Đang lúc uống rượu, Lục Đại Hữu vội vàng chạy đến bẩm báo, nói là Vương huyện lệnh đã thả tám tên lưu manh đánh thuê kia ra rồi, bị nô bộc của Lục thị chặn lại tại bến tàu ở thành Nam, đến tiếp ứng cho tám tên lưu manh đó còn có bốn tên đánh thuê của Hoa Đình. Trên bến tàu diễn ra một cuộc ẩu đả, một nô bộc của Lục thị bị tên đánh thuê dùng dao đâm trọng thương, may mà Mục Kính Nham đến kịp, mười hai tên đánh thuê có sáu tên lên thuyền trốn thoát, sáu tên còn lại đã bị bắt.
Trương Ngạc nổi giận mắng:
- Con chó kia còn dám thả người sao. Y là con chó của Đổng Kỳ Xương nuôi!
Trương Nguyên nói:
- Lập tức triệu tập chư sinh Thanh Phổ đến huyện nha, để xem Vương huyện lệnh giải đáp như thế nào.
Những sinh đồ như Hồng Đạo Thái, Kim Bá Tông
nghe tin liền vội vàng chạy tới, cùng với Lục Thao, Dương Thạch Hương và ba huynh đệ Trương Nguyên đến huyện nha đòi công bằng. Nô bộc của Lục thị áp giải sáu tên lưu manh đến. Nô bộc Lục thị bị đâm trọng thương đã được đại phu cấp cứu khẩn cấp, đã cầm máu, tính mạng đã được bảo toàn, lúc này mới được khiêng đến nha môn.
Hai ngày nay dân chúng ở huyện thành Thanh Phổ nghe Liễu Kính Đình kể chuyện, đúng vào thời điểm lòng đầy căm phẫn đối với hành vi ác độc của Đổng thị ở Hoa Đình. Nghe nói Vương huyện lệnh đã thả mấy tên đánh thuê thì lập tức kêu ca sôi sục, rầm rập đi theo đoàn người Lục thị đến huyện nha chờ lệnh...
Vào lúc chạng vạng ngày mười sáu, huyện lệnh Thanh Phổ Vương Thiện Kế đã nhận được thư viết tay của Hoàng tri phủ. Trong thư Hoàng tri phủ hỏi về việc môn khách Đổng thị là Bặc Thế Trình bị đánh ngày hôm qua. Vương Thiện Kế đã viết một bức thư thật dài giải thích cho Hoàng tri phủ, nói rằng Lục thị Thanh Phổ bắt được tám tên đánh thuê người Hoa Đình giải đến, xin Hoàng tri phủ chỉ thị phương án xử lý?
Vương Thiện Kế viết xong thư liền sai người suốt đêm đem thư đến phủ nha ở Tùng Giang. Trước trưa ngày mười bảy, Hoàng tri phủ phái người đến bảo Vương Thiện Kế thả tám tên lưu manh đó ra. Vương Thiện Kế liền nhân cơ hội trời tối thả tám tên đó ra, trong lòng có hơi buồn phiền. Lúc trống canh hai nghe thấy tiếng huyên náo trước huyện nha liền biết là không ổn, tức tốc sai người mời huyện thừa và chủ bộ đến. Ra bên ngoài Nhật Kiến đường nhìn thì đầu người nhấp nhô dưới ánh trăng, có khoảng vài trăm người, sáu tên đánh thuê mặt mũi bầm dập đang quỳ ở phía trước mặt, mọi người liên tục nhổ nước bọt vào sáu tên này. Lục Thao bước lên trước thi lễ với Vương Thiện Kế, chất vấn Vương huyện lệnh tại sao tự ý thả người để cho chúng lại hành hung trên bến tàu, đâm trọng thương một nô bộc của y?
