sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 46

MALONE TỨC GIẬN. HENRIK THORVALDSEN BIẾT TẤT CẢ MỌI chuyện và đã hoàn toàn không nói gì hết. Anh chỉ vào Cassiopeia. “Cô ấy là bạn ông à?”

“Tôi quen cô ấy từ lâu rồi”.

“Từ khi Lars Nelle còn sống à?”

Thorvaldsen gật đầu.

“Thế Lars có biết mối quan hệ giữa hai người không?”

“Không”.

“Như vậy là ông cũng đã lừa cả ông ấy”. Sự giận dữ hiện rõ trong giọng nói của anh.

Ông già Đan Mạch có vẻ như không tìm cách tự bảo vệ mình. Dù thế nào đi nữa, ông cũng không có cách nào khác. “Cotton, tôi hiểu sự tức tối của anh. Nhưng người ta không thể dự tính hết mọi chuyện sẽ xảy ra được. Còn phải xem xét rất nhiều góc độ. Tôi chắc chắn là khi còn làm việc cho chính phủ Mỹ anh cũng làm vậy thôi”.

Anh không muốn tranh cãi về chuyện đó.

“Cassiopeia theo sát Lars. Ông ấy biết cô ấy, và trong mắt ông ấy, cô ấy là một mối phiền phức. Nhưng nhiệm vụ thực sự của cô ấy là bảo vệ ông ấy”.

“Tại sao không nói thẳng cho ông ấy chuyện đó?”

“Lars là một người bướng bỉnh. Sẽ đơn giản hơn cho Cassiopeia nếu chỉ im lặng mà theo dõi ông ấy. Thật không may là cô ấy không thể bảo vệ ông ấy khỏi chính ông ấy”.

Stephanie tiến lên phía trước, mặt lộ rõ vẻ căng thẳng. “Chính đó là cái mà cuộc đời ông ấy đã cảnh báo. Những động cơ đáng nghi ngờ, sự trung thành không ổn định, giả dối”.

“Tôi phản đối điều đó”. Thorvaldsen nhìn chằm chằm vào bà. “Đặc biệt là kể từ khi Cassiopeia trông coi bảo vệ luôn cả hai người nữa”.

Về điểm đó Malone không thể cãi lại được. “Lẽ ra ông phải nói cho chúng tôi biết”.

“Để làm gì cơ chứ? Như tôi còn nhớ, cả hai người đều có ý định đi sang Pháp - đặc biệt là bà, Stephanie. Vậy có thể làm gì đây? Thay vào đó, tôi đã để cho Cassiopeia có mặt, trong trường hợp các bạn cần đến cô ấy”.

Malone không có ý định chấp nhận cách giải thích lỏng lẻo đó. “Thêm nữa, lẽ ra ông đã có thể cung cấp thông tin cho chúng tôi về Raymond de Roquefort, người mà rõ ràng cả hai người đều biết rõ. Thay vì đó, chúng tôi lại mù tịt về hắn ta”.

“Không có gì nhiều để nói đâu”, Cassiopeia nói. “Khi Lars còn sống, tất cả các giáo hữu cũng đều theo dõi ông ấy. Tôi chưa bao giờ thực sự có liên hệ gì với de Roquefort cả. Điều đó chỉ xảy ra trong vài ngày vừa qua thôi. Những gì tôi biết về hắn ta cũng chỉ ngang bằng với mọi người thôi”.

“Vậy thì làm cách nào mà cô biết trước được các hành động của hắn ở Copenhagen?”

“Tôi có biết đâu. Chỉ đơn giản là tôi đi theo hai người”.

“Tôi chưa bao giờ cảm thấy sự có mặt của cô ở đó”.

“Tôi rất biết những việc mình làm”.

“Cô đã không giỏi lắm khi ở Ayignon đâu. Tôi đã phát hiện ra cô lúc cô ngồi ở quán cà phê”.

“Anh đã chơi trò láu cá với cái khăn ăn, giả vờ đánh rơi nó để quay lại nhìn xem tôi có đi theo hay không. Tôi muốn anh biết là tôi có ở đó. Khi nhìn thấy Claridon, tôi biết rằng de Roquefort ở không xa đằng sau đâu. Hắn đã theo dõi Royce từ hàng năm”.

“Claridon đã nói cho chúng tôi về cô, Malone nói, “nhưng ông ta đã không nhận ra cô lúc ở Ayignon”.

“Ông ta chưa bao giờ nhìn thấy tôi. Ông ta chỉ biết những gì nghe được từ Lars Nelle thôi”.

“Claridon chưa bao giờ nói thế”, Stephanie nói.

“Tôi rất tin là chưa bao giờ Royce nói đến điều đó. Lars chưa bao giờ nhận ra, nhưng Claridon là một vấn đề lớn đối với ông ấy hơn rất nhiều so với tôi”.

“Bố tôi ghét cô", Mark nói, giọng đầy vẻ khinh miệt.

Cassiopeia tỏ vẻ đồng ý với anh. “Bố anh là một người xuất sắc, nhưng ông ấy không biết gì nhiều về bản chất con người. Ông ấy có một cái nhìn quá giản đơn về thế giới. Những mưu mô mà ông ấy tìm, những gì mà anh tìm kiếm sau khi ông ấy chết còn phức tạp hơn rất nhiều so với cả hai người có thể tưởng tượng. Đó là một cuộc tìm kiếm hiểu biết, trong đó nhiều người đã phải bỏ mạng”.

“Mark”, Thorvaldsen nói, “những gì Cassiopeia nói về bố anh đều đúng cả đây, và tôi chắc là anh cũng biết vậy”.

“Ông ấy là một người tốt tin vào những gì mình làm”.

“Đúng là như vậy. Nhưng ông ấy đã giữ riêng cho mình quá nhiều thứ. Anh chưa bao giờ biết được rằng tôi và ông ấy là bạn thân, và tôi rất tiếc vì anh và tôi chưa bao giờ biết nhau. Nhưng bố anh muốn mối liên hệ giữa chúng tôi thật bí mật, và tôi tôn trọng ý muốn đó của ông ấy, ngay cả sau khi ông ấy đã chết”.

“Lẽ ra ông nên nói với tôi”, Stephanie nói.

“Không, tôi không thể”.

“Vậy thì tại sao bây giờ ông lại nói cho chúng tôi?”

“Khi bà và Cotton rời khỏi Copenhagen, tôi đã đến thẳng đây. Tôi nhận ra rằng hai người cuối cùng sẽ tìm được Cassiopeia. Đó chính là lý do khiến cô ấy có mặt ở Rennes hai đêm trước để dẫn hai người tìm đến mình. Thoạt tiên, tôi phải đứng ở đằng sau và hai người không được biết gì về mối quan hệ giữa chúng tôi, nhưng tôi đã nghĩ lại. Mọi chuyện đã đi quá xa. Hai người cũng cần được biết sự thật, vì vậy mà tôi ở đây để nói cho hai người”.

“Ông thật là tốt”, Stephanie nói.

Malone nhìn chằm chằm vào đôi mắt của ông già. Thorvaldsen nói đúng. Anh đã từng nhiều lần rơi vào những tình huống phức tạp kiểu như thế. Cả Stephanie cũng vậy. “Henrik, tôi không hề rơi vào dạng trò chơi này trong hơn một năm nay rồi. Tôi đã bỏ việc vì không muốn chơi nữa. Những luật lệ tệ hại, những điều kỳ cục xấu xa. Nhưng lúc này thì tôi đang đói và, tôi cũng phải nói thêm, đang rất tò mò. Thế nên chúng ta ăn thôi, và ông sẽ nói cho tất cả chúng tôi về sự thật mà chúng tôi cần phải biết đó”.

Bữa trưa có món thỏ rô ti trộn nước xốt mùi tây, xạ hương, và kinh giới, cùng với rau măng tây tươi, một đĩa xa lát, và tráng miệng là nho trộn kem vanilla. Trong khi ăn, Malone cố gắng đánh giá tình hình. Nữ chủ nhà có vẻ hết sức thoải mái, nhưng anh không mấy tin vào sự lịch thiệp của cô.

“Cô đã đối đầu đặc biệt nhiều với de Roquefort vào đêm qua, lúc ở trong cung điện”, anh nói với cô. “Cô học được ở đâu tất cả các kỹ năng đó thế?”

“Tự học thôi. Bố tôi truyền lại cho tôi tính táo bạo của ông ấy, còn từ mẹ, tôi có được cách đánh giá sâu sắc đầu óc của đàn ông”.

Malone mỉm cười. “Một ngày nào đó sẽ có lúc cô đoán sai”.

“Tôi rất vui vì anh quan tâm đến tương lai của tôi. Đã bao giờ anh đoán sai khi còn làm nhân viên cho chính phủ Mỹ chưa?”

“Nhiều lần rồi chứ, và đã có người bỏ mạng vì chuyện đó”.

“Con trai của Henrik có nằm trong danh sách đó không?”

Anh không thích thú gì câu nói đùa đó, đặc biệt khi cô không biết gì về những chuyện đã xảy ra. “Cũng như ở đây thôi, mọi người đều có những thông tin không chính xác. Thông tin không chính xác dẫn đến những quyết định không tốt”.

“Chàng trai đó đã chết”.

“Cai Thorvaldsen ở không đúng chỗ vào một thời điểm tồi tệ”, Stephanie nói rõ.

“Cotton nói đúng đấy”, Henrik ngừng ăn, nói. “Con trai tôi đã chết bởi vì nó không biết gì đến nguy hiểm đang rình rập xung quanh. Cotton có mặt ở đó và đã làm tất cả những gì cậu ấy có thể”.

“Tôi không hề muốn nói điều gì xấu cả”, Cassiopeia nói. “Chỉ là có vẻ như anh lo cho cách xử lý công việc của tôi. Tôi chỉ tự hỏi không biết anh xử lý công việc như thế nào thôi. Dù thế nào thì anh cũng tỏ ra rất giỏi”.

Thorvaldsen gật đầu. “Anh phải tha lỗi cho cô ấy thôi, Cotton.

Cô ấy rất xuất sắc, đầy tính nghệ sĩ, một người rất hiểu biết âm nhạc, một nhà sưu tập đồ cổ. Nhưng cô ấy thừa hưởng từ ông bố rất nhiều tính cách dữ dội. Mẹ cô ấy, cầu Chúa phù hộ cho linh hồn bà ấy, tinh tế hơn nhiều”.

“Henrik rất thích chế nhạo ông bố thô kệch của tôi”.

“Cô may mắn đấy”, Malone nói, nhìn chằm chằm vào cô, “vì tôi đã không bắn ngã cô khỏi cái xe máy khi còn ở Rennes”.

“Tôi không nghĩ là anh thoát ra được Tour Magdala nhanh đến thế. Tôi chắc chắn là những người quản lý khu vực đó sẽ khá bực mình vì bị hỏng mất cái khung cửa sổ ây. Tôi nghĩ nó là một cái cửa sổ hết sức độc đáo đấy”.

“Tôi đang chờ được nghe sự thật mà ông nói lúc nãy đây”, Stephanie nói với Thorvaldsen. “Lúc ở Đan Mạch ông đã yêu cầu tôi phải có cái nhìn thoáng về ông và những gì Lars nghĩ là quan trọng. Bây giờ chúng tôi thấy rằng sự dính dáng của ông còn nhiều hơn tất cả những gì chúng tôi có thể nghĩ. Chắc chắn là ông có thể hiểu được rằng chúng tôi nghi ngờ đến mức độ nào”.

Thorvaldsen bỏ dĩa xuống. “Được thôi. Bà biết Tân Ước đến đâu?”

Một câu hỏi kỳ cục, Malone nghĩ. Nhưng anh biết Stephanie là một tín đồ Thiên Chúa giáo sùng đạo.

“Ngoài những thứ khác, trong đó có bốn sách Phúc Âm - của Matthew, Mark, Luke, và John - tất cả đều kể về Jesus Christ”.

Thorvaldsen gật đầu. “Lịch sử nói rất rõ rằng kinh Tân ước như chúng ta biết được hình thành trong bốn thế kỷ sau Christ, như một cách phổ thông hóa thông điệp của đạo Cơ đốc khi đó đang dần lớn mạnh. Dù thế nào đi nữa, từ catholic mang nghĩa đó - ‘phổ quát!. Hãy nhớ rằng không giống như ngày nay, chính trị và tôn giáo của thế giới cổ đại là một và giống nhau. Khi đa thần giáo sụp đổ, và đạo Do Thái mất dần ảnh hưởng, người ta bắt đầu tìm kiếm một cái gì đó mới mẻ. Những người theo Jesus, chỉ là những người Do Thái muốn kết hợp một cách nhìn khác, viết ra phiên bản của mình về Lời, nhưng cái đó thì giống hệt như tất cả các giáo phái mới nổi lên hồi đó. Lý do chính khiến phiên bản của Thiên Chúa giáo còn lại được, trong khi những phiên bản khác dần mai một, chính là khả năng của nó trong việc ấn định lòng tin một cách phổ quát. Họ đã gắn cho các sách kinh điển nhiều quyền năng đến mức không ai có thể đặt vấn đề về tính xác thực của chúng mà không bị coi là dị giáo. Nhưng có rất nhiều vấn đề với kinh Tân Ước”.

Kinh Thánh là một trong những môn ưa thích của Malone. Anh đã đọc rất nhiều phân tích mang tính lịch sử và biết tất cả về những điều không ổn trong đó. Mỗi sách Phúc Âm là một mớ hỗn độn kỳ quái sự kiện, tin đồn, truyền thuyết, và huyền thoại từng được dịch ra, biên tập, và viết lại theo vô số cách.

“Hãy nhớ rằng Nhà thờ Cơ đốc giáo mới xuất hiện tồn tại trong thế giới La Mã”, Cassiopeia lên tiếng. “Để thu hút nhiều người, các đức cha của Nhà thờ đã phải cạnh tranh với không chỉ các tín ngưỡng ngoại giáo, mà còn cả những niềm tin Do Thái của chính họ nữa. Họ cũng cần phải tự làm cho mình trở nên tách biệt. Jesus phải là một nhân vật vĩ đại hơn là một nhà tiên tri”.

Malone mất kiên nhẫn. “Cái đó thì có liên quan gì với những gì đang diễn ra ở đây?”

“Hãy nghĩ đến việc tìm ra bộ xương của Christ sẽ có ý nghĩa thế nào đối với Cơ đốc giáo đi”, Cassiopeia nói. “Tôn giáo đó xoay quanh chuyện Christ chết trên thập giá, phục sinh, và bay lên thiên đường”.

“Cái đó là một vấn đề thuộc về niềm tin”, Geoffrey nói nhanh

“Cậu ấy nói đúng”, Stephanie nói. “Niềm tin, chứ không phải là sự kiện có thật, đã định ra nó”.

Thorvaldsen lắc đầu. “Tạm thời cứ thử bỏ cái đó ra ngoài đã nhé, bởi vì niềm tin cũng loại trừ luôn lôgic. Hãy nghĩ đến điều này. Nếu một người tên là Jesus từng sống, bằng cách nào mà những người chép chuyện trong Tân Ước biết được về cuộc đời của Người? Chỉ nhìn vào các vấn đề ngôn ngữ thôi nhé. Cựu Ước được viết bằng tiếng Hebrew. Tân Ước viết bằng tiếng Hy Lạp, và tất cả các văn bản, nếu có tồn tại, đều được viết bằng tiếng Aramaic. Vậy thì vấn đề chính là ở nguồn của các văn bản đó.

“Matthew và Luke nói về sự cám dỗ Chúa trên sa mạc, nhưng Jesus lại ở đó một mình khi chuyện xảy ra. Và lần Jesus cầu nguyện ở Vườn Gethesemane nữa. Luke nói Người làm việc đó sau khi đã đi cách xa Peter, James, và John một quãng ném đá. Khi Jesus quay lại, Người thấy các tông đồ của mình đang ngủ và ngay lập tức bị bắt, rồi bị đóng lên thập giá. Hoàn toàn không hề có nói gì về việc Jesus có kể về lần cầu nguyện trong vườn hoặc cám dỗ trên sa mạc. Nhưng chúng ta biết về chúng rõ đến từng chi tiết. Có phải không nào?

“Tất cả các Phúc Âm đều nói đến việc các tông đồ chạy đến chỗ Jesus bị bắt - vậy nên không có ai ở đó vào khi ấy - nhưng cuộc hành hình đều được cả bốn người miêu tả hết sức kỹ càng. Các chi tiết đó đến từ đâu? Những tên lính La Mã đã làm gì, Pilate và Simon đã làm gì. Các tác giả Phúc Âm làm thế nào để biết được tất cả những cái đó? Người có lòng tin sẽ nói rằng các thông tin đó đến từ Chúa. Nhưng bốn Phúc Âm, theo nghĩa thì chính là Lời Chúa, xung đột với nhau nhiều hơn là đồng ý với nhau. Tại sao Chúa lại chỉ cung cấp sự lộn xộn?”

“Có lẽ tra vấn về điều đó không phải là việc của chúng ta’', Stephanie nói.

“Nào nào”, Thorvaldsen nói. “Có quá nhiều ví dụ trái ngược nhau, khiến cho chúng ta không thể nào đơn giản coi chúng là được thực hiện theo một ý đồ chung được. Hãy nhìn vào những điểm chung nhé. Phúc Âm của John nói nhiều điều mà ba người còn lại - còn được gọi là Phúc Âm tóm tắt - hoàn toàn không hề biết. Giọng điệu trong sách của John cũng khác, thông điệp rõ ràng là tinh tế hơn. Có vẻ như lời chứng của John hoàn toàn khác hẳn. Nhưng một vài những điểm không nhất quán đã thực sự bắt đầu với Matthew và Luke. Họ là hai người duy nhất không nói gì về sự sinh ra và nguồn gốc gia đình của Jesus, và thậm chí còn có xung đột với nhau. Matthew nói Jesus thuộc giai cấp quý tộc, hậu duệ của Dayid, lẽ ra sẽ được làm vua. Luke đồng ý với mối liên quan đến Dayid, nhưng cho là thuộc một hạng thấp hơn. Mark thì đi theo một hướng khác hẳn khi nói đến một người thợ mộc nghèo khổ.

“Sự sinh ra của Jesus cũng rất khác nhau. Luke kể rằng có những người chăn cừu đến thăm. Matthew gọi họ là những người khôn ngoan. Luke nói rằng gia đình thánh sống ở Nazareth và đi đến Bethlehem để sinh con trong máng cỏ. Matthew nói rằng gia đình giàu có và sống ở Bethlehem, nơi Jesus được sinh ra - không phải trong một cái máng, mà là trong một ngôi nhà”.

“Nhưng trong việc miêu tả quá trình đóng đinh lên thập giá mới thực sự là có nhiều sự thiếu nhất quán hơn cả. Các Phúc Âm không đồng ý với nhau về ngày tháng. John nói là ngày trước lễ Quá hải, ba người khác lại nói là ngày sau đó. Luke miêu tả Jesus giống như một người hiền lành. Một con chiên. Matthew thì ngược hẳn lại - với ông, Jesus không mang đến hòa bình, mà là thanh gươm. Ngay cả những lời cuối cùng của Người Cứu rỗi cũng khác nhau. Matthew và Mark nói đó là “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”. Theo Luke thì đó lại là "Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay cha". Thậm chí John còn đơn giản hơn. Thế là đã hoàn tất!”

Thorvaldsen dừng lại và uống một ngụm rượu.

“Và ngay bản thân câu chuyện về phục sinh cũng đầy rẫy những điều trái ngược nhau. Mỗi Phúc Âm có một phiên bản khác nhau về người đi đến mộ, những gì được tìm thấy ở đó - ngay cả ngày trong tuần cũng không rõ ràng. Và cả hình dạng của Chúa khi xuất hiện từ đó nữa - cả bốn không đồng ý với nhau về bất cứ điểm nào. Các bạn không nghĩ rằng ít nhất Chúa lại không nhất quán một cách hợp lý với Lời Người à?”

“Các dị biệt của Phúc Âm đã từng là chủ đề của hàng nghìn cuốn sách”, Malone nói.

“Đúng”, Thorvaldsen nói. “Và sự không nhất quán đã có ở đó kể từ Khởi đầu thời cổ đại chúng rất ít được biết đến, vì hiếm khi nào cả bốn sách Phúc Âm có mặt bên cạnh nhau. Thay vì đó, chúng được phân tán lẻ khắp cộng đồng Cơ đốc giáo - tùy theo từng nơi mà Phúc Âm nào có ảnh hưởng nhiều hơn. Tự bản thân việc đó đã đòi hỏi rất nhiều giải thích rồi. Hãy nhớ rằng ý tưởng đằng sau các sách Phúc Âm là tìm cách chứng minh Jesus là vị Thiên sứ đã được kinh Cựu Ước báo trước - chứ không phải là một tiểu sử không thể phản bác”.

“Liệu có phải các sách Phúc Âm chỉ là ghi lại những gì đã được truyền miệng lại không?”, Stephanie hỏi. “Liệu rằng các sai lầm là không thể tránh khỏi không?”

“Không thể có chuyện đó”, Cassiopeia nói. “Những người Công giáo giai đoạn đầu tin rằng Jesus sẽ sớm quay trở lại và thế giới sẽ tận thế, cho nên họ thấy không cần phải viết gì ra hết. Nhưng sau năm mươi năm, khi Người Cứu Rỗi vẫn không thấy đâu, việc ghi nhớ cuộc đời Jesus đã trở thành một vấn đề quan trọng. Đó là thời điểm sách Phúc Âm đầu tiên, sách của Mark, xuất hiện. Matthew và Luke là sau đó, vào khoảng năm 80. John thì phải mãi sau này, gần đến cuối thế kỷ thứ nhất, và đó chính là lý do tại sao nó lại khác hẳn với ba cuốn sách trước đến vậy”.

“Nếu các sách Phúc Âm hoàn toàn nhất quán với nhau thì không phải là càng đáng ngờ hơn sao?”, Malone hỏi.

“Những quyển sách đó còn hơn là chỉ không nhất quán một cách giản đơn”, Thorvaldsen nói. “Chúng quả thực là bốn phiên bản khác nhau của Lời”.

“Đó là một vấn đề thuộc về lòng tin”, Stephanie nhắc lại. “Lại là câu nói đó”, Cassiopeia nói. “Cứ khi nào có một vấn đề nào đó nảy sinh trong các văn bản Kinh Thánh, thì giải pháp dễ dãi đó lại xuất hiện. Đó là lòng tin. Thưa ông Malone, ông là một chuyên gia luật. Nếu lời chứng của Matthew, Mark, Luke và John được đưa ra trước một phiên tòa để làm chứng cho sự tồn tại của Jesus, thì liệu có bồi thẩm đoàn nào tin không?”

“Chắc chắn rồi, tất cả họ đều nói đến Jesus”.

“Bây giờ, điều gì sẽ xảy ra nếu tòa án đó được yêu cầu phán xử người nào trong số bốn người đó nói đúng, thì nó sẽ phải làm gì?”

Anh đã biết câu trả lời. “Tất cả đều đúng”.

“Vậy thì làm thế nào mà ông có thể giải quyết những điểm khác biệt giữa các lời chứng?”

Anh không trả lời, vì không biết phải nói gì.

“Ersnt Scoville đã từng có lần làm một nghiên cứu?, Thorvaldsen nói. “Lars kể cho tôi chuyện đó. Ông ấy tính ra rằng có từ mười đến bốn mươi phần trăm khác biệt giữa các sách Phúc Âm của Matthew, Mark, và Luke trong từng đoạn lấy ra để so sánh. Bất kỳ đoạn nào. Và với John, nằm ngoài Phúc Âm tóm tắt, phần trăm đó còn cao hơn nhiều. Vì vậy câu hỏi của Cassiopeia là hợp lý, Cotton ạ. Liệu rằng bốn lời chứng đó có chút giá trị khả tín nào không, ngoài việc chứng thực rằng một người tên là Jesus đã từng tồn tại?”

Anh thấy cần phải nói ra, “Liệu có thể rằng tất cả những sự thiếu nhất quán đó đều được giải thích bằng việc các tác giả đã hoàn toàn dựa vào những lời kể miệng không?”

Thorvaldsen gật đầu. “Cách giải thích đó rất hợp lý. Nhưng cái thúc đẩy sự chấp nhận nó chính là cái từ xấu xa lòng tin kia. Các bạn cũng thấy rằng với hàng triệu người, các sách Phúc Âm không phải là những câu chuyện kể không thành văn của những người Do Thái cấp tiến muốn lập ra một tôn giáo mới, tìm cách làm cho người ta cải đạo, đưa vào câu chuyện của mình rất nhiều thêm thắt và phụ chú cần thiết cho thời đại của mình. Không. Các sách Phúc Âm là Lời Chúa, và sự phục sinh là điểm mấu chốt. Vì Chúa của họ đã sai con trai của Người đến với họ, và bởi vì Người đã sống lại và lên thiên đường, cho nên họ khác biệt hoàn toàn với các tôn giáo mới xuất hiện hồi đó.”

Malone nhìn chằm chằm vào Mark. “Các Hiệp sĩ Đền thờ có tin vào chuyện đó không?”

“Có một yếu tố ngộ đạo trong tín ngưỡng của Đền thờ. Hiểu biết được truyền nhau giữa các giáo hữu, và chỉ người ở chức vụ cao nhất của Dòng mới biết được tất cả. Nhưng không ai biết được điều đó nữa kể từ khi Bí mật Lớn bị mất đi trong thời kỳ Thanh Trừng. Tất cả các trưởng giáo sau đó đều không chịu ghi chép vào thư khố của Dòng”.

Anh muốn biết, “Ngày nay họ nghĩ gì về Jesus Christ?”

“Các Hiệp sĩ Đền thờ coi Cựu Ước và Tân Ước là bình đẳng với nhau. Trong mắt họ, các nhà tiên tri Do Thái trong Cựu Ước đã báo trước Thiên sứ, và các tác giả Tân Ước đã hoàn thành những dự đoán đó”.

“Cũng giống như người Do Thái”, Thorvaldsen nói, “về họ thì tôi có thể nói rất nhiều điều vì tôi là người Do Thái. Trong nhiều thế kỷ, người Công giáo vẫn nói rằng người Do Thái đã thất bại trong việc nhận ra Thiên sứ khi Người đến, chính vì vậy mà Chúa đã tạo ra một Israel mới dưới hình dạng của Nhà thờ Công giáo để thay chỗ Israel của người Do Thái”.

“Máu của Người chảy trong chúng ta và trong con cháu chúng ta”, Malone lẩm bẩm, trích lại câu Matthew nói về sự sẵn sàng chấp nhận sự thất thế đó của người Do Thái.

Thorvaldsen gật đầu. “Câu đó đã được sử dụng trong suốt hai nghìn năm nay như một lý do để giết người Do Thái. Một dân tộc có thể chờ đợi gì từ Chúa khi họ đã vứt bỏ chính con trai của Người với tư cách là một Thiên sứ của mình? Những từ mà một tác giả Phúc Âm nào đó đã viết ra, dù cho vì lý do gì, đã thực sự trở thành một tiếng hét xung trận của bọn giết người”.

“Vì thế mà việc người Công giáo cuối cùng đã làm”, Cassiopeia nói, “là tự chia cách mình khỏi quá khứ đó. Họ đặt tên cho một nửa Kinh Thánh là Cựu Ước, nửa còn lại là Tân Ước. Một cái thuộc về người Do Thái, một cái của người Công giáo. Mười hai bộ lạc ở Israel trong Cựu Ước được thay thế bằng mười hai tông đồ trong Tân Ước. Các tín ngưỡng của người ngoại đạo và người Do Thái đã được đồng hóa và biến đổi. Jesus, qua các văn bản trong Tân Ước, hoàn thành những lời tiên tri ghi trong Cựu Ước, qua đó chứng minh cho lời tiên tri của Người. Cả một khối ghép hoàn hảo - thông điệp đúng, được gọt giũa cho độc giả được lựa chọn kỹ càng — tất cả những cái đó đã cho phép Cơ đốc giáo leo lên được địa vị thống trị ở thế giới Tây phương”.

Mấy người gia nhân xuất hiện, và Cassiopeia ra hiệu bảo họ dọn đĩa. Rượu vang được rót tiếp và cà phê được mang ra. Khi người gia nhân cuối cùng đã đi khỏi, Malone hỏi Mark, “Liệu các Hiệp sĩ Đền thờ có tin vào sự sống lại của Christ không?”

“Các Hiệp sĩ nào?”

Một câu hỏi kỳ cục. Malone nhún vai.

“Các Hiệp sĩ ngày nay - dĩ nhiên rồi. Ngoài rất ít ngoại lệ, Dòng vẫn đi theo giáo lý Thiên Chúa giáo truyền thông. Một số sửa đổi được thực hiện để phù hợp với Luật lệ, cũng như mọi dòng tu khác thôi. Nhưng còn vào năm 1307? Tôi không biết gì về lòng tin của họ. Biên niên sử thời đó rất khó hiểu. Như tôi đã nói, chỉ các chức sắc cao cấp nhất của Dòng mới có thể nói được về chủ đề đó. Phần lớn Hiệp sĩ không biết chữ. Ngay cả Jacques de Molay cũng không biết đọc biết viết. Vì vậy chỉ có một số ít người trong Dòng biết được hết tất cả các tư tưởng. Tất nhiên, Bí mật Lớn khi đó đã tồn tại, cho nên tôi cho rằng tìm kiếm chính là tin”.

“Bí mật Lớn là gì vậy?”

“Tôi rất muốn biết. Thông tin đó đã thất truyền. Biên niên sử nói rất ít về nó. Cho rằng đó chính là điều mà Dòng tin vào”.

“Chính vì vậy mà họ tìm kiếm nó à?”, Stephanie hỏi.

“Cho đến gần đây họ vẫn chưa thực sự tìm kiếm. Họ có quá ít thông tin. Nhưng Trưởng giáo đã nói với Geoffrey rằng ông ấy tin rằng bố tôi đã đi đúng đường”.

“Tại sao de Roquefort muốn có được nó đến vậy?”, Malone hỏi Mark.

“Tìm ra Bí mật Lớn, tùy thuộc vào việc đó là cái gì, rất có thể sẽ khiến cho Dòng xuất hiện được trở lại ở tầm mức thế giới. Hiểu biết đó cũng có thể làm thay đổi về căn bản Cơ đốc giáo. Hắn muốn Nhà thờ Thiên Chúa giáo phải bị coi là đã chơi trò đạo đức giả, và thanh danh được trả lại cho Dòng”.

Malone kinh ngạc. “Anh muốn nói gì?”

“Một trong những tội danh được gán cho các Hiệp sĩ Đền thờ vào năm 1307 là thờ cúng thần tượng. Người ta cho rằng Dòng thờ phụng một cái đầu có bộ râu, nhưng điều đó không hề được chứng minh. Ngay cả đến giờ, người Công giáo vẫn cầu nguyện trước các hình ảnh, Tấm Vải liệm Turin là một trong số đó”.

Malone nhớ đến điều mà một sách Phúc Âm đã nói về cái chết của Christ - sau khi hạ Người xuống người ta đã quấn Người vào một tấm vải - biểu tượng linh thiêng đến mức một Giáo hoàng sau này đã tuyên bố rằng trong lễ mixa cần phải đọc kinh trên một tấm vải. Tấm Vải liệm Turin, mà Mark vừa nói đến, là một tấm vải thêu chữ chi trên đó có in dấu hình của một người đàn ông - cao sáu feet, mũi thẳng, tóc dài chấm vai, bộ râu rậm, với những vết thương do đóng đinh trên tay, chân, và đầu, và những dấu vết roi đánh ở trên lưng.

“Hình ảnh in trên tấm vải liệm”, Mark nói, “không phải là Christ. Đó là de Molay. Ông ấy bị bắt vào tháng Mười năm 1307 và vào tháng Giêng năm 1308 bị đóng đinh lên một cái cửa trong Đền thờ Paris theo đúng hình dạng của Christ. Bọn họ đã chế giễu ông ấy vì ông ấy đã thiếu lòng tin vào Jesus với tư cách là Người Cứu Rỗi Chúa Cứu Thế. Chánh Quan tòa Dị giáo Pháp, Guillaume Imbert, đã điều khiển cuộc tra tấn đó. Sau này, de Molay bị quấn vào một tấm vải mà Dòng để trong Đền thờ Paris để sử dụng trong các buổi lễ nhập đạo. Giờ đây chúng ta biết rằng axit lactic và máu từ người de Molay chảy ra đã trộn lẫn với nhựa cây trầm có trong vải để tạo nên hình ảnh đó. Thậm chí còn có cả một điều tương đương trong thế giới hiện đại. Vào năm 1981 một bệnh nhân ung thư ở Anh đã để lại cùng dấu vết cơ thể mình như vậy trên tấm ga trải giường”.

Malone nhớ lại rằng vào cuối những năm 1980, cuối cùng Nhà thờ đã phá bỏ truyền thống và cho phép kiểm tra bằng kính hiển vi và phương pháp Các-bon đối với Tấm Vải liệm Turin. Các kết quả cho thấy rằng không hề có hình vẽ trước hay nét màu. Màu sắc nằm thẳng trên vải. Kiểm tra về niên đại cho thấy tấm vải không đến từ thế kỷ thứ nhất mà là từ cuối thế kỷ mười ba cho đến giữa thế kỷ mười bốn. Nhưng nhiều người phản đối những kết quả đó, cho rằng người ta đã bôi màu lên đó, hoặc là đã có can thiệp sau này lên tấm vải.

“Hình ảnh trên tấm vải phù hợp với cơ thể của de Molay”, Mark nói. “Có những miêu tả ông ấy trong Biên niên sử. Vào quãng thời gian bị tra tấn, tóc ông ấy đã mọc dài, râu không cạo. Tấm vải bọc người de Molay đã bị đưa đi khỏi Đền thờ Paris bởi một trong những người thân của Geoffrey de Chamey. De Chamey bị thiêu sống cùng với de Molay. Gia đình ông ấy đã giữ lại tấm vải như một thánh tích và sau này nhận ra rằng trên đó có hình ảnh ấy. Tấm vải xuất hiện lần đầu trên mặt một tấm huy chương tôn giáo có niên đại là năm 1338 và lần đầu tiên được trưng bày vào năm 1357. Khi nó được trưng bày, ngay lập tức người ta gán hình ảnh đó với Christ, và gia đình de Chamey đã không làm gì để phản đối niềm tin đó. Việc đó cứ tiếp tục cho đến thế kỷ mười sáu, khi Nhà thờ chiếm lấy tấm vải, tuyên bố đó là acheropita - không phải do bàn tay con người làm ra - và coi nó là một thánh tích thiêng liêng. De Roquefort muốn lấy lại tấm vải. Nó là sở hữu của Dòng, chứ không phải là của Giáo hội”.

Thorvaldsen lắc đầu. “Thật là điên rồ”.

“Đó là cách nghĩ của hắn đấy”.

Malone nhận thấy cái nhìn tức tối trên khuôn mặt Stephanie. “Bài học về Kinh Thánh hết sức hấp dẫn, Henrik. Nhưng tôi vẫn chờ đợi sự thật về những việc đang diễn ra ở đây”.

Ông già Đan Mạch mỉm cười. “Bà vui tính quá”.

“Đừng đùa với tôi”. Bà giơ điện thoại của mình ra. “Nói thật rõ mọi chuyện đi. Nếu trong vài phút nữa mà tôi không có được một vài câu trả lời thì tôi sẽ gọi điện cho Atlanta. Tôi đã có thông tin về Raymonde de Roquefort, cho nên chúng ta có thể công khai hóa cuộc tìm kiếm kho báu nhỏ bé của hắn và kết thúc cái chuyện vớ vẩn này”.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx