lộn xộn gồm các chủ trại ở bang Massachusetts dưới sự lãnh đạo của cựu đại úy Daniel Shays đã bắt đầu dùng vũ lực ngăn cản không cho các tòa án giải quyết các vụ kiện về nợ do chủ nợ khởi xướng, đồng thời trì hoãn cuộc bầu cử ở tiểu bang sắp đến. Tháng 1/1787, một đội quân rách rưới gồm 1.200 chủ trại đã tiến về kho vũ khí của Liên bang ở Springfield. Quân nổi dậy được trang bị bằng phần lớn các thanh gỗ đóng thùng rượu và cây xỉa rơm đã bị một lực lượng nhỏ dân quân bang đẩy lui. Tướng Benjamin Lincoln sau đó đã đến cùng lực lượng tăng viện từ Boston và đánh tan tác những người còn lại đi theo Shays, chính ông cựu đại úy này đã chạy thoát về Vermont. Chính phủ đã bắt 14 người nổi loạn và xử tử hình, nhưng cuối cùng đã tha bổng cho một số và thả những người khác sau một thời hạn tù ngắn ngủi. Sau khi đánh bại quân nổi loạn, một cơ quan lập pháp mới được bầu mà phần lớn số người ủng hộ những người nổi loạn và đã chấp nhận một số yêu cầu giảm nhẹ nợ cho họ.
Vấn đề mở rộng lãnh thổ
Cùng với sự kết thúc của cuộc cách mạng, Hợp chúng quốc Hoa Kỳ lại phải đối mặt với vấn đề miền Tây vẫn chưa được giải quyết – vấn đề mở rộng lãnh thổ với những mặt phức tạp về đất đai, buôn bán lông thú, người da đỏ, khu định cư và chính quyền địa phương. Bị quyến rũ bởi đất đai vô cùng màu mỡ mới được phát hiện, những người tiên phong đã vượt qua dãy núi Appalachian và tiến tới xa hơn nữa. Cho đến năm 1775, những triền đồi xa xôi nằm rải rác dọc theo những tuyến đường sông có đến hàng chục nghìn người định cư. Bị chia cách bởi những dãy núi và hàng trăm cây số xa những trung tâm quyền lực chính trị ở miền Đông, cư dân ở đó đã thành lập các chính quyền của riêng mình. Cư dân từ tất cả các bang vùng Tidewater đã dồn về các thung lũng sông màu mỡ có những thảo nguyên bao la nằm sâu trong lục địa. Tới năm 1790, dân số của vùng Appalachian đã lên tới hơn 120.000 người.
Trước chiến tranh, một số thuộc địa đã đưa ra những tuyên bố khẳng định phần đất sở hữu của họ thật lớn và nhiều khi chồng chéo vượt khỏi dãy Appalachian. Đối với những người không có những yêu sách như thế thì chiến lợi phẩm về lãnh thổ giàu có này dường như được chia phần không công bằng. Đứng về phía những người đó, bang Maryland đã đưa ra một quyết nghị khẳng định các vùng đất miền Tây phải được coi là tài sản chung do Đại hội Lục địa phân chia thành những chính quyền tự do và độc lập. ý tưởng này không được đón nhận một cách hồ hởi. Tuy vậy, vào năm 1780 bang New York đã tiên phong bằng cách nhường lại tất cả phần đất mà họ khẳng định thuộc quyền sở hữu. Năm 1784 bang Virginia vốn nắm giữ những quyền sở hữu lớn nhất đã từ bỏ toàn bộ đất đai ở phía bắc sông Ohio. Các bang khác cũng đã nhượng lại những vùng đất họ khẳng định thuộc quyền sở hữu. Đại hội có thể sẽ thừa hưởng quyền sở hữu tất cả mọi đất đai ở phía bắc sông Ohio và phía Tây dãy núi Allegheny. Việc sở hữu chung hàng triệu héc – ta đất chung như vậy là một bằng chứng hiển nhiên nhất về tính chất quốc gia và tính thống nhất, và điều đó đã đem lại nội dung nhất định cho tư tưởng thống nhất và hợp nhất thành quốc gia, đồng thời những phần lãnh thổ rộng lớn này cũng là một khó khăn đòi hỏi phải được giải quyết.
Đại hội Liên bang đã xây dựng một hệ thống tự trị hạn chế cho vùng lãnh thổ Tây Bắc mới đó. Sắc lệnh Tây Bắc năm 1787 đã quy định về bộ máy tổ chức mới này. Lúc đầu, đây được coi là một quận với người đứng đầu là thống sứ cùng các thẩm phán do Đại hội bổ nhiệm. Khi lãnh thổ này có đến 5.000 cư dân nam giới tự do nằm trong độ tuổi bầu cử thì sẽ được có quyền lập Quốc hội lưỡng viện, và chính khu vực này sẽ tự bầu ra Hạ viện. Ngoài ra, khu vực này còn được cử một đại biểu không có quyền bỏ phiếu tới Đại hội. Cứ khi nào một trong số các bang có tới 60.000 cư dân tự do thì sẽ được gia nhập Liên bang có vị thế bình đẳng với các bang sáng lập trên mọi phương diện. Sắc lệnh cũng đảm bảo các quyền dân sự và các quyền tự do, khuyến khích giáo dục và nghiêm cấm chế độ nô lệ hay các thức nô lệ cưỡng bức khác.
Chính sách mới đã bác bỏ quan niệm vốn có từ lâu đời cho rằng các thuộc địa tồn tại vì lợi ích của mẫu quốc và lệ thuộc về chính trị, có địa vị thấp kém về xã hội. Trái lại, chính sách mới đề ra nguyên tắc các thuộc địa (lãnh thổ) là phần mở rộng của quốc gia và được phép – không phải là đặc quyền và chỉ là quyền – được hưởng tất cả mọi lợi ích của bình đẳng.
Hội nghị lập hiến
Đến thời điểm Sắc lệnh Tây Bắc được ban hành, các nhà lãnh đạo Mỹ vẫn đang trong quá trình soạn thảo bản hiến pháp mới, mạnh mẽ hơn để thay thế cho các điều khoản Liên bang. George Washington, tổng công trình sư trong quá trình đó, đã mô tả rất chính xác rằng các tiểu bang hợp lại với nhau chỉ bằng sợi dây cát. Những tranh chấp giữa bang Maryland và bang Virginia về tuyến đường thủy trên sông Potomac đã dẫn tới việc tổ chức hội nghị đại biểu của năm tiểu bang tại Annapolis, bang Maryland năm 1786. Một trong số các đại biểu là Alexander Hamilton đã thuyết phục các đồng nghiệp của ông rằng thương mại có quan hệ mật thiết với các vấn đề kinh tế và chính trị. Do vậy, điều cần làm là phải có một tư duy mới căn bản về Liên bang.
Hội nghị Annapolis đã ra lời kêu gọi tất cả các tiểu bang cử đại diện tới dự Đại hội sẽ được tổ chức vào mùa xuân năm sau tại Philadelphia. ại hội Lục địa lúc đầu phẫn nộ trước bước đi táo bạo này, nhưng sau đó đã chấp thuận khi George Washington ủng hộ phương án này và được cử làm đại biểu. Trong suốt mùa thu và mùa đông năm sau, các cuộc bầu cử đã được tổ chức ở tất cả các bang, trừ bang Rhode Island.
Tháng 5/1787 đã diễn ra một cuộc họp quan trọng của những người xuất chúng tại Đại hội Liên bang. Các cơ quan lập pháp bang đã cử các nhà lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm từ chính quyền thuộc địa và bang, Đại hội Lục địa, quân đội và tôn giáo. George Washington vốn được coi là công dân xuất sắc của đất nước vì tính liêm chính và tài thao lược của ông trong thời cách mạng đã được chọn làm chủ tịch.
Trong số các thành viên tích cực nhất có hai người đến từ bang Pennsylvania: Gouverneur Morris – người đã thấy cần phải có một chính quyền liên bang, và James Wilson – người đã lao động không mệt mỏi vì tư tưởng quốc gia. Bang Pennsylvania cũng đã bầu Benjamin Franklin khi ông sắp kết thúc sự nghiệp phi thường phụng sự nhân dân và đạt những thành tựu khoa học rực rỡ. Từ bang Virginia còn có James Madison, một chính khách trẻ tuổi có suy nghĩ thực tế, một người am tường chính trị và lịch sử. Theo lời của một người đồng sự thì xét từ góc độ siêng năng và đầu óc thực tế thì… đây là một người am hiểu tường tận nhất về bất kỳ một điểm tranh luận nào. Madison được công nhận là cha đẻ của Hiến pháp.
