sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 11

NHẬT KÝ CỦA LARS NELLE Ở ĐÂU?”, DE ROQUEFORT HỎI. Vẫn ở trong sự kiềm tỏa của hai gã đàn ông, Peter Hansen nhìn chằm chằm vào gã. Gã biết là Hensen đã từng có lúc khá thân cận với Lars Nelle. Khi phát hiện Stephanie Nelle sắp sang Đan Mạch để dự buổi đấu giá ở Roskilde, gã đã nghĩ là bà sẽ liên lạc với Peter Hansen. Chính vì vậy mà gã đã tiếp cận lão buôn sách trước.

“Chắc chắn là Stephanie Nelle đã nói đến nhật ký của chồng bà ta không?”

Hansen lắc đầu. “Không. Không hề”.

“Khi Lars Nelle còn sống, ông ấy có nói là mình viết nhật ký không?”

“Chưa bao giờ”.

“Ông có hiểu tình thế của ông không đấy? Tất cả những gì mà tôi muốn ông đều không làm được, và tệ nhất là ông làm tôi thất vọng”.

“Tôi biết là Lars thường xuyên ghi chép rất tỉ mỉ”. Sự tức tối tràn ngập trong giọng nói của Hansen. “Nói tiếp đi”.

Hansen có vẻ cứng rắn trở lại. “Khi nào tôi được thả ra đã”.

De Roquefort để cho lão già được thỏa mãn. Gã hất đầu và người của gã liền thả lão ra. Hansen vội vàng nốc một ngụm bia, rồi đặt nó lên bàn. “Lars viết rất nhiều sách về Rennes-le- Château. Tất cả những cái đó đều về những mảnh giấy da dê đã

mất, cấu trúc ẩn, và đủ thứ bán rất chạy”. Hansen có vẻ như đã vững tâm lại. “Ông ấy ám chỉ đến mọi thứ kho báu mà ông ấy có thể tưởng tượng ra. Vàng của người Visigoth, tài sản của Hiệp sĩ, tiền bạc của người Cathar. Dùng một sợi chỉ để dệt một mảnh vải đó là điều ông ấy vẫn thường nói”.

De Roquefort đã biết tất cả về Rennes-le-Château, một ngôi làng nhỏ ở miền Nam nước Pháp tồn tại từ thời La Mã. Một giáo sĩ sống cuối thế kỷ mười chín đã bỏ ra những món tiền rất lớn để sửa sang lại nhà thờ địa phương. Nhiều thập kỷ sau, tin đồn bắt đầu lan truyền rằng vị giáo sĩ đã trả tiền cho việc đó nhờ một kho báu lớn mà ông ta đã tìm ra. Lars Nelle biết được về cái nơi rắc rối đó ba mươi năm trước và viết một cuốn sách về câu chuyện ấy, sau đó trở thành sách bán chạy ở mức quốc tế.

“Vậy thì hãy nói cho tôi trong cuốn sổ đó ghi gì”, gã hỏi. “Các thông tin khác để Lars Nelle chuẩn bị viết sách à?”

“Tôi đã nói với ông rồi, tôi không biết gì về một cuốn sổ cả”.

Hansen lại về lấy cái chai và uống thêm một ngụm nữa. “Nhưng vì biết Lars, tôi ngờ là ông ấy đã nói toàn bộ mọi điều trong các cuốn sách của mình”.

“Thế ông ấy giấu giếm cái gì?”

Một nụ cười xảo trá hiện ra trên môi lão già Đan Mạch. “Cứ như là ông chưa biết ấy. Nhưng tôi đảm bảo với ông, tôi không biết gì cả đâu. Tôi chỉ biết những gì đọc được trong các sách của Lars thôi”.

“Tôi không thể đảm bảo điều gì, nếu là ông”.

Hansen không có vẻ gì là bối rối. “Thế thì nói cho tôi, điều gì quan trọng đến vậy về quyển sách tôi nay? Thậm chí nó còn không nói về Rennes-le-Château”.

“Đó là chìa khóa cho tất cả mọi chuyện”.

ca mọi chuyện được?”