Vương Thiện Kế không thể phản bác. Dân chúng bên ngoài đánh trống reo hò, có người nấp ở phía sau nhân lúc náo loạn đã chửi Vương Thiện Kế, sai dịch lớn tiếng quát cũng không thể đàn áp. Vương Thiện Kế vừa xấu hổ vừa tức giận nói:
- Tám phạm nhân đó là người Hoa Đình, tất nhiên phải được áp giải đến Hoa Đình thẩm vấn.
Trương Nguyên nói:
- Vương huyện tôn là quan phụ mẫu của Thanh Phổ phải yêu thương bảo vệ dân lành trong huyện, nếu mấy tên lưu manh này đánh người Thanh Phổ bị thương ở Hoa Đình thì đương nhiên phải do huyện nha Hoa Đình xử trí. Nhưng tám tên này lại quấy rầy làm nhục người dân Thanh Phổ ngay trong địa phận Thanh Phổ, sao huyện Thanh Phổ không lo mà phải giao cho huyện khác xử lý? Hơn nữa tám tên này vốn không phải được giải đến Hoa Đình để thẩm vấn, nếu là áp giải thì tại sao không thấy quan sai?
Trương Ngạc giận dữ quát:
- Đây rõ ràng là đã nhận hối lộ của Hoa Đình Đổng thị, bao che hung phạm, hoàn toàn không để ý đến sự sống chết của người dân Thanh Phổ.
Dân chúng ở bên ngoài đồng loạt lên tiếng trách mắng. Vương Thiện Kế tím mặt, không chịu nổi áp lực quá lớn này bèn nói:
- Là phủ tôn đại nhân muốn bổn huyện thả người, các ngươi hãy đi mà nói lý với phủ tôn.
Huyện thừa và chủ bộ Thanh Phổ vội vàng chạy đến nghe thấy Vương huyện lệnh nói thế thì bốn mắt nhìn nhau, thầm nghĩ: “Tên Vương Thiện Kế này đúng là một bao cỏ, một tên thư sinh vô dụng”.
Trương Nguyên nói:
- Nói như thế thì bách tính Thanh Phổ bị oan ức, huyện tôn đại nhân không thể đứng ra làm chủ giải oan cho dân chúng, vậy thì sáu tên lưu manh bị bắt về đây nên xử thí như thế nào, xin huyện tôn đại nhân lên tiếng, có phải là bảo tôi phải đợi suốt đêm áp giải sáu tên này đến phủ nha hay không?
Huyện lệnh Thanh Phổ Vương Thiện Kế tiến thoái lưỡng nan, vô cùng bối rối.
Một sinh đồ đơn độc thì không dám hỗn xược trước mặt quan địa phương nhưng một nhóm sinh đồ thì khác, hơn nữa phía sau nhóm sinh đồ này còn có rất nhiều dân chúng, thế thì tình hình này lại càng khác to. Dân chúng người này một câu người kia một câu, càng nói càng phẫn nộ. Hai người huyện thừa và chủ bộ vì nhiều năm làm phó quan nên đầu tiên là lạnh băng xem trò cười Vương huyện lệnh, nhưng thấy dân tình hung hăng, liên tục chửi bới loạn xạ, nếu không áp chế e rằng sẽ thành cục diện không thể cứu vãn. Hai người bèn thảo luận với Vương Thiện Kế. Vương Thiện Kế không biết phải làm gì đành phải hứa hẹn lại tống giam sáu tên lưu manh kia, đồng thời khéo léo trấn an Lục Thao và đám sinh đồ, cam đoan sẽ nghiêm túc điều tra kẻ chủ sự đứng sau sáu tên này. Đã đạt được mục đích, Lục Thao, Trương Nguyên cũng biết chừng mực mà dừng lại, nếu không khiến cho đám dân chúng ở phía sau náo động rồi đập phá nha huyện, đánh Vương huyện lệnh, sảng khoái thì sảng khoái thật nhưng về sau truy cứu ra thì họ cũng khó mà thoát tội. Lực lượng dân chúng như hồng thủy như hỏa hoạn, nếu dẫn dắt không tốt thì mình sẽ phải chịu trận trước, hơn nữa mục tiêu của Trương Nguyên không phải ở Thanh Phổ, một Vương huyện lệnh bé con gõ một tí là xong, không có gì là quá đáng. Bởi vậy hắn cùng với tỷ phu Lục Thao và đám Dương Thạch Hương đều giúp khuyên giải dân chúng giải tán, mãi đến trống canh ba huyện nha Thanh Phổ mới khôi phục lại sự yên tĩnh.
Vương Thiện Kế giữ huyện thừa, chủ bộ, hình phòng điển sử và giáo quan huyện học ở lại cùng bàn bạc, quyết định bẩm báo sự việc vừa rồi lên Hoàng tri phủ và Án Sát phân ti. Sáu tên lưu manh đánh thuê Hoa Đình kia tạm giam giữ lại, xem Án Sát phân ti trả lời thế nào, là sung quân hay là áp giải đến Tùng Giang để thẩm vấn. Tất cả đều phải xử lý theo luật pháp, không thể vì một bức thư riêng của Hoàng tri phủ mà phóng thích phạm nhân một cách vô tội vạ.
Sáu tên đánh thuê trốn thoát tại bến tàu ở Thanh Phổ kia đi suốt đêm quay trở về Hoa Đình, vội vã đi gặp Ngô Long kẻ cầm đầu bọn lưu manh ở Tùng Giang. Tên Ngô Long này có hơn hai trăm tên đánh thuê, cấu kết với Đổng Tổ Thường mở sòng bạc, chứa chấp mại dâm, áp bức người lương thiện, lấy mạnh hiếp yếu, không có chuyện ác nào là không làm. Mấy tên lưu manh này đến nha môn là chuyện thường, cũng không sợ bị đánh nhưng vì làm việc cho Đổng thị mà bị đánh thì đây là lần đầu tiên. Hơn nữa nội trong ba ngày mà bị đánh tới hai lần, còn có sáu tên bị bắt nhốt ở nhà giam huyện Thanh Phổ không được thả, việc này khiến Ngô Long vừa sợ vừa tức giận. Ngô Long hơn ba mươi tuổi, tướng mạo cũng không được cao to tuấn tú cho lắm nhưng lại cường tráng khỏe mạnh, quyền cước thương bổng rất thành thạo, vốn có nghề dạy võ, sau khi tụ tập được một nhóm đệ tử liền thành lập đám người đi đánh thuê báo thù cho chủ thuê, trộm cắp lừa gạt, bày trò hãm hại người khác để cướp của v.v…, ngoài ra còn chịu đánh thay cho người khác. Bởi vì quan phủ yêu cầu thuế cấp bách, có một số hộ không đóng thuế đủ phải chịu đánh nhưng lại có thể thuê người chịu đánh. Đây đúng là chuyện kỳ quặc, những kẻ đánh thuê kiếm tiền cũng thật là vất vả nhưng kể từ khi kết giao với con trai Đổng Hàn Lâm thì đám đánh thuê này đã sớm không còn phải đi làm cái nghề đê tiện là chịu đánh thay người khác nữa, mà là chuyên trách việc đánh người.
Thuộc hạ của Ngô Long có một tên võ nghệ xuất chúng tên là Uông Đại Chuy, tên này giận dữ nói:
- Đại ca, dứt khoát phải gọi các huynh đệ xông đến Thanh Phổ, phá tan Lục gia để cho người Thanh Phổ thấy được sự lợi hại của bang đánh thuê Hoa Đình ta.
Bây giờ Ngô Long cũng đã là ông chủ giàu có rồi, không giống như mấy tên lưu manh lỗ mãng liều mạng bình thường nữa, y nói:
- Đừng vội, bây giờ đã là đêm khuya, ngày mai ta sẽ cùng bàn với Đổng nhị công tử, mối thù của các huynh đệ nhất định phải báo, nếu không thì sau này những người hành nghề đánh thuê như chúng ta sao có thể sống yên ổn ở Tùng Giang chứ.