Bang Masachusetts cử hai đại diện tới là Rufus King và Elbridge Gerry, những thanh niên đầy năng lực và kinh nghiệm. Roger Sherman, từ anh thợ đóng giày trở thành thẩm phán, là một trong số các đại biểu của bang Connecticut. Đại diện cho bang New York có Alexander Hamilton, người đã đề xuất tổ chức hội nghị. Vắng mặt tại hội nghị có Thomas Jefferson – khi đó ông là công sứ đại diện cho Hoa Kỳ tại Pháp, và John Adams – đang nắm giữ chức vụ như Jefferson ở nước Anh. Trong số 55 đại biểu thì thanh niên chiếm đa số với độ tuổi trung bình là 42.
Đại hội Lục địa đã ủy quyền cho Hội nghị thảo các điều sửa đổi những Điều khoản Liên bang, nhưng, như Madison đã viết sau này, các đại biểu với niềm tin mạnh mẽ vào đất nước của họ đã gác các điều khoản sang một bên và tập trung xây dựng một hình thức chính quyền hoàn toàn mới.
Họ đã nhận thấy điều vô cùng cần thiết là hài hòa hai cấp chính quyền khác nhau – chính quyền địa phương hiện có của 13 bang bán độc lập, và chính quyền trung ương. Họ đã thông qua nguyên tắc khẳng định tất cả mọi chức năng và quyền lực của chính phủ thống nhất – hoàn toàn mới và mang tính cởi mở – phải được xác định và công khai cẩn thận trong khi tất cả những chức năng và các quyền lực khác cần phải được hiểu là thuộc về các bang. Nhưng do hiểu rõ chính phủ trung ương cần phải có quyền lực thực tế nên các đại biểu cũng nhất trí là chính phủ đó phải được trao quyền – đúc tiền, quản lý thương mại, tuyên bố chiến tranh và thiết lập hòa bình cùng những quyền khác.
Tranh luận và thỏa hiệp
Các chính khách nhìn xa trông rộng của thế kỷ XVIII từng nhóm họp ở Philadelphia là những người trung thành với khái niệm cân bằng quyền lực trong chính trị của Montesquieu. Nguyên tắc này đã được củng cố thêm nhờ thực tiễn diễn ra ở thời kỳ thuộc địa và qua những tác phẩm của John Locke đã trở nên quen thuộc đối với hầu hết các đại biểu dự hội nghị. Những ảnh hưởng như vậy đã củng cố niềm tin vững chắc rằng cần phải thiết lập ba nhánh chính quyền ngang bằng và tương hỗ lẫn nhau. Các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được cân bằng một cách hài hòa sao cho không một cơ quan nào lại có thể giành được thế áp đảo. Các đại biểu cũng nhất trí cơ quan lập pháp, tương tự như các cơ quan lập pháp thuộc địa và Nghị viện Anh, phải là lưỡng viện.
Trong hội nghị đã có sự nhất trí cao về những điểm này. Nhưng cũng có những ý kiến khác nhau nảy sinh. Các đại biểu của các bang nhỏ, như New Jersey chẳng hạn, đã phản đối những điều thay đổi có thể sẽ làm giảm ảnh hưởng của họ trong chính phủ trung ương nếu dựa theo quy mô dân số chứ không dựa vào vị thế bình đẳng của tiểu bang như đã được quy định trong các điều khoản của Liên bang.
Mặt khác, đại diện của những bang lớn như Virginia lại lập luận ủng hộ cho quyền đại diện theo tỷ lệ. Các cuộc tranh cãi này có nguy cơ kéo dài bất tận cho đến khi Roger Sherman đưa ra các luận cứ ủng hộ quyền đại diện theo tỷ lệ dân số của các bang trong một viện của Quốc hội – Hạ viện – và quyền đại diện bằng nhau ở viện kia – Thượng viện.
Việc tập hợp những bang lớn áp đảo bang nhỏ sau đó đã tan rã. Nhưng hầu như bất kỳ vấn đề kế tiếp nào cũng đều làm nảy sinh những chia rẽ mới, chỉ có thể được giải quyết thông qua thỏa hiệp. Đại diện miền Bắc muốn số nô lệ được thống kê để tính mức thuế đóng góp của mỗi bang, nhưng con số này không quyết định số ghế một tiểu bang sẽ có trong Hạ viện. Theo một thỏa hiệp đạt được mà hầu như không có bất đồng quan điểm thì số thành viên trong Hạ nghị viện sẽ được phân chia theo số dân tự do cộng với ba phần năm số nô lệ.
Một số thành viên như Sherman và Elbridge Gerry vẫn còn khốn khổ vì cuộc nổi loạn của Shays. Họ lo sợ quảng đại quần chúng thiếu sự khôn ngoan cần thiết để tự trị, vì vậy họ không muốn bất cứ nhánh nào trong chính quyền liên bang được nhân dân bầu trực tiếp. Những người khác lại cho rằng chính quyền liên bang cần phải dựa vào quần chúng càng rộng rãi càng tốt. Một số đại biểu mong muốn loại trừ vùng miền Tây đang ngày càng lớn mạnh không được trở thành tiểu bang; những vị khác thì bảo vệ nguyên tắc bình đẳng được xác lập trong Sắc lệnh Tây Bắc năm 1787.
Không có sự khác biệt nghiêm trọng về những vấn đề kinh tế quốc gia như tiền giấy, các đạo luật liên quan tới những nghĩa vụ hợp đồng, hoặc vai trò của phụ nữ vốn bị loại trừ ra ngoài chính trị. Nhưng đã xuất hiện nhu cầu cân bằng những lợi ích kinh tế của các tầng lớp; giải quyết những cuộc tranh luận về quyền hạn, nhiệm kỳ và lựa chọn người đứng đầu cơ quan hành pháp; và giải quyết những vấn đề liên quan tới nhiệm kỳ của thẩm phán và các loại hình tòa án cần được thành lập.
Làm việc suốt trong mùa hè nóng bức ở Philadelphia, cuối cùng Hội nghị đã đạt được dự thảo trình bày ngắn gọn việc tổ chức một chính phủ tinh vi nhất từ trước tới nay – một chính phủ có quyền tuyệt đối trong phạm vi đã được xác định và hạn chế rõ ràng. Chính phủ liên bang có toàn quyền đánh thuế, vay tiền, lập các sắc thuế thống nhất và thuế gián thu, đúc tiền, xác định các đơn vị trọng lượng và đo lường, cấp bằng sáng chế phát minh và chứng nhận bản quyền, thiết lập các bưu điện và xây dựng các đường bưu điện. Chính phủ liên bang cũng có quyền tuyển mộ và duy trì quân đội và hải quân, quản lý các công việc liên quan tới người da đỏ, thực hiện chính sách đối ngoại và tiến hành chiến tranh. Chính phủ liên bang sẽ thông qua các đạo luật nhập tịch cho người nước ngoài và quản lý đất công, và cho phép các tiểu bang mới gia nhập trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối với các tiểu bang cũ. Quyền thông qua toàn bộ đạo luật thích hợp và cần thiết để thực thi những quyền lực đã được xác định rõ ràng được trao cho Chính phủ Liên bang để có thể đáp ứng những nhu cầu và đòi hỏi của các thế hệ mai sau và của một chính thể đã được mở rộng đáng kể.
Nguyên tắc tam quyền phân lập đã được thí điểm ở hầu hết hiến pháp của các tiểu bang và đã chứng tỏ có hiệu quả. Vì lẽ đó, Hội nghị đã lập ra hệ thống chính quyền với ba nhánh riêng biệt – lập pháp, hành pháp và tư pháp – mỗi nhánh đều được hai nhánh còn lại kiểm soát. Chính vì vậy các dự luật của Quốc hội sẽ không trở thành luật cho đến khi được tổng thống phê chuẩn. Tổng thống cũng phải trình tất cả những đề cử vào vị trí quan trọng và tất cả những hiệp ước do ông ký kết để Thượng viện thông qua. Đến lượt mình, tổng thống có thể bị buộc tội hay bãi chức theo quyết định của Quốc hội. Cơ quan tư pháp phải xét xử tất cả mọi trường hợp nảy sinh theo quy định của luật pháp và Hiến pháp liên bang. Trên thực tế các tòa án được trao quyền diễn giải cả luật cơ sở và luật thành văn. Nhưng các thành viên của cơ quan tư pháp do tổng thống đề cử và được Thượng viện công nhận cũng có thể bị Quốc hội phế truất.
Để bảo vệ cho hiến pháp tránh bị thay đổi vội vã, điều V đã quy định những Điều bổ sung sửa đổi Hiến pháp phải được đề nghị hoặc bởi hai phần ba ở cả hai viện của Quốc hội, hoặc bởi hai phần ba số bang tham dự hội nghị. Các đề xuất phải được phê chuẩn bởi một trong hai phương pháp: hoặc do các cơ quan lập pháp của ba phần tư các bang hoặc do hội nghị ở ba phần tư các bang và Quốc hội đề nghị cách thức được áp dụng.
Cuối cùng hội nghị đã phải đứng trước một vấn đề quan trọng nhất: các quyền lực được trao cho chính phủ mới phải được thi hành như thế nào? Theo các điều khoản liên bang trước đây, trên lý thuyết, chính quyền liên bang đã nắm những quyền lực quan trọng, song trên thực tế những quyền lực này đã vô giá trị vì các bang không hề quan tâm đến những quyền lực ấy. Vậy phải làm gì để cứu vãn chính phủ mới tránh khỏi số phận như thế?
Ngay từ lúc đầu, hầu hết các đại biểu đã nhất trí với câu trả lời duy nhất – sử dụng vũ lực. Nhưng họ đã mau chóng nhận thấy rằng việc sử dụng vũ lực đối với các bang sẽ phá hoại liên minh. Người ta đã quyết định chính phủ không chỉ đạo các bang mà chỉ định hướng cho dân chúng ở các bang, và nên ban hành luật để quản lý toàn bộ các công dân của đất nước. Hội nghị đã thông qua hai lời tuyên bố ngắn gọn nhưng rất quan trọng và là vấn đề chủ đạo của Hiến pháp:
Quốc hội có quyền… ban hành tất cả các đạo luật cần thiết và thích hợp để thực thi… Quyền lực quy định trong Hiến pháp này được trao cho Chính phủ của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (Điều I, Khoản 7).
Hiến pháp này, các đạo luật của Hoa Kỳ được ban hành theo Hiến pháp này, mọi Điều ước đã hoặc sẽ được ký kết dưới thẩm quyền của Hoa Kỳ sẽ là luật tối cao của quốc gia. Quan tòa ở các bang đều phải tuân theo những luật này; bất cứ một điều gì trong Hiến pháp hoặc luật của các bang mà trái ngược với Hiến pháp Liên bang đều không có giá trị. (Điều VI)
Do đó các bộ luật của Hợp chúng quốc có khả năng thực thi tại các tòa án quốc gia thông qua các thẩm phán và cảnh sát trưởng, cũng như trong các tòa án bang thông qua các thẩm phán bang và các quan chức thực thi luật pháp bang.
Cuộc tranh luận còn tiếp tục cho tới tận ngày nay về những động cơ thôi thúc những người viết Hiến pháp. Năm 1913, nhà sử học Charles Beard, trong cuốn Giải thích Hiến pháp từ góc độ kinh tế, đã lập luận rằng những người cha lập quốc đại diện cho lợi ích của tầng lớp tư bản thương mại đang ngày càng lớn mạnh và đòi hỏi cần phải có một chính phủ trung ương hùng mạnh. Ông cho rằng rất nhiều người trong số họ có thể đã được thôi thúc bởi họ nắm giữ quá nhiều trái phiếu đã bị mất giá của chính phủ. Tuy nhiên, chính James Madison, người soạn thảo chính của hiến pháp lại không có trái phiếu và chỉ là một chủ đồn điền ở bang Virginia. Trái lại, những người phản đối Hiến pháp lại sở hữu một lượng lớn chứng khoán và trái phiếu. Như vậy, không chỉ có lợi ích kinh tế đã ảnh hưởng đến diễn tiến của cuộc tranh luận mà cả những lợi ích của các tiểu bang, tầng lớp dân cư và ý thức hệ cũng đã chi phối. Nhân tố không kém phần quan trọng chính là chủ nghĩa lý tưởng hằn sâu trong những người thảo hiến pháp. Là sản phẩm của phong trào Khai sáng, những người cha lập quốc đã xây dựng một chính quyền mà họ tin rằng sẽ thúc đẩy tự do cá nhân và bản tính thiện của con người. Những lý tưởng thể hiện trong bản Hiến pháp Mỹ là một thành tố quan trọng tạo nên bản sắc dân tộc Mỹ.
Phê chuẩn và tuyên ngôn nhân quyền
Ngày 17/9/1787, sau 16 tuần cân nhắc cẩn thận, bản hiến pháp hoàn thiện đã được 39 trong số 42 đại biểu có mặt ký kết. Franklin chỉ vào hình nửa mặt trời vẽ bằng mầu vàng chói ở sau chiếc ghế tựa của Washington và nói:
Suốt những ngày diễn ra Hội nghị, tôi đã thường xuyên… nhìn vào chiếc ghế (kia) phía sau lưng tổng thống mà không thể phân định được đó là mặt trời đang mọc hay đang lặn; nhưng giờ đây cuối cùng thì tôi thực sự hạnh phúc biết rằng đó là vầng mặt trời lúc bình minh chứ không phải lúc hoàng hôn.
Hội nghị đã kết thúc, các thành viên tản ra quán rượu thành phố, cùng ăn và chia tay nhau thật chân thành, ấm áp. Tuy nhiên, một nội dung quan trọng trong đấu tranh xây dựng một liên minh hoàn hảo hơn vẫn đặt ra phía trước. Vẫn cần phải có sự chấp thuận của các hội đồng lập pháp dân bầu ở các tiểu bang trước khi văn kiện hiến pháp có thể có hiệu lực.
Hội nghị đã quyết định rằng hiến pháp sẽ có hiệu lực ngay sau khi hội đồng lập pháp của 9 trong tổng số 13 bang phê chuẩn. Đến tháng 6/1788, đã có chín bang theo yêu cầu phê chuẩn hiến pháp, nhưng các bang lớn như Virginia và New York thì chưa. Hầu hết mọi người đều thấy nếu không có sự ủng hộ của họ thì hiến pháp sẽ không bao giờ được tôn kính. Đối với nhiều người, bản hiến pháp dường như còn ẩn chứa vô số những mối nguy: liệu chính phủ trung ương hùng mạnh đã tạo nên hiến pháp đó có áp bức và hành hạ họ bằng các khoản thuế khóa nặng nề và lôi họ vào cuộc chiến tranh hay không?
Những quan điểm khác biệt về các vấn đề này đã dẫn tới sự tồn tại của hai phe nhóm – những người ủng hộ chế độ liên bang và một chính quyền trung ương mạnh mẽ, và những người phản đối chế độ liên bang muốn có một liên minh lỏng lẻo của từng bang riêng rẽ. Những lập luận của cả hai phe được chuyển tải qua báo chí, các cơ quan lập pháp và các hội nghị bang.
Ở Virginia, những người chống chủ nghĩa liên bang đã tấn công chính phủ mới được đề xuất bằng cách phản bác đoạn mở đầu của Hiến pháp: “Chúng tôi, những người dân của Hợp chúng quốc. Bằng việc không sử dụng các tên riêng của các bang trong Hiến pháp, các đại biểu lập luận các bang sẽ không duy trì được quyền hay quyền lực riêng rẽ của mình. Phái chống chủ nghĩa liên bang ở Virginia thì do Patrick Henry lãnh đạo. Ông đã trở thành người phát ngôn chính cho những người nông dân ở vùng sâu, vùng xa vốn rất lo sợ trước những quyền lực của Chính phủ Liên bang mới. Các đại biểu còn do dự đã bị thuyết phục bởi đề nghị của hội nghị bang Virginia đưa ra Tuyên ngôn Nhân quyền, còn phái chống chủ nghĩa liên bang đã liên minh với những người ủng hộ chủ nghĩa liên bang để phê chuẩn Hiến pháp ngày 25/6.
Tại New York, Alexander Hamilton, John Jay và James Madison đã kêu gọi phê chuẩn Hiến pháp qua một loạt các bài luận nổi tiếng mang tựa đề Bút ký của những người ủng hộ liên bang. Những bài luận đăng tải trong các tờ báo ở New York đã trở thành lập luận cổ điển ủng hộ chính quyền liên bang trung ương theo mô hình tam quyền phân lập – hành pháp, lập pháp và tư pháp kiểm soát và cân bằng lẫn nhau. Do những bài Bút ký có ảnh hưởng lớn tới đại biểu New York nên Hiến pháp đã được phê chuẩn ngày 26/7.
Mối ác cảm với một chính quyền trung ương mạnh chỉ là một mối lo lắng duy nhất trong số những mối lo của những người phản đối Hiến pháp; một mối lo ngại tương đương đối với nhiều người là nỗi lo sợ rằng Hiến pháp không bảo vệ quyền con người và các quyền tự do cá nhân một cách có hiệu quả. George Mason, người Virginia, tác giả bản Tuyên ngôn Nhân quyền của bang Virginia năm 1776, là một trong ba đại biểu tham dự Hội nghị Lập hiến đã từ chối ký văn kiện cuối cùng vì nó không liệt kê ra những quyền cá nhân. Cùng với Patrick Henry, ông đã ra sức chống lại bang Virginia phê chuẩn Hiến pháp. Đương nhiên, năm bang bao gồm cả Massachusetts đã phê chuẩn Hiến pháp với điều kiện rằng những Điều bổ sung sửa đổi hiến pháp cần phải được bổ sung lập tức.
Khi phiên họp Quốc hội đầu tiên diễn ra ở thành phố New York tháng 9/1789, những lời kêu gọi có các Điều bổ sung sửa đổi để bảo vệ các quyền cá nhân đã thực sự giành được sự nhất trí rất cao. Quốc hội đã nhanh chóng thông qua 12 Điều bổ sung sửa đổi như vậy; đến tháng 12/1791, đã có đủ số bang đã phê chuẩn 10 Điều bổ sung sửa đổi để đưa chúng vào thành một phần của Hiến pháp và gọi chung là Tuyên ngôn Nhân quyền. Trong số các quy định của các Điều bổ sung sửa đổi có: quyền tự do ngôn luận, báo chí, tôn giáo và quyền hội họp một cách hòa bình, quyền phản đối và yêu cầu các thay đổi (Điều bổ sung sửa đổi thứ nhất); Bảo vệ chống lại những cuộc khám xét, tịch thu không hợp lệ tài sản và bắt giam (Điều bổ sung sửa đổi thứ tư); thủ tục tố tụng công bằng ở tất cả các vụ án hình sự (Điều bổ sung sửa đổi thứ năm); Quyền được xử án công bằng và nhanh chóng (Điều bổ sung sửa đổi thứ sáu); Bảo vệ chống lại hình phạt dã man và bất thường (Điều bổ sung sửa đổi thứ tám); và điều khoản cho rằng mọi người được sử dụng những quyền bổ sung mà không được ghi trong Hiến pháp (Điều bổ sung sửa đổi thứ chín).
Từ khi thông qua Tuyên ngôn Nhân quyền chỉ có 16 Điều bổ sung sửa đổi được bổ sung vào Hiến pháp. Tuy một số Điều bổ sung sửa đổi tiếp theo đã điều chỉnh cấu trúc và hoạt động của Chính phủ Liên bang, nhưng phần lớn các điều khoản này vẫn tuân theo những tiền lệ do Tuyên ngôn Nhân quyền đã xác lập và mở rộng các quyền cá nhân và các quyền tự do.
Tổng thống Washington
Một trong những công việc cuối cùng của Quốc hội liên bang là tổ chức cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên tiến hành, lấy ngày 4/3/1789 là ngày khai sinh chính phủ mới. Một cái tên được tất thảy mọi người nhắc tới cương vị người lãnh đạo quốc gia là George Washington và ông đã được tín nhiệm bầu làm tổng thống và tuyên thệ nhậm chức ngày 30/4/1789. Bằng những lời tuyên thệ mà sau này bất kỳ tổng thống nào cũng sử dụng, Washington đã cam kết thực thi những bổn phận của chức vụ tổng thống một cách trung thành, và cố gắng hết sức mình nhằm bảo toàn, bảo vệ và che chở Hiến pháp của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Khi Washington nhậm chức tổng thống thì Hiến pháp mới chưa hề quan tâm tới tập quán lẫn ủng hộ hoàn toàn quan điểm của dư luận có định hướng. Chính phủ mới đã phải xây dựng bộ máy riêng và điều tiết một hệ thống thuế để đảm bảo sự hoạt động của chính mình. Các bộ luật vẫn chưa được thực thi chừng nào cơ quan tư pháp vẫn chưa được thành lập. Quân đội thì nhỏ bé. Lực lượng hải quân tạm thời không còn tồn tại nữa.
Quốc hội mau chóng thành lập Bộ Ngoại giao và Bộ Tài chính với Thomas Jefferson và Alexander Hamilton giữ chức bộ trưởng tương ứng. Bộ Chiến tranh và Bộ Tư pháp cũng đã được thành lập. Do Washington chỉ muốn đưa ra các quyết định sau khi tham vấn ý kiến những người có trí tuệ được ông đánh giá cao, nên Nội các của Tổng thống Mỹ đã được thành lập, bao gồm Bộ trưởng của tất cả các bộ mà Quốc hội có thể lập ra.
Trong khi đó, đất nước vẫn liên tục phát triển và làn sóng nhập cư từ châu Âu đang gia tăng. Người Mỹ đang chuyển sang miền Tây: Người các bang New England và Pennsylvania đang chuyển tới bang Ohio; người các bang Virginia và Carolina chuyển sang các bang Kentucky và Tennessee. Chỉ cần có số tiền nhỏ cũng đủ để mua những trang trại mầu mỡ, và do vậy, nhu cầu lao động không ngừng tăng. Miền thung lũng màu mỡ trải dài phía trên các bang New York, Pennsylvania và Virginia chẳng bao lâu sau đã trở thành khu vực trồng lúa mì.
Tuy nhiều mặt hàng vẫn còn được sản xuất thủ công tại gia, nhưng cuộc cách mạng công nghiệp vẫn còn đang ở buổi bình minh ở Mỹ. Bang Massachusetts và Rhode Island đang đặt nền móng cho các ngành công nghiệp dệt quan trọng; bang Connecticut bắt đầu sản xuất hàng thiếc và đồng hồ; các bang New York, New Jersey và Pennsylvania chế tạo giấy, thủy tinh và sắt. Vận tải biển ở Mỹ đã phát triển tới quy mô lớn mức chỉ đứng thứ hai sau nước Anh. Thậm chí cho tới năm 1790, các tàu Mỹ đã tới Trung Quốc để bán lông thú và mang về chè, hương liệu và tơ lụa.
Vào thời khắc quyết định trong sự nghiệp phát triển đất nước, sự lãnh đạo tài tình của Washington đóng vai trò vô cùng quan trọng. Ông đã tổ chức chính quyền liên bang, ban hành các chính sách định cư ở các vùng lãnh thổ trước kia nằm trong tay nước Anh và Tây Ban Nha, bình định biên giới tây bắc và giám sát việc kết nạp ba tiểu bang mới: bang Vermont (1791), bang Kentucky (1792) và bang Tennessee (1796). Cuối cùng trong Diễn văn Từ biệt của mình, Washington đã cảnh báo cả nước Mỹ nên tránh xa những liên minh lâu dài cố định với bất cứ thế lực nào ở thế giới bên ngoài. Lời khuyên này đã ảnh hưởng tới thái độ của người Mỹ đối với thế giới trong nhiều thế hệ tương lai.
Cuộc tranh luận giữa Hamilton và Jefferson
ĐÃ có mâu thuẫn nảy sinh trong thập niên 1790 giữa các đảng phái chính trị đầu tiên ở Mỹ. Trên thực tế, phái ủng hộ chủ nghĩa liên bang do Alexander Hamilton lãnh đạo, và phe chống chủ nghĩa liên bang do Thomas Jefferson đứng đầu, là những chính đảng đầu tiên ở thế giới phương Tây. Khác với các nhóm chính trị lỏng lẻo trong Hạ viện Anh, hay ở các thuộc địa Mỹ trước thời kỳ cách mạng, cả hai chính đảng này đều có cương lĩnh và nguyên tắc tương đối nhất quán, lực lượng ủng hộ tương đối ổn định và bộ máy tổ chức mang tính liên tục.
Phái ủng hộ chủ nghĩa liên bang nhìn chung đại diện cho nhóm lợi ích thương mại và công nghiệp bởi lẽ họ cho rằng đây chính là những động lực thúc đẩy tiến bộ trên thế giới. Họ tin rằng thương mại và sản xuất chỉ có thể được thúc đẩy qua bàn tay của một chính quyền trung ương hùng mạnh, có đủ sức huy động vốn tín dụng và phát hành đồng tiền ổn định. Mặc dù công khai nghi ngờ chủ nghĩa cấp tiến đang âm ỉ trong quần chúng nhân dân, song họ lại thu hút được công nhân và thợ thủ công. Lực lượng chính trị hùng mạnh của họ nằm ở các tiểu bang vùng New England. Thấy nước Anh, xét trên nhiều góc độ, là một mô hình mà nước Mỹ nên chạy đua nên họ ủng hộ duy trì quan hệ hữu hảo với mẫu quốc trước đây.
Mặc dù Alexander Hamilton chưa bao giờ có thể có đủ sức tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng đối với việc lựa chọn các chức vụ qua bầu cử, song ông lại là bộ não của phái ủng hộ chủ nghĩa liên bang về hệ tư tưởng và chính sách công. Ông cống hiến cho xã hội niềm đam mê hiệu quả, trật tự và tổ chức. Đáp lại lời kêu gọi của Hạ viện về kế hoạch huy động tín dụng công, ông đã đưa ra và ủng hộ các nguyên tắc không chỉ áp dụng với nền kinh tế quốc dân mà còn với một chính phủ hiệu quả. Hamilton đã chỉ rõ nước Mỹ phải có tín dụng hỗ trợ phát triển công nghiệp, thương mại và hoạt động của chính quyền. Những bổn phận của chính phủ đòi hỏi phải có niềm tin và sự ủng hộ của dân chúng.
ĐÃ có nhiều người mong muốn chối bỏ các khoản nợ công hay chỉ trả một phần của khoản nợ ấy. Tuy nhiên, Hamilton đã cương quyết đòi thanh toán hoàn toàn và cũng yêu cầu có kế hoạch tiếp quản các khoản nợ phát sinh từ thời cách mạng nhưng các bang vẫn chưa trả được. Hamilton cũng bảo trợ một đạo luật của Quốc hội nhằm xây dựng Ngân hàng Trung ương Hợp chúng quốc theo mô hình Ngân hàng Trung ương Anh. Ngân hàng này vừa là thiết chế tài chính trung ương của quốc gia vừa có các chi nhánh hoạt động ở nhiều nơi khác khắp cả nước. Ông đã bảo trợ cho xưởng đúc tiền quốc gia, ủng hộ thuế quan, và nhấn mạnh việc bảo hộ tạm thời cho các công ty mới là cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp quốc gia có sức cạnh tranh. Những biện pháp này – đặt nền tảng vững chắc cho các khoản tín dụng của chính phủ trung ương và cung cấp cho chính phủ tất cả nguồn lực cần thiết – đã khuyến khích thương mại và công nghiệp phát triển, đồng thời tạo ra mạng lưới những lợi ích tạo chỗ dựa vững chắc cho chính quyền liên bang.
Đảng Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Thomas Jefferson chủ yếu đứng về phía lợi ích và giá trị nông nghiệp. Họ nghi ngờ các nhà băng và hầu như không quan tâm tới thương mại và sản xuất. Họ tin rằng tự do và dân chủ sẽ đơm hoa kết trái tốt nhất trong một xã hội thuần nông, gồm những nông dân tự cung tự cấp. Họ cảm thấy không cần một chính phủ trung ương hùng mạnh. Thực ra, họ coi một chính phủ như vậy chỉ là nguy cơ gây đàn áp trong tương lai. Tóm lại, họ cổ xúy cho quyền của các tiểu bang. Họ có lực lượng hùng mạnh nhất ở miền Nam.
Mục tiêu cao cả của Hamilton là một bộ máy chính quyền hiệu quả hơn, trong khi đó Jefferson lại nói “Tôi không phải là người ủng hộ một chính phủ quá nhiệt huyết”. Hamilton lo sợ tình trạng vô chính phủ và luôn suy nghĩ đảm bảo an ninh, trật tự; trong khi đó Jefferson lại lo sợ tình trạng chuyên chế và luôn suy nghĩ đảm bảo quyền tự do. Nếu Hamilton coi nước Anh là một hình mẫu thì Jefferson – công sứ tại Pháp trong giai đoạn đầu của cuộc Cách mạng Pháp – lại coi việc lật đổ chế độ quân chủ ở Pháp là một hiện thân của những lý tưởng tự do của thời kỳ Khai sáng. Trái với bản năng bảo thủ của Hamilton, Jefferson lại thiên về chủ nghĩa cấp tiến dân chủ.
Một mâu thuẫn nảy sinh rất sớm giữa hai người ngay sau khi Jefferson nhậm chức ngoại trưởng đã dẫn tới một cách lý giải mới và rất quan trọng của Hiến pháp. Khi Hamilton trình dự luật thành lập ngân hàng quốc gia của mình thì Jefferson – đại diện cho những người cổ xúy quyền lực của các tiểu bang – đã lập luận rằng Hiến pháp đã liệt kê một cách rõ ràng toàn bộ những quyền lực thuộc về Chính phủ Liên bang và dành tất cả những quyền lực khác cho tất cả các tiểu bang. Không có quy định nào trong Hiến pháp cho phép chính phủ được thiết lập ngân hàng.
Hamilton đã phản bác lại rằng, vì đây có muôn vàn chi tiết cần thiết nên một bộ luật quy định về quyền phải được diễn giải từ những quy định chung, và một trong những quyền đó là cho phép Quốc hội ban hành tất cả các đạo luật cần thiết và phù hợp để thực thi những quyền lực khác đã được trao cụ thể. Hiến pháp đã trao quyền cho chính quyền liên bang đặt ra và thu các loại thuế, trả nợ và vay tiền. Ngân hàng quốc gia sẽ giúp đỡ về mặt vật chất trong việc thực hiện những chức năng này có hiệu quả. Vì vậy, theo những quyền lực được suy rộng ra, Quốc hội có quyền thành lập một ngân hàng như vậy. Washington và Quốc hội đã chấp nhận quan điểm của Hamilton – và như vậy đã tạo một tiền lệ mở rộng việc diễn giải quyền lực của Chính phủ Liên bang.
Công dân Genet và chính sách đối ngoại
Tuy một trong những nhiệm vụ đầu tiên của chính phủ mới là củng cố nền kinh tế trong nước và làm cho quốc gia được an toàn về tài chính, song Hoa Kỳ không thể coi thường những vấn đề đối ngoại. Những nền tảng của chính sách đối ngoại của Washington là duy trì hòa bình, giúp đất nước có thời gian phục hồi những vết thương và tiếp tục quá trình hợp nhất dân tộc. Những sự kiện ở châu Âu đã đe dọa các mục tiêu này. Nhiều người Mỹ theo dõi một cách say sưa và dành thiện cảm sâu sắc cho cuộc cách mạng Pháp. Tháng 4/1793, những tin tức dồn dập đổ về, thông báo Pháp đã tuyên chiến với Anh và Tây Ban Nha, đồng thời đặc phái viên mới của Pháp, Edmond Charles Genet – công dân Genet – đang trên đường sang Mỹ.
Sau cuộc cách mạng Pháp dẫn tới việc Vua Louis XVI bị xử tử tháng 1/1793, Anh, Tây Ban Nha và Hà Lan đã can dự vào cuộc chiến với nước Pháp. Theo Hiệp định Liên minh Pháp – Mỹ năm 1778, Hoa Kỳ và Pháp là những đồng minh vĩnh viễn và nước Mỹ có nghĩa vụ giúp nước Pháp bảo vệ khu vực Tây ấn. Tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn còn là một nước rất yếu về quân sự và kinh tế, và do vậy không có khả năng can dự vào một cuộc chiến tranh mới với các cường quốc châu Âu.
Ngày 22/4/1793, Washington đã bãi bỏ thành công các điều khoản của Hiệp ước 1778 – điều ước đã giúp Mỹ có thể giành độc lập thông qua việc tuyên bố Hợp chúng quốc mong muốn hữu nghị và vô tư, không thiên vị với tất các cường quốc đang tham chiến. Khi tới nước Mỹ, Genet được nhiều công dân hoan hô, nhưng được tiếp đón bằng nghi thức lạnh nhạt của Chính phủ. Genet nổi giận và vi phạm lời hứa, không cung cấp một chiếc tàu chiến Anh bị bắt giữ với tư cách là tàu lùng (tàu của tư nhân được chính phủ giao nhiệm vụ chuyên đi bắt tàu buôn địch). Sau đó Genet đe dọa trực tiếp nêu vấn đề cho nhân dân Mỹ thấy. Ngay sau đó Hoa Kỳ đã yêu cầu Chính phủ Pháp triệu hồi ông về nước.
Sự kiện Genet đã làm căng thẳng những mối quan hệ giữa Mỹ với Pháp giữa lúc quan hệ với nước Anh còn lâu mới được coi là khăng khít. Quân đội Anh còn chiếm đóng các pháo đài ở miền Tây, tài sản bị binh lính Anh chiếm đoạt trong thời cách mạng vẫn chưa được khôi phục hay trả lại, và hải quân Anh đang chặn các tàu Mỹ chuẩn bị tới các cảng Pháp. Hai nước dường như vẫn tiến đến bên bờ của một cuộc chiến. Trước tình hình đó, Washington đã cử John Jay, Chánh án Tòa án Tối cao đầu tiên, làm đặc phái viên tới Luân Đôn. Jay đã đàm phán một hiệp ước bảo đảm việc rút quân Anh ra khỏi các pháo đài miền Tây và về lời hứa của Luân Đôn sẽ đền bù thiệt hại do việc nước Anh chiếm giữ các tàu và hàng hóa Mỹ vào năm 1793 và 1794, nhưng lại không nêu cam kết sẽ không có các vụ bắt giữ trong tương lai. Hơn nữa, hiệp định đã không giải quyết vấn đề hết sức nhức nhối là người Anh vẫn cưỡng bức tòng quân các thủy thủ Mỹ tham gia lực lượng Hải quân Anh, cản trở ghê gớm việc buôn bán của Mỹ với Tây ấn, đồng thời chấp nhận quan điểm của Anh cho rằng đồ quân trang quân dụng của hải quân và các vật liệu chiến tranh đều là hàng lậu, và sẽ bị bắt giữ nếu chở tới cảng biển của quốc gia thù địch trên tàu của các quốc gia trung lập.
Nhà ngoại giao người Mỹ Charles Pinckney thì thành công hơn trong thương thuyết với Tây Ban Nha. Năm 1795, ông đã đàm phán một hiệp định quan trọng giải quyết vấn đề biên giới Florida theo yêu cầu của Mỹ và cho phép người Mỹ tiếp cận cảng New Orleans. Cũng tương tự như vậy, Hiệp định Jay với người Anh đã phản ánh vị thế tiếp tục suy yếu của Mỹ so với một siêu cường trên thế giới. Hiệp định này không được công chúng ủng hộ rộng rãi, nhưng lại được những người ủng hộ chủ nghĩa liên bang công khai ủng hộ bởi lẽ họ đề cao mối quan hệ kinh tế và văn hóa với nước Anh. Washington ủng hộ hiệp định này vì nó là món quà mặc cả tốt nhất có thể có trong bối cảnh lúc bấy giờ. Sau một cuộc tranh luận nảy lửa, Thượng viện đã thông qua hiệp định này.
Vụ trò hề công dân Genet và Hiệp ước Jay đã chứng minh cả những khó khăn mà một nước nhược tiểu phải đương đầu khi bị kẹt giữa hai cường quốc, và khoảng cách rất xa trong quan điểm giữa phe ủng hộ chủ nghĩa liên bang và những người theo chủ nghĩa cộng hòa. Đối với những người ủng hộ chủ nghĩa liên bang, những kẻ theo chủ nghĩa cộng hòa ủng hộ cuộc Cách mạng cấp tiến và đầy bạo lực ở Pháp là những tên cấp tiến đầy nguy hiểm (Gia-cô-banh). Đối với những người cộng hòa, những người ủng hộ chính sách thân Anh là những kẻ bảo hoàng, dám vứt bỏ quyền tự nhiên của người Mỹ. Những người ủng hộ chủ nghĩa liên bang gắn hiệu quả và phát triển quốc gia với thương mại; còn những người chủ trương cộng hòa lại coi tương lai của nước Mỹ là tương lai của một nền cộng hòa thuần nông rộng lớn. Cuộc cạnh tranh trong quan điểm mâu thuẫn nhau của họ ngày càng trở nên trầm trọng.
Adams và Jefferson
Washington nghỉ hưu năm 1797, kiên quyết rời nhiệm sở sau hơn sau hơn tám năm làm Tổng thống. Thomas Jefferson, người bang Virginia (chủ trương cộng hòa), và John Adams (ủng hộ liên bang) cạnh tranh nhau để kế nhiệm ông. Adams đã chiến thắng trong một cuộc bầu cử với số phiếu sít sao. Tuy nhiên, ngay từ đầu, ông là đã người đứng đầu một đảng và một chính quyền bị chia rẽ giữa những người ủng hộ ông và những người thuộc phe của Hamilton đối nghịch với ông.
Adams gặp muôn vàn khó khăn ở bên ngoài. Giận dữ trước việc hiệp ước của Jay được ký với Anh, Pháp quay sang áp dụng định nghĩa đồ buôn lậu của hiệp định trên và bắt đầu bắt giữ tàu của Mỹ khi trên đường sang Anh. Đến năm 1797, Pháp đã chiếm giữ 300 tàu của Mỹ và đã cắt đứt các quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ. Khi Adams gửi ba người đại diện tới Paris để đàm phán, các đại diện của ngoại trưởng Charles Maurice Talleyraud (những người được Adams đặt biệt hiệu X, Y và Z trong báo cáo của mình gửi Quốc hội) đã thông báo cho người Mỹ rằng những cuộc đàm phán chỉ có thể bắt đầu nếu Hoa Kỳ cho Pháp vay 12 triệu đô-la và hối lộ các quan chức Chính phủ Pháp. Sự thù địch của nước Mỹ đối với nước Pháp đã dâng lên tới tột điểm. Vụ áp-phe XYZ đã dẫn tới việc tuyển binh lính và củng cố lực lượng hải quân còn non trẻ của nước Mỹ.
Vào năm 1799, sau một loạt trận hải chiến với Pháp, chiến tranh dường như không thể tránh khỏi. Trong cuộc khủng hoảng này, Tổng thống Adams đã bác bỏ những lời khuyên từ Hamilton – người muốn tiến hành chiến tranh – và nối lại đàm phán với Pháp. Napoleon lúc ấy vừa mới lên nắm quyền, ông đã tiếp các phái viên của Mỹ rất chân tình và hiểm họa của cuộc xung đột đã lắng xuống sau khi có cuộc đàm phán về Hiệp định năm 1800. Hiệp định này đã chính thức giải phóng nước Mỹ khỏi liên minh quân sự đã được ký kết với Pháp 1778. Tuy nhiên, do biết được thế yếu của Mỹ nên Pháp từ chối việc trả 20 triệu đô-la đền bù cho những chiếc tàu Mỹ bị hải quân Pháp chiếm giữ.
Sự thù địch với nước Pháp đã khiến Quốc hội thông qua các Đạo luật về Ngoại kiều và nổi loạn. Những đạo luật này này ngược lại nghiêm trọng những quyền tự do dân sự của Mỹ. Đạo luật Nhập quốc tịch thay đổi yêu cầu nhập quốc tịch từ năm năm lên tới 14 năm là nhằm vào người nhập cư Ai-len và Pháp vốn bị nghi ngờ ủng hộ những người chủ trương cộng hòa. Đạo luật Ngoại kiều chỉ có hiệu lực trong hai năm đã trao cho tổng thống quyền trục xuất hay tống giam những công dân nước ngoài trong thời chiến. Đạo luật Nổi loạn cấm việc viết, nói hay xuất bản bất cứ nội dung giả dối, xúc phạm và ác ý chống lại tổng thống hay Quốc hội. Một vài vụ kết án thành công theo Đạo luật Nổi loạn chỉ đẻ ra những kẻ tử vì đạo chiến đấu vì sự nghiệp tự do dân sự và càng gia tăng sự ủng hộ cho phe Cộng hòa.
Các đạo luật đã vấp phải sự chống đối. Jefferson và Madison đã bảo trợ cho việc thông qua các nghị quyết của hai bang Kentucky và Virginia do các cơ quan lập pháp của họ trình vào tháng 11 và 12/1798. Khẳng khái tuyên bố các quyền của tiểu bang, các nghị quyết nhấn mạnh các tiểu bang có thể nêu những quan điểm của họ về những hành động của liên bang cách và vô hiệu hoá các hành động ấy. Học thuyết về vô hiệu hóa sau này được các bang miền Nam sử dụng chống lại thuế quan bảo hộ và chế độ nô lệ.
Đến năm 1800, nhân dân Mỹ đã sẵn sàng thay đổi. Dưới sự lãnh đạo của Washington và Adams, phái ủng hộ chủ nghĩa liên bang đã thiết lập được một chính quyền mạnh, nhưng đôi khi đã không tôn trọng nguyên tắc Chính phủ Liên bang phải lắng nghe nguyện vọng của dân vì chính phủ đã theo đuổi các chính sách xa lạ với đông đảo nhân dân. Chẳng hạn, năm 1798, họ đã ban hành sắc thuế về nhà cửa, đất đai và nô lệ, làm ảnh hưởng tới tất cả chủ sở hữu ở Mỹ.
Jefferson dần dần đã tập hợp một lực lượng quần chúng gồm đông đảo các chủ trại nhỏ, những chủ cửa hàng và những người làm công ăn lương khác ủng hộ ông. Ông đã đắc cử với kết quả sít sao. Jefferson rất được lòng dân bởi ông kêu gọi thực hiện chủ nghĩa lý tưởng Mỹ. Trong bài diễn văn nhậm chức – diễn văn nhậm chức đầu tiên tại thủ đô mới là Washington, D.C. – ông cam kết xây dựng một chính quyền khôn ngoan và tiết kiệm, đảm bảo trật tự cho dân chúng nhưng sẽ cũng để cho công chúng tự do theo đuổi nghề nghiệp và tiến bộ.
Chỉ có sự hiện diện của Jefferson ở Nhà Trắng mới có thể khuyến khích những tiến trình dân chủ. Ông giảng giải và thực hiện những triết lý đơn giản về dân chủ, tránh xa hoa và phô trương thường gắn liền với chức vụ tổng thống. Theo tư tưởng cộng hòa, ông đã cắt giảm chi tiêu quân sự. Do tin rằng nước Mỹ là thiên đường của những người bị áp bức, ông đã thông qua luật nhập quốc tịch tự do. Đến cuối nhiệm kỳ hai của ông, vị Bộ trưởng Tài chính nhìn xa trông rộng của ông, Albert Gallatin, đã giảm nợ công xuống còn dưới 560 triệu đô-la. Vì được lòng dân nên Jefferson đã tái đắc cử tổng thống nhiệm kỳ tiếp theo một cách dễ dàng.
Bang Louisiana và nước Anh
Một trong số những đạo luật của Jefferson đã nhân đôi diện tích nước Mỹ. Vào thời kỳ cuối của cuộc Chiến tranh Bảy năm, nước Pháp đã nhượng quyền cho Tây Ban Nha sở hữu vùng lãnh thổ phía Tây sông Mississippi. Việc tiếp cận cảng New Orleans gần cửa sông này có ý nghĩa sống còn đối với việc vận chuyển hàng hóa của Mỹ bằng tàu từ vùng thung lũng sông Ohio và Mississippi. Ngay sau khi Jefferson đắc cử tổng thống, Napoleon đã buộc Chính phủ Tây Ban Nha trả lại lãnh thổ rộng lớn ở Lousiana cho Pháp. Động thái này đã khiến người Mỹ e sợ và căm phẫn. Những kế hoạch của Napoleon nhằm xây dựng một đế chế thuộc địa bao la ở phía Tây đã đe dọa sự phát triển trong tương lai của Hợp chúng quốc. Jefferson đã tuyên bố “nếu nước Pháp chiếm lại Louisiana thì kể từ giây phút đó, chúng ta phải tự kết thân với người Anh và hạm đội của họ”.
Tuy nhiên, Napoleon không còn quan tâm đến Lousiana sau khi Pháp bị đánh bật khỏi Haiti trong cuộc nổi dậy của nô lệ. Khi biết rằng một cuộc chiến tranh khác với nước Anh đang sắp xảy ra, Napoleon đã quyết định bổ sung ngân sách và đặt Louisiana ngoài tầm với của người Anh bằng cách bán vùng đất này cho Hoa Kỳ. Đề nghị của Napoleon đã đưa Jefferson vào tình thế khó xử: Hiến pháp không nêu cụ thể quyền mua bán lãnh thổ. Một mặt, Jefferson muốn đề xuất một Điều bổ sung sửa đổi Hiến pháp song mặt khác, việc trì hoãn cũng có thể khiến Napoleon thay đổi ý định. Sau khi được tham mưu rằng quyền mua lãnh thổ đã nằm sẵn trong quyền ký kết các điều ước, Jefferson đã dịu đi và nói rằng “lương tri của dân tộc ta sẽ sửa sai hậu quả của một sự giải thích không chặt chẽ một khi sự giải thích ấy sản sinh ra những kết quả không mong muốn”.
Hợp chúng quốc đã mua được Louisiana với giá 15 triệu đô-la vào năm 1803. Miền này rộng hơn 2,6 triệu km2 và có cảng New Orleans. Nước Mỹ đã có được một vùng đất bao la có những đồng bằng màu mỡ, những dãy núi, những khu rừng và hệ thống sông ngòi. Chỉ trong vòng 80 năm, khu vực này trở thành trung tâm của nước Mỹ – và là vựa lúa mì của thế giới.
Khi Jefferson bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của mình vào năm 1805, ông tuyên bố quy chế trung lập của Mỹ trong cuộc chiến giữa Anh và Pháp. Tuy cả hai phe đều cố gắng hạn chế vận chuyển hàng hải trung lập tới phe kia, song sự kiểm soát của Anh trên biển cả đã khiến lệnh cấm và bắt giữ của nước này càng trở nên nghiêm trọng hơn nhiều so với bất cứ hành động nào do Pháp của Napoleon gây ra. Các chỉ huy hải quân Anh thường xuyên khám xét tàu Mỹ, tịch thu tàu và hàng hóa, và cướp đi những thủy thủ mà họ cho là thần dân của nước Anh. Họ cũng thường xuyên cưỡng ép ngư dân Mỹ đi lính cho họ.
Khi Jefferson tuyên bố ra lệnh cho các tàu chiến Anh ra khỏi lãnh hải của Mỹ thì người Anh đã phản ứng lại bằng cách cưỡng bức tòng quân càng nhiều thủy thủ người Mỹ hơn. Jefferson quyết định sử dụng sức ép kinh tế. Tháng 12/1807, Quốc hội thông qua Đạo luật Cấm vận, cấm tất cả hoạt động ngoại thương. Trớ trêu thay, luật lại yêu cầu cần có lực lượng cảnh sát hùng hậu, và chính điều này đã gia tăng rất nhiều quyền hạn của Chính phủ Liên bang. Về mặt kinh tế, biện pháp này quả là lợi bất cập hại. Chỉ riêng trong một năm, xuất khẩu của Mỹ đã giảm một phần năm so với trước. Ngành vận tải biển cũng bị mất đi do biện pháp này. Tình trạng bất mãn tăng mạnh ở New England và New York. Ngành nông nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề. Giá cả hàng hóa đã sụt giảm khi các chủ trại miền Nam và miền Tây không thể xuất khẩu được lượng ngũ cốc, bông, thịt và thuốc lá dư thừa của họ.
Lệnh cấm vận đã không khiến nước Anh phải chết đói đến mức phải thay đổi chính sách. Do sự phản đối trong nước ngày càng gia tăng, Jefferson đã quay sang biện pháp mềm mỏng hơn nhằm hài hòa lợi ích của ngành vận tải biển. Đầu năm 1809 ông đã ký Đạo luật Không giao dịch, cho phép buôn bán với tất cả các nước trừ Anh hay Pháp và những nước phụ thuộc họ.
James Madison đã kế nhiệm Jefferson làm tổng thống năm 1809. Quan hệ với nước Anh đã trở nên tồi tệ hơn, và hai nước đã nhanh chóng đi đến bên bờ vực của cuộc chiến. Tổng thống đã trình Quốc hội một bản báo cáo chi tiết, chỉ dẫn hàng nghìn dẫn chứng về việc người Anh cưỡng bức công dân Mỹ tòng quân. Ngoài ra, những người định cư ở Tây Bắc đã bị thổ dân da đỏ tấn công vì bị mật vụ Anh ở Canada kích động. Kết quả là, nhiều người Mỹ đã ủng hộ việc chinh phục Canada và loại bỏ ảnh hưởng của Anh ở Bắc Mỹ, đồng thời trả thù cho món nợ cưỡng bức tòng quân và đàn áp về thương mại. Đến năm 1812, không khí chiến tranh bao trùm khắp nơi, và nước Mỹ đã tuyên chiến với Anh ngày 18/6.
Cuộc chiến tranh năm 1812
Nước Mỹ tham chiến mà nội bộ chia rẽ sâu sắc. Nếu như miền Nam và miền Tây ủng hộ chiến tranh thì các bang New York và New England lại phản đối bởi lẽ chiến tranh cản trở việc làm ăn buôn bán của họ. Lực lượng quân sự của Mỹ rất yếu. Cả binh lực mới có dưới 7.000 quân chính quy, lại đóng rải rác dọc bờ biển gần biên giới với Canada và ở vùng nội địa xa xôi. Lực lượng dân phòng của các tiểu bang chỉ được huấn luyện thô sơ và vô kỷ luật.
Sự thù nghịch giữa hai nước đã bắt đầu từ việc xâm lược Canada. Lẽ ra nếu được dàn xếp kịp thời và hợp lý thì họ đã chung tay chống lại Montreal. Tiếc thay, toàn bộ chiến dịch đã thất bại và kết thúc với việc quân Anh chiếm đóng Detroit. Tuy nhiên, hải quân Mỹ lại đạt nhiều thắng lợi. Ngoài ra, các tàu chiến Mỹ do tư nhân quản lý, di chuyển khắp Đại Tây Dương, đã bắt giữ được 500 tàu Anh trong những tháng mùa thu và mùa đông hai năm 1812 và 1813.
Chiến dịch năm 1813 chủ yếu diễn ra ở Hồ Erie. Tướng William Henry Harrison – sau này là tổng thống – đã lãnh đạo lực lượng gồm dân quân, lính tình nguyện và quân thường trực từ bang Kentucky với mục tiêu chiếm lại Detroit. Ngày 12/9, trong khi vẫn còn ở thượng nguồn sông Ohio thì ông đã nhận được tin tức cho biết Thiếu tướng Hải quân Oliver Hazard Perry đã đánh bại hoàn toàn hạm đội Anh trên Hồ Erie. Harrison đã bao vây Detroit và đẩy lùi quân Anh sang Canada, đập tan đội quân Anh bại trận đang tháo chạy cùng bè lũ thổ dân da đỏ của chúng trên sông Thames. Giờ đây toàn bộ vùng đất này đã nằm trong sự kiểm soát của Mỹ.
Một năm sau, Thiếu tướng Thomas Macdonough đã giành chiến thắng trong cuộc đấu súng tầm ngắn với hạm đội nhỏ của Anh trên Hồ Champlain ở vùng New York thượng. Mất sự yểm trợ của hải quân, đội quân xâm lược của Anh gồm 10.000 người đã rút lui về Canada. Tuy nhiên, hạm đội của Anh lại quay sang quấy rối vùng bờ biển miền Đông với khẩu hiệu tiêu diệt và tàn phá. Đêm ngày 24/8/1814, một lực lượng viễn chinh đã đột kích vào lực lượng dân quân của Mỹ, rồi hành quân lên Washington D.C., sau đó rút lui và để lại thành phố trong khói lửa. Tổng thống James Madison phải rút chạy về bang Virginia.
Các nhà đàm phán Anh và Mỹ đã hội đàm tại châu Âu. Tuy nhiên, các phái viên của Anh quyết định nhượng bộ khi họ biết tin về chiến thắng của Macdonough trên Hồ Champlain. Trước tình trạng ngân khố ngày càng thâm thủng phần lớn là do các chi phí quá lớn trong các cuộc chiến tranh của Napoleon, các nhà đàm phán của Anh đã chấp nhận Hiệp định Ghent vào tháng 12/1814. Hiệp định đã chấm dứt tình trạng thù địch, đặt dấu chấm hết cho việc phục hồi các cuộc chinh phục, đồng thời xác định một ủy ban phụ trách giải quyết tranh chấp biên giới. Do không biết hòa ước đã được ký kết nên cả hai bên vẫn tiếp tục giao chiến ở New Orleans, bang Louisiana. Dưới sự chỉ huy của Tướng Andrew Jackson, quân Mỹ đã giành chiến thắng trên bộ vẻ vang nhất, chấm dứt mãi mãi bất kỳ tia hy vọng nào của người Anh về việc tái lập sự ảnh hưởng của họ ở phía Nam biên giới Canada.
Trong khi người Anh và người Mỹ đang đàm phán giải quyết thì các đại biểu ủng hộ chủ nghĩa liên bang được các cơ quan lập pháp của các bang Massachusetts, Rhode Island, Connecticut, Vermont và New Hampshire lựa chọn đã tập trung ở Hartford, bang Connecticut để phản đối cuộc chiến tranh của Ngài Madison. Bang New England đã cố giao thương với kẻ thù trong suốt cuộc chiến, và một số vùng thực tế đã trở nên giàu có nhờ hoạt động thương mại này. Tuy nhiên, những người ủng hộ chủ nghĩa liên bang lại tuyên bố rằng cuộc chiến tranh đã hủy hoại nền kinh tế. Do có thể xảy ra khả năng ly khai khỏi liên minh, nên hội nghị đã đề xuất một loại các dự thảo Điều bổ sung sửa đổi Hiến pháp nhằm bảo vệ lợi ích của bang New England. Song đoạn kết của cuộc chiến – bị ngưng lại sau chiến thắng vẻ vang ở New Orleans – đã để lại trong những người ủng hộ chủ nghĩa liên bang một vết nhơ nhục nhã về sự phản bội mà họ không bao giờ có thể tẩy được.
Cơn giác ngộ vĩ đại lần hai
Đến cuối thế kỷ XVIII, nhiều người Mỹ có học thức đã tự nhận không còn theo những tín ngưỡng Cơ- đốc truyền thống nữa. Đáp lại phong trào thế tục đang diễn ra trong thời đạ i, phong trào phục hưng tôn giáo đã nhanh chóng tiến về phía tây vào nửa đầu thế kỷ XIX.
“Cơn giác ngộ vĩ đại lần hai này có nhiều loại hình hoạt động và có sự khác biệt theo địa phương và cách thức thể hiện gắn bó tôn giáo. Ở bang New England, tinh thần tôn giáo trỗi dậy đã kích thích một làn sóng tuyên truyền mạnh mẽ trong xã hội. Ở phía tây New York, tinh thần phục hưng đã khuyến khích sự xuất hiện những giáo phái mới. Ở vùng Appalachian thuộc bang Kentucky và Tennessee, phong trào phục hưng đã củng cố các giáo phái Giám lý và Baptist, và sản sinh một hình thức thể hiện tôn giáo mới – tụ họp trong lều trại.
Trái với Cơn giác ngộ vĩ đại trong thập niên 1730, phong trào phục hưng ở miền Đông nổi tiếng vì không có kích động cuồng loạn và công khai cảm xúc. Trái lại, những người phi tín ngưỡng đã kinh sợ với sự im lặng đáng kính của những người đang mang những bằng chứng cho đức tin của họ. Tinh thần phục hồi phái phúc âm ở bang New England đã dẫn đến sự ra đời những hội truyền giáo liên giáo phái để truyền bá phúc âm tới miền Tây. Các thành viên của những giáo phái này không chỉ hành động như những tông đồ vì đức tin mà còn như những nhà giáo dục, những nhà lãnh đạo nhân dân và đại diện của nền văn hóa đô thị miền Đông. Việc ấn hành sách báo và các hội giáo dục đã góp phần đẩy mạnh truyền bá đạo Cơ- đốc. Nổi bật nhất trong số các hội này là Hội Thánh kinh Hoa Kỳ thành lập năm 1816. Lòng hăng say hoạt động xã hội vốn được kích thích bởi phong trào phục hưng tôn giáo đã góp phần mở đường cho các nhóm bãi nô, Hội Khuyến khích Thanh tịnh và những nỗ lực cải tạo nhà tù, đồng thời chăm sóc người tàn tật và người thiểu năng trí tuệ.
Miền Tây New York, từ Hồ Ontario đến dãy núi Adirondack đã là nơi hoạt động của nhiều cuộc phục hưng tôn giáo trước đây – hay còn gọi là phong trào Rực cháy khắp quận. Chính tại nơi đây có một nhân vật nổi tiếng, Charles Grandison Finney, luật sư đã trải qua lễ hiển linh và chuẩn bị giảng Phúc âm. Phong trào thúc đẩy lòng mộ đạo của ông đã được chuẩn bị chu đáo, thu hút được đông đảo quần chúng và quảng bá rất rộng. Finney đã giảng đạo ở khu vực Rực cháy khắp quận suốt thập niên 1820 và đầu thập niên 1830 trước khi chuyển tới bang Ohio vào năm 1835 làm giảng viên thần học tại Đại học Oberlin. Sau này ông trở thành hiệu trưởng của trường.
Hai giáo phái khác ở Mỹ là Mormons (các Thánh ngày nay) và Seventh Day Adventists (giáo phái Tin vào lần xuất hiện thứ hai của Chúa), cùng khởi đầu ở miền đất rực cháy này.
Ở khu vực Appalachian, phong trào phục hưng tôn giáo có những nét đặc điểm giống Cơn giác ngộ vĩ đại của thế kỷ trước. Nhưng tại đây, trung tâm của phong trào phục hưng là những cuộc gặp gỡ trong lều – một nghi lễ tôn giáo kéo dài nhiều ngày cho nhóm tín đồ phải lưu lại nơi hành lễ vì quá xa nhà. Những người tiên phong ở vùng thưa thớt dân cư đã tìm đến những buổi hành lễ trong lều làm nơi trốn tránh cuộc sống đơn côi nơi biên ải. Niềm hân hoan từ việc tham gia buổi lễ phục hưng tôn giáo cùng với hàng trăm và có lẽ hàng nghìn người đã thôi thúc họ vui ca, nhảy múa, hò hét thâu suốt các buổi lễ.
Phong trào phục hưng tôn giáo nhanh chóng lan khắp các bang Kentucky, Tennesssee và miền Nam bang Ohio, trong đó người hưởng lợi chủ yếu là tín đồ Giám lý và Baptist. Mỗi giáo phái đều có tài sản giúp họ trở nên hưng thịnh ở miền biên ải. Các tín đồ Giám lý có bộ máy tổ chức rất hiệu quả, chủ yếu dựa vào các mục sư – hay còn gọi là những kỵ sỹ kinh lý – tìm đến những con người sinh sống ở khu vực biên giới xa xôi. Các kỵ sỹ kinh lý đến với dân thường để giúp đỡ họ gây dựng quan hệ với các gia đình sống ven biên giới. Họ hy vọng sẽ cải biến những con người này thành những tín đồ. Những người thuộc Giáo phái Baptist không có tổ chức giáo hội chính thức. Những người giảng đạo kiêm chủ trang trại của họ đqược tôn vinh là “những người nhận được lời hiệu triệu của Chúa Trời”. Họ học kinh thánh và lập nhà thờ nơi sau này chính họ sẽ được thụ phong. Những ứng viên mục sư khác cũng xuất phát từ các nhà thờ này, giúp giáo phái Baptist thiết lập được sự hiện diện xa hơn vào miền đất hoang sơ. Sử dụng những phương pháp như vậy, giáo phái Baptist đã đóng vai trò chủ đạo ở khắp các bang giáp biên giới và hầu hết miền Nam.
Cơn giác ngộ vĩ đại lần hai đã có ảnh hưởng mạnh mẽ tới lịch sử nước Mỹ. Sức mạnh của các tín đồ Baptist và Giám lý đã gia tăng đáng kể so với những giáo phái chủ đạo khác thời thuộc địa – Anh giáo, Giáo hội Trưởng lão và những người theo giáo đoàn. Sự khác biệt ngày càng lớn trong nội bộ giáo hội Tin Lành Hoa Kỳ đã phản ảnh sự lớn mạnh và đa dạng của một dân tộc đang vươn dậy.
@by txiuqw4