“Rất nhiều khi cái đơn giản nhất lại là quan trọng nhất”.

“Làm thế nào mà một quyển sách không chút đáng giá, mới được hơn một trăm năm mươi năm, lại có thể là chìa khóa cho tất

Uuimm với tay lấy thuốc lá. “Lars là một người rất lạ. Tôi chưa bao giờ hiểu rõ ông ấy. Ông ấy bị ám ảnh nặng với tất cả những thứ thuộc về Rennos đó. Ông ấy thích chỗ đó. Thậm chí còn tìm một i'iiì 11 hù cV đó. Tôi đến một lần rồi. Ảm đạm vô cùng”.

“Lars có nói là tìm ra cái gì đó không?”

De Roquefort lại liếc nhìn gã vẻ ngờ vực. “Như là gì?”

"Đừng tỏ ra ranh mãnh. Tôi không thích đùa đâu”.

"Hẳn ông cũng phải biết điều gì đó, nếu không ông đã không ở đôy". Hansen cúi người đổ bỏ mẩu thuốc lá vào gạt tàn. Nhưng tay lão vẫn đi tiếp, thẳng đến chỗ một ngăn kéo mở ở cái bàn bên, và một khẩu súng hiện ra. Một trong hai gã đàn ông của de Roquefort đá văng nó đi khỏi tay lão buôn sách.

“Điên rồ thật”, de Roquefort nói.

"Cút đi!" Hansen gào lên, xoa tay.

Điện đàm ở cổ tay de Roquefort lên tiếng, và một giọng nói cất lên: "Một người đàn ông đang lại gần”. Nghỉ một lúc. “Đó là Malono. Đi thẳng đến hiệu sách”.

Thật là bất ngờ, nhưng cũng có thể là đã đến lúc gửi một thông điệp thật rõ ràng rằng đây không phải là chuyện của Malone. Gã ra hiệu cho hai tên thuộc hạ. Họ tiến lên và lại tóm lấy tay Peter Hanson.

"Thất vọng có giá đấy”, de Roquefort nói.

“Ông là cái đồ quái quỷ nào?”

“Ai đó mà ông rất không nên đùa cợt”. De Roquefort làm dấu thánh giá. “Cầu cho Chúa ở cùng ông.”

Miilono nhìn thấy ánh sáng cửa sổ tầng bốn. Đoạn phố chạy qua hiệu sách của Hansen không một bóng người. Chỉ có vài cái xe đậu trên đá lót đường màu đen, mà anh biết đến sáng sẽ đi khỏi hết, khi các chủ cửa hiệu lại chiếm lĩnh phần đành riêng cho người đi bộ này của Stroget.

Stephanie đã nói gì lúc trước trong hiệu sách của Hansen? Chồng tôi nói ông là người có khả năng tìm được những thứ không thể tìm. Như vậy rõ ràng là Hansen có quan hệ với Lars Nelle, và sự kết hợp đó có thể giải thích tại sao Stephanie lại đến tìm Hansen chứ không phải là đến gặp anh. Nhưng điều đó không trả lời được rất nhiều câu hỏi mà Malone đang có trong đầu.

Malone chưa bao giờ gặp Lars Nelle. Ông mất một năm trước khi Malone gia nhập Magellan Billet, vào thời anh và Stephanie vừa quen nhau. Nhưng sau đó anh đã đọc tất cả sách của Nelle, những cuốn sách pha trộn lịch sử, sự kiện, phỏng đoán, và sự tình cờ to lớn. Lars là một người gieo rắc ở tầm quốc tế ý tưởng về chuyện vùng đất phía Nam nước Pháp, Languedoc, sở hữu một kho báu lớn. Điều đó có thể hiểu được một phần. Vùng này đã từng, trong một thời gian dài, là vùng đất của các nhà thơ lang thang, một nơi có nhiều lâu đài và nhiều trận đánh, nơi phát sinh truyền thuyết về cái bình thiêng Grail. Thật không may, tác phẩm của Lars Nelle không mang đủ tính học thuật nghiêm túc. Thay vào đó, các giả thuyết của ông chỉ thu hút được sự quan tâm của các nhà văn mới và những nhà làm phim độc lập triển khai trên những tiền đề do ông đặt ra, sau này còn nảy ra những giả thuyết khác liên quan cả đến người ngoài hành tinh, sự cướp bóc của người La Mã, và cả bản chất bị che giấu của đạo Thiên Chúa. Dĩ nhiên là không có gì được chứng minh hay tìm ra. Nhưng Malone chắc chắn rằng ngành du lịch của Pháp rất thích sự suy diễn theo lối đó.