Sáng sớm ngày hôm sau Ngô Long liền đến dinh thự hào nhoáng của Đổng thị để gặp Đổng Tổ Thường. Đổng Tổ Thường vừa nghe nổi giận đùng đùng, cũng không kịp báo lại chuyện này với phụ thân Đổng Kỳ Xương mà đã tự mình đến gặp tri phủ Tùng Giang Hoàng Quốc Đỉnh. Hoàng Quốc Đỉnh lúc này cũng đã nhận được thư của huyện lệnh Thanh Phổ Vương Thiện Kế gửi đến ngay trong đêm, đang cảm thấy sự việc này thật khó có thể giải quyết, đã thế Đổng Tổ Thường còn kêu la phải nghiêm trị Lục thị ở Thanh Phổ, phải bắt giữ Trương Nguyên, việc này khiến Hoàng Quốc Đỉnh không vui chút nào. Y liền đưa cho Đổng Tổ Thường một tờ giấy hơi bị nhàu nát đã được gấp lại trên bàn nói:
-Thế huynh, hãy mau đưa cho thầy Đổng xem cái này, việc này không phải nhỏ, là do nha dịch vừa mới lấy xuống từ trên Thân Minh đình đó.
Đổng Tổ Thường thấy Hoàng tri phủ tránh không nói đến việc trừng trị Lục thị mà lại đưa cho mình một tờ giấy rách, trong lòng cảm thấy rất tức giận, nói:
- Tờ giấy này đợi lát nữa ta sẽ đưa cho gia phụ xem nhưng Lục Thao và Trương Nguyên sai người đánh bị thương môn khách của Đổng thị ta, còn bắt người đi, phủ tôn đại nhân nếu không nghiêm phạt thì e rằng sẽ khó làm phục lòng dân chúng.
Hoàng Quốc Đỉnh thản nhiên nói:
- Vương tri huyện Thanh Phổ đã có thư đến, nói là sáu tên đó đã bị nhốt vào huyện lao, nhất thời không được thả, thế huynh hãy đưa mảnh giấy này cho thầy Đổng xem trước, sau giờ ngọ bổn phủ sẽ đích thân đến nói rõ ràng với thầy.
Đổng Tổ Thường đành phải cáo từ, chưa đạt được mục đích nên vô cùng tức giận, mở mảnh giấy rách ra xem, nào là “Lòng người hiểm như sông núi, khó hiểu như trời, trời vẫn còn thời gian ngày và đêm của bốn mùa xuân hạ thu đông nhưng người khó mà đoán được.” Tiêu đề là “Thư họa khó luận tiếng lòng”. Đổng Tổ Thường tức giận nói:
- Thật chẳng ra làm sao, đưa phụ thân ta xem tờ giấy rách nát này làm gì chứ, rõ ràng là tắc trách, không lẽ Hoàng Quốc Đỉnh cũng sợ bọn Trương thị ở Sơn Âm đó?
Nếu không phải Hoàng Quốc Đỉnh hết lần này đến lần khác dặn dò phải đưa thiếp văn này cho thầy Đổng xem thì Đổng Tổ Thường rất có thể sẽ tiện tay mà vứt đi rồi. Lúc này gã đành phải nhẫn nhịn đến chỗ phụ thân bên phủ đệ. Ba huynh đệ Đổng Tổ Nguyên, Đổng Tổ Thường và Đổng Tổ Hòa mỗi người đều có dinh thự riêng, đều không sống chung với Đổng Kỳ Xương nhưng khoảng cách lại rất gần, nhà có đến nghìn gian, phố phường tiếp nối nhau, năm ngoái Đổng Tổ Nguyên còn xây nhà mới bên cầu Trường Sinh.
Đổng Kỳ Xương mới sáng sớm đã luyện bút ở Họa Thiền phòng. Đây là thói quen đã mấy chục năm của lão. Đổng Kỳ Xương lúc mười bảy tuổi đã tham gia thi phủ ở Tùng Giang, vì thư pháp không giỏi nên không thể giành được thủ khoa thi phủ, từ đó đã cố gắng tập viết chữ theo mẫu. Từ Trung, Vương thời Ngụy Tấn đến Nhan, Liễu của triều Đường, từ Ngũ đại Dương Ngưng Thức đến Mễ Phất thời Tống, đều tập viết chữ theo mẫu rất chăm chỉ, cuối cùng trở thành những nhà thư pháp lớn. Lão đến hôm nay tuổi đã lục tuần nhưng mỗi ngày đều vẫn viết Khải thư Thiên tự văn cả trăm chữ. Hôm nay vừa mới viết xong cả cuốn thì con trai Đổng Tổ Thường đến, phẫn nộ nói Hoàng tri phủ không chịu nghiêm phạt Lục thị Thanh Phổ tội đánh người mà lại còn trịnh trọng bảo gã gửi một tờ giấy rách đến.
Đổng Kỳ Xương tỉnh như không, mở tờ giấy ra xem, đầu tiên là xem chữ, chữ viết rất kém, có thể phân biệt được từng chữ, hiển nhiên là viết rất qua loa, có hơn một nghìn chữ chi chít. Đọc được trên một trăm chữ, Đổng Kỳ Xương vốn đang ngồi liền đứng dậy, chống hai tay lên thư án tiếp tục xem, càng xem càng kinh hãi, càng phẫn nộ, hai tay chống trên bàn đều run lên bần bật.
Đổng Tổ Thường nhìn thấy dáng vẻ phẫn nộ của phụ thân, giờ mới hiều được tờ giấy rách nát kia quả nhiên là quan trọng, liền hỏi:
- Phụ thân, tờ giấy viết gì mà phụ thân lại tức giận đến thế?
Đổng Kỳ Xương thở dồn, cho đến khi đọc đến bài thơ của Văn Mạt Nguyên đột nhiên giận dữ kêu lên một tiếng, cầm lấy tờ giấy Tùng Giang vốn đã rách nát xé làm hai mảnh, lại quăng tay làm cái bình xanh trên bàn rớt xuống đất “choang” một tiếng, vỡ vụn văng khắp nơi, sau đó lão quay lại ngồi vào ghế mũ quan, lớn tiếng hỏi:
- Là ai? Là ai viết tờ giấy này?
Đổng Tổ Thường từ trước giờ chưa từng thấy phụ thân tức giận phẫn nộ như thế nên cũng đâm ra lo sợ, đáp:
- Hoàng tri phủ nói là nha dịch lấy từ Thân Minh đình xuống từ sáng sớm.
Đổng Kỳ Xương khàn giọng nói:
- Lời văn ác độc, là muốn đưa Đổng Kỳ Xương ta vào chỗ chết đây mà!
Vừa quát lão vừa ra sức đấm xuống mặt bàn, có thể thấy được sự phẫn nộ cực độ, gần như phát điên.
Đổng Tổ Thường cuống quýt nhặt tờ giấy rách nát bị xé làm hai mảnh kia lên, ghép lại xem chỗ nào đã chửi mắng phụ thân gã, nhìn trái nhìn phải nhưng vẫn không hiểu. Đổng Tổ Thường cũng chỉ có thể gọi là biết chữ, đọc một vài tiểu thuyết thông thường thì còn tạm được. Bài “ Thư họa khó luận tiếng lòng “ này là bài thơ cổ văn thanh lịch thuần khiết, trích dẫn kinh điển, lưu loát phong phú, gã không nhìn ra được câu nào là câu mắng người nhưng phụ thân lại nổi giận điên cuồng như thế hiển nhiên bài thơ này là vô cùng ác độc, bèn nói:
- Phụ thân bớt giận, con sẽ điều tra xem ai đã viết tờ giấy này!
Đổng Kỳ Xương đã không còn kiềm chế được sự điên cuồng của mình, lão quát:
- Mau đi điều tra, điều tra ra là kẻ nào thì đánh cho ta, đánh thật lực vào!
Đổng Tổ Thường vâng một tiếng, cầm lấy hai mảnh giấy rách đi khỏi Họa Thiền thất, gã đi thương lượng với huynh trưởng Đổng Tổ Nguyên trước. Đổng Tổ Nguyên nhìn qua một lượt tờ giấy rách nát, y không phải không học vấn không nghề nghiệp giống như kỳ đệ Tổ Thường, giận dữ nói:
- Đây là muốn chửi bới phẩm hạnh của phụ thân mà, chẳng trách phụ thân nổi giận, bài viết này thật sự quá ác độc, bài viết này mà lưu truyền thì sẽ tổn hao đến thanh danh của phụ thân, phải lập tức điều tra ngay, cũng không phải trông cậy vào Hoàng tri phu nữa, mấy tên nha dịch đó chẳng có ích lợi gì cả, hãy bảo thủ hạ của Ngô Long điều tra toàn bộ, đã là dán ở Thân Minh đình thì phải có người nhìn thấy, có người muốn hủy hoại danh tiếng của phụ thân thì chắc chắn sẽ không chỉ dán ở mỗi Thân Minh đình mà ở những nơi khác cũng đều phải đi xem xét điều tra, nhìn thấy thì lập tức xé bỏ chớ để truyền ra bên ngoài.
Đổng Tổ Thường lập tức bảo người kêu Ngô Long đến, ra lệnh cho Ngô Long tức khắc sai người đi khắp nơi tìm người dán bài “ Thư họa khó luận tiếng lòng “. Thủ lĩnh bọn đánh người Ngô Long lộ vẻ khó xử, y không biết chữ, đám thanh thủ đánh thuê của hắn cũng không được mấy tên biết chữ, muốn bọn chúng đánh người thì được nhưng bắt chúng đọc chữ thì đúng là làm khó chúng rồi.
Đổng Tổ Thường không nhịn được nói:
- Không để ý nhiều thế làm gì, hễ nhìn thấy đứa nào dán giấy thì bắt tới tra tấn thẩm vấn ngay, gia phụ đã nổi trận lôi đình, không bắt được tên này thì không để yên.
Ngô Long hỏi:
- Nhị công tử, vậy để mặc kệ sáu tên bị giam giữ ở Thanh Phổ kia sao?
Đổng Tổ Thường quát:
- Trước hết việc gấp gáp nhất là phải bắt tên gian tặc dán giấy đã, mau đi đi!
Sau khi Ngô Long đi, Đổng Tổ Thường lại phái đi hơn một trăm gia đinh, đều là những người biết được vài chữ. Trên khắp phố to ngõ nhỏ huyện Hoa Đình, đâu đâu cũng thấy bọn đánh thuê và gia nô của Đổng phủ. Mấy tên đánh thuê này tiện thể ức hiếp người lương thiện, trêu ghẹo phụ nữ, trong phút chốc cả huyện thành và phủ thành đều chướng khí mù mịt, huyện thành lớn như vậy luôn có vài cáo thị tìm người hoặc tìm đồ vật, vừa lúc bị gia nô Đổng thị và bọn đánh thuê nhìn thấy, không biệt tốt xấu chúng đã ra tay hành hung trước, mà thiếp văn “ Thư họa khó luận tiếng lòng “ này lại dán ở khắp nơi, gia nô Đổng thị và bọn đánh thuê đã bóc hơn hai mươi tờ nhưng vẫn không bắt được kẻ dán, bèn bắt hai tên dán cáo thị tìm đồ xui xẻo kia về nhà Đổng Tổ Thường để thẩm vấn.
Đổng Tổ Thường tự thiết lập hình đường, sai người đánh hai tên xui xẻo đó một trận, đánh đến bán sống bán chết nhưng vẫn không hỏi được gì, nghĩ là đã bắt nhầm người nhưng cũng không thả cho hai tên này đi mà nhốt chúng vào kho củi đợi điều tra chân tướng xong rồi thả cũng không muộn.
Đổng Tổ Thường oán hận nói với huynh trưởng Đổng Tổ Nguyên:
- Chuyện này chắc chắn có liên quan đến Trương Nguyên, tiểu tử đó vừa đến Tùng Giang thì chuyện gì cũng đến!
Đột nhiên gã nhớ đến Bặc Thế Trình từng nói còn có ba tú tài Hoa Đình ở cùng với Trương Nguyên, một người họ Tương không biết là ai, còn hai người kia là Kim Lang Chi và Ông Nguyên Thăng, bắt hai tên này về ép hỏi chắc chắn có thể biết được là ai dán “ Thư họa khó luận tiếng lòng “.
Trương Nguyên và đại huynh Trương Đại lúc này đang uống trà chơi cờ bàn về thanh ngôn ở Đông Dư Sơn Cư của Trần Kế Nho, vô cùng nhàn nhã.
Trần Kế Nho thích vẽ, sớm đã ẩn cư ở phía Nam tiểu Côn Sơn, xây miếu thờ Nhị Lục (Lục Cơ và Lục Vân), đi xin những bông hoa nổi tiếng khắp nơi, trước Quảng Thực Đường, ông nói:
- Ta nghèo, lấy cái này để vui với hai vị tiên sinh.
Vì thế ông mới có cái tên phong nhã‘Khất hoa tràng’ như vậy.
Từ khi song thân qua đời, Trần Kế Nho di cư về núi Đông Dư, xây Ngoan Tiên Lư, Lai Nghi Đường, Lỗi Kha Hiên, Vãn Hương Đường, Nhất Phất Hiên, Lâm Hạ Uyển. Trần Kế Nho bây giờ đã không còn lo về tiền tài nữa, ông ta không làm quan, tuy thư họa rất giỏi nhưng không hề giống như Đổng Kỳ Xương lấy tiền nhuận bút từ thư họa để làm giàu, càng không ỷ thế ức hiếp người khác ở quê hương, vậy thì con đường phát tài của Trần Kế Nho ở đâu, sao lại có thể xây được Đông Dư Sơn Cư, kết giao danh sĩ, du ngoạn sơn thủy?
Trần Kế Nho là người thông minh tuyệt đỉnh. Ông thấy sự đấu đá chốn quan trường liền vứt bỏ mũ nho, từ bỏ ý định tiến thân bằng con đường làm quan. Nhưng ông không phải loại thư sinh cuồng ngạo, mà là một ẩn sĩ cô độc. Cũng chẳng phải ông không thích giàu sang phú quý, chỉ là không muốn vì giàu có mà phải mệt mỏi mà thôi. Ông không muốn làm ẩn sĩ chỉ sống nghèo khổ đạm bạc rồi chết đói trên núi Thủ Dương. Con đường phát tài của Trần Kế Nho là in ấn sách. Bảo Nhan Đường của ông ta là hiệu sách lớn nhất Giang Nam. “ Bảo Nhan Đường bí cấp “ do ông phụ trách biên tập một tháng xuất bản hai cuốn, hai mươi năm nay đã xuất bản hơn bốn trăm cuốn. “ Bảo Nhan Đường bí cấp “ là một cuốn sách tương tự như Bách khoa toàn thư, kinh sử tử tập, y học, bói toán, tướng số, tử vi đều được đề cập đến, còn có các loại bút kí tiểu thuyết, thanh ngôn tiểu phẩm. Những sách này vì hợp sở thích của kẻ sĩ thời Vãn Minh, cộng thêm danh tiếng của Trần Kế Nho nên được tiêu thụ khắp nam bắc Đại Giang, có thể nói Trần Kế Nho là thương gia về sách thành công nhất thời Vãn Minh.
@by txiuqw4