Quyển sách mà Stephanie tìm cách mua ở nhà đấu giá Roskilde mang tên Pierres Grayées du Languedoc. Bia đá khắc vùng Languedoc. Một cái tên kỳ cục về một chủ đề còn kỳ cục hơn. Thực ra là có quan hệ gì? Anh biết là Stephanie vẫn luôn không mấy ấn tượng với tác phẩm của chồng. Sự bất đồng đó là vấn đề lớn nhất trong cuộc hôn nhân của họ và thực tế đã dẫn đến việc họ không sống cùng nhau - Lars sống ở Pháp, bà ở Mỹ.

Vậy thì bà làm gì ở Đan Mạch này mười một năm sau cái chết của ông? Và tại sao những người khác lại cũng nhảy vào chuyện này - đến mức đã có người phải bỏ mạng?

Anh tiếp tục bước đi và cố gắng sắp xếp các suy nghĩ của mình. Anh biết Peter Hansen sẽ không thích thú gì việc gặp anh, vì vậy anh tự nhủ mình cần phải chọn lựa ngôn từ thật cẩn thận.

Anh phải xoa dịu lão ngốc và biết được những gì có thể. Thậm chí anh còn sẵn sàng trả tiền nếu cần thiết.

Cái gì đó lóe lên từ một trong những cửa sổ tầng trên cùng nhà Hansen.

Anh nhìn chằm chằm cảnh một thân hình lao ra, đầu xuống trước, bắn vào không khí, rồi rơi thẳng xuống nắp một cái xe đang đậu dưới đường.

Anh vội chạy đến nơi và nhìn thấy Peter Hansen. Anh thử bắt mạch. Rất yếu. Thật kỳ lạ, Hansen mở mắt.

“Ông có nghe thấy tôi nói không?”, anh hỏi Hansen.

Không có trả lời.

Cái gì đó rít lên cạnh đầu anh và ngực Hansen nảy lên. Một tiếng nữa và cái đầu bửa đôi, máu và thịt người bắn lên áo jacket của anh.

Anh quay ra nhìn.

Ở cửa sổ tầng thứ tư, một gã đàn ông tay cầm súng đang đứng, vẫn là gã mặc áo jacket da đã bắn anh ở nhà thờ lớn - kẻ đã định tấn công Stephanie. Lúc này gã đang nhằm bắn tiếp. Malone vội lẩn ra đằng sau cái xe.

Những phát đạn vang lên.

Tiếng nổ bị chìm đi, nghe như những tiếng vỗ tay. Một khẩu súng lắp nòng giảm thanh. Một viên đạn bắn trúng mui xe bên cạnh Hansen. Một viên khác trúng vào kính trước. “Ngài Malone. Chuyện này không dính dáng gì đến anh,” gã đàn ông nói từ trên cao.

“Giờ thì biết rồi”.

Anh không định ở lại đây để bàn luận về chủ đề đó. Anh khom người, lấy dãy xe đỗ ở đó làm lá chắn để chạy ra xa.

Những phát đạn khác, nghe như tiếng đập vào gỗ, tìm đường đi giữa kính và sắt.

Hai mươi yard sau, anh liếc nhìn về phía sau. Bộ mặt đó đã biến mất khỏi cửa sổ. Anh đứng lên và chạy, rẽ ngoặt ngay ở chỗ rẽ đầu tiên. Anh rẽ tiếp nhiều lần, tìm cách lợi dụng mê cung phố xá ở đây để chạy xa khỏi những kẻ truy đuổi. Máu ướt đẫm trên thái dương của anh. Tim anh đập dồn đập. Khốn khiếp. Anh lại quay lại trò chơi rồi.

Anh dừng lại một lúc để hít thở không khí mát lạnh.

Tiếng bước chân tiến lại gần từ đằng sau. Anh tự hỏi không biết những kẻ truy đuổi có quen thuộc phố xá khu Stroget hay không. Anh phải giả định là chúng có biết rõ. Chạy vào một góc phố khác và những cửa hiệu tối tă m hơn bao trùm lấy anh. Dạ dày anh quặn lên. Anh không có lựa chọn nào. Phía trước là một trong số rất nhiều quảng trường, một đài phun nước nằm ở chính giữa. Tất cả các quán cà phê nằm xung quanh đều đóng cửa vào giờ này. Không nhìn thấy một bóng người. Rất ít chỗ có thể trốn được ở đây. Xa xa hiện ra một nhà thờ. Từ cửa sổ kính nẹp sắt hắt ra một thứ ánh sáng yếu ớt. Vào mùa hè, các nhà thờ ở Copenhagen đều mở cửa đến nửa đêm. Anh cần một chỗ để trốn, ít nhất là trong một lúc. Vì vậy anh chạy qua cổng đá của nhà thờ.

Cửa mở ra.

Anh đẩy cánh cửa nặng nề vào phía trong, rồi nhẹ nhàng đóng nó lại sau lưng, hy vọng những kẻ truy đuổi không nhìn thấy.

Bên trong, đồ đạc được chiếu đèn mờ tối. Một ban thờ lớn và những pho tượng giống như những hình ảnh ma quái trong bầu không khí ảm đạm. Anh nhìn vào bóng tối ở phía ban thờ và thấy những bậc cầu thang và ánh sáng chiếu lên từ bên dưới. Anh đi về phía đó và bước xuống, lòng cảm thấy tràn ngập lo lắng, lạnh lẽo.

Một cái cửa sắt ở cuối mở vào một khoảng không gian rộng gồm ba gian với một trần nhà mái vòm. Hai quan tài làm bằng những phiến đá granit lớn nằm ở giữa. Trong bóng tối chỉ có duy nhất ánh sáng đến từ một ngọn đèn hổ phách đặt gần một ban thờ nhỏ. Nơi này có vẻ tốt để trốn một lúc. Anh không thể quay về hiệu sách của mình. Chắc chắn là bọn chúng biết anh sống ở đâu. Anh tự nhủ mình phải bình tĩnh, nhưng sự yên ổn tạm thời của anh đã bị phá vỡ bởi tiếng cửa mở phía trên. Cái nhìn của anh dán chặt lên vòm trần không cao quá ba feet tính từ đầu anh.

Tiếng bước chân của hai người đang dọc ngang ở tầng trên.

Anh lùi sâu hơn vào bóng tối. Tâm trí anh tràn ngập nỗi hoảng sợ quen thuộc, mà anh có gắng đuổi đi bằng sự tự chủ. Anh cần cái gì đó bảo vệ cho anh, cho nên anh tìm kiếm trong bóng tối. Trong một hậu điện cách đó hai mươi feet, anh nhìn thấy một cái giá nến bằng sắt.

Anh luồn qua đó.

Giá nến cao khoảng năm feet, một cây nến sáp duy nhất, dày khoảng bốn inch, được cắm ở chính giữa. Anh gỡ ngọn nến xuống và kiểm tra thân giá bằng sắt. Nặng. Với giá nến trong tay, anh nhón chân đi qua khu hầm mộ và đứng vào sau một cột chống.

Ai đó đang bước xuống thang gác.

Anh chú mục nhìn qua mấy cái mộ, xuyên qua bóng tối, cả người căng thẳng với một thứ năng lượng trong quá khứ vẫn thường làm sáng rõ những suy nghĩ của anh.

Ở cuối cầu thang xuất hiện một bóng người. Gã cầm một khẩu súng, nòng giảm thanh nhìn rõ ngay cả trong bóng tối. Malone siết chặt tay hơn vào thanh sắt và hếch vũ khí của mình lên. Gã đàn ông đang đi về phía anh. Cơ bắp của anh căng lên. Anh đếm thầm đến năm, nghiến chặt răng, rồi vung cái giá nến lên và đập trúng ngực gã đàn ông, đẩy lùi hắn lại gần một cái mộ.

Anh buông thanh sắt sang bên cạnh và đâm vào hàm gã đàn ông. Khấu súng bay lên trời và đậu xuống sàn nhà.

Gã đàn ông gục xuống.

Anh chạy đi tìm súng thì lại có tiếng bước chân đến gần. Anh tìm được khấu súng và nắm chặt lấy nó.

Hai phát đạn bắn về phía anh.

Bụi bay xu ống từ trần nhà vì mấy viên đạn bắn trúng vào đá. Anh nấp vào sau cây cột gần nhất và bắn, Viên đạn bắn qua bóng tối, nảy ra từ bức tường phía xa.

Gă đàn ông thứ hai dừng lại, nấp vào sau một ngôi mộ.

Giờ thì anh mắc kẹt rồi.

Giữa anh và lối ra duy nhất là một gã đàn ông có súng. Kẻ truy đuổi thứ nhất bắt đầu hồi phục, cất tiếng rên rỉ. Malone có súng, nhưng vẫn bị chênh lệch lực lượng.

Anh nhìn chằm chằm vào gian phòng tối mờ và cố gắng tập trung.

Gã đàn ông đứng dậy khỏi sàn nhà rồi đột nhiên ngã sấp xuống.

Vài giây trôi qua.

Im lặng.

Có tiếng bước chân vẳng xuống từ phía trên. Rồi cửa nhà thờ mở ra và đóng lại. Anh không cử động. Sự tĩnh lặng làm thần kinh suy nhược. Cái nhìn của anh hướng thẳng vào bóng tối. Không có cử động nào ở bất kỳ đâu.

Anh quyết định thử liều và trườn về phía trước.

Kẻ truy đuổi đầu tiên nằm thẳng cẳng trên sàn nhà. Gã đàn ông còn lại có vẻ như đang bất động. Anh tìm mạch của cả hai. Đều còn đập, nhưng yếu. Rồi anh nhìn thấy cái gì đó ở sau cổ mỗi gã. Anh cúi người xuống nhìn gần hơn và thấy một phi tiêu nhỏ giống như một cây kim, dài khoảng nửa inch.

Người đã cứu anh được trang bị một thứ vũ khí tinh vi.

Hai gã đàn ông nằm trên sàn nhà chính là hai gã ở bên ngoài nhà đấu giá lúc trước. Nhưng ai là người đã vô hiệu hóa bọn họ? Anh cúi người xuống và lấy cả hai khẩu súng, rồi tìm kiếm trong người hai cái xác. Không có giấy tờ gì. Một gã có một cái điện đàm giấu dưới áo jacket. Anh rút ra được cả tai nghe và microphone.

“Có ai ở đó không?”, anh nói vào phone.

“Ai đấy?"

“Ông là người ở nhà thờ lớn? Người vừa giết Peter Hansen”.

“Đúng một nửa”.

Anh nhận ra không ai nói nhiều như vậy qua một kênh thông tin mở, nhưng thông điệp hết sức rõ ràng. “Người của ông bị hạ rồi”.

“Do anh làm à?”

“Tôi cũng mong được như vậy. Ông là ai?”

“Điều này không liên quan gì đến thảo luận của chúng ta”.

“Tại sao Peter Hansen lại trở thành vấn đề với ông?”

“Tôi ghét những kẻ làm tôi thất vọng”.

“Rõ ràng rồi. Nhưng đã có ai đó bất ngờ tấn công người của ông. Tôi không biết là ai, nhưng tôi thích người đó".

Không có câu trả lời. Anh đợi thêm một lúc và chuẩn bị nói tiếp thì có tiếng vọng đến. “Tôi tin là anh sẽ lợi dụng vận may của mình và quay lại với công việc bán sách”

Điện đàm bên kia tắt.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx