Hùng Vương truyền tới đời thứ ba thì sinh hạ được người con gái tên
là Tiên Dung mỵ nương đến tuổi 18 dung mạo đẹp đẽ, không muốn lấy
chồng mà chỉ vui chơi, chu du khắp thiên hạ. Vua cũng không cấm đoán
nàng. Mỗi năm vào khoảng tháng hai tháng ba lại sắm sửa thuyền bè chèo
chơi ở ngoài bể, vui quên trở về. Hồi đó ở làng Chử Xá cạnh sông lớn có
người dân tên là Chử Vi Vân sinh hạ được Chử Đồng Tử, cha từ con
hiếu, nhà gặp hỏa hoạn, của cải sạch không, còn lại một khố vải cha con
ra vào thay nhau mà mặc. Kíp tới lúc cha lâm bệnh, bảo con rằng: "Cha
chết cứ để trần mà chôn, giữ khố lại cho con". Con không nỡ làm theo,
dùng khố mà liệm bố. Đồng Tử thân thể trần truồng đói rét khổ sở, đứng ở
bên sông hễ nhìn thấy có thuyền buôn qua lại thì đứng ở dưới nước mà ăn
xin, khi thì câu cá độ thân không ngờ thuyền Tiên Dung xốc tới, chiêng
trống nhã nhạc, kẻ hầu người hạ rất đông.
Đồng Tử rất kinh sợ. Trên bãi cát có khóm lau sậy, lưa thưa dăm ba
cây, Đồng Tử bèn nấp trong đó, bới cát thành lỗ nằm xuống mà phủ cát lên
mình. Thoắt sau, Tiên Dung cắm thuyền dạo chơi trên bãi cát, ra lệnh vây
màn ở khóm lau mà tắm. Tiên Dung vào màn, cởi áo dội nước, cát trôi
mất, trông thấy Đồng Tử. Tiên Dung kinh sợ hồi lâu, thấy là con trai bèn
nói: "Ta vốn không muốn lấy chồng, nay lại gặp người này, cùng ở trần với
nhau trong một hố, đó chính là do trời xui nên vậy. Người hãy đứng dậy
tắm rửa, ta ban cho quần áo mặc rồi cùng ta xuống thuyền mở tiệc ăn
mừng". Người trong thuyền đều cho đó là cuộc giai ngộ xưa nay chưa
từng có. Đồng Tử bảo: "Đâu dám như vậy!" Tiên Dung ta thán, ép làm vợ
chồng. Đồng Tử cố từ, Tiên Dung nói: "Đây do trời chắp nối, sao cứ chối
từ?". Người theo hầu vội về tâu lại với vua. Hùng Vương nói: "Tiên Dung
không thiết tới danh tiết, không màng tới của cải của ta, ngao du bên
ngoài, hạ mình lấy kẻ bần nhân, còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa". Tiên
Dung nghe thấy, sợ không dám về, bèn cùng Đồng Tử mở bến chợ, lập
phố xá, cùng dân buôn bán, dần dần trở thành cái chợ lớn (nay là chợ
Thám, còn gọi là chợ Hà Lương). Phú thương ngoại quốc tới buôn bán
tấp nập, thờ Tiên Dung, Đồng Tử làm chúa. Có người lái buôn giàu nói
rằng: "Quí nhân bỏ một dật vàng ra ngoài bể mua vật quí, sang năm có thểthành mười dật". Tiên Dung cả mừng bảo Đồng Tử: "Vợ chồng chúng ta
do trời tác thành, đồ ăn thức mặc do trời phú cho, nay hãy đem vàng cùng
phú thương ra bể buôn bán". Có núi Quỳnh Viên, trên núi có am nhỏ, bọn
lái buôn thường ghé lại đó uống nước. Đồng Tử lên am chơi, có tiểu tăng
tên gọi Ngưỡng Quang truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử lưu học ở đó,
giao tiền cho lái buôn mua hàng. Sau lái buôn quay lại am chở Đồng Tử
về. Sư tặng Đồng Tử một cây trượng và một chiếc nón mà nói rằng: "Linh
thiêng ở những vật này đây".
Đồng Tử trở về, giảng lại đạo Phật. Tiên Dung bèn giác ngộ, bỏ phố
phường, chợ búa, cơ nghiệp, rồi cả hai đều tìm thầy học đạo. Trên đường
viễn hành, trời tối mà chưa thấy thôn xá, hai người tạm nghỉ ở giữa
đường, cắm trượng che nón mà trú thân. Đến canh ba, thấy hiện ra thành
quách, lầu ngọc, điện vàng, đền đài dinh thự, vàng bạc châu báu, giường
chiếu chăn màn, tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ, la liệt trước mắt. Sáng
hôm sau, ai trông thấy cũng kinh lạ, đem hương hoa, ngọc thực tới dâng
mà xin làm bề tôi. Có văn võ bách quan chia quân túc vệ, lập thành nước
riêng. Hùng Vương nghe tin, cho rằng con gái làm loạn, bèn sai quân tới
đánh. Quần thần xin đem quân ra phân nhau chống giữ. Tiên Dung cười
mà bảo: "Điều đó ta không muốn làm, do trời định đó thôi, sinh tử tại trời,
há đâu dám chống lại cha, chỉ xin thuận theo lẽ chính, mặc cho đao kiếm
chém giết". Lúc đó, dân mới tới đều kinh sợ tản đi, chỉ có dân cũ ở lại.
Quan quân tới, đóng trại ở châu Tự Nhiên, còn cách sông lớn thì trời tối
không kịp tiến quân. Nửa đêm, gió lớn thổi bay cát nhổ cây, quan quân hỗn
loạn. Tiên Dung cùng thủ hạ, thành quách phút chốc bay tản lên trời, đất
chỗ đó sụt xuống thành cái chằm lớn. Về sau, dân lập miếu thờ, bốn mùa
cúng tế, gọi chằm là chằm Nhất Dạ Trạch (nghĩa là chằm một đêm), gọi
bãi là bãi Mạn Trù, gọi chợ là chợ Thám còn gọi là chợ Hà Lương. Sau
vua Hậu Lương là Diễn sai Trần Bá Tiên đêm quân xâm lược phương
Nam. Lý Nam Đế sai Triệu Quang Phục làm tướng cự địch. Quang Phục
đem quân nấp ở chằm. Chằm sâu mà rộng, quân địch vướng mắc, tiến
binh rất khó, Quang Phục dùng thuyền độc mộc đột xuất ra đánh cướp
lương thực, cầm cự lâu ngày làm cho quân giặc mệt mỏi, trong ba bốn
năm không hề đối diện chiến đấu. Bá Tiên than rằng: "Ngày xưa nơi đây là
chằm một đêm bay về trời, nay lại là chằm một đêm cướp đoạt người".
Nhân gặp loạn Hầu Cảnh, vua nhà Lương bèn gọi Bá Tiên về, ủy cho tì
tướng là Dương Sằn thống lĩnh sĩ tốt, Quang 29 30 Prev Page 13 NextPhục ăn chay lập đàn ở giữa đầm, đốt hương mà cầu đảo, bỗng thấy thần
nhân cưỡi rồng bay vào trong đàn mà bảo Quang Phục rằng: "Hiển linh
còn đó, ngươi có thể cầu tới cứu trợ để dẹp bằng họa loạn".
Dứt lời, tháo vuốt rồng trao cho Quang Phục, bảo: "Đem vật này đeo
lên mũ đâu mâu có thể khiến giặc bị diệt". Đoạn bay lên trời mà đi. Quang
Phục được vật đó, reo mừng vang động, xông ra đột chiến, quân Lương
thua to. Chém Dương Sằn ở trước trận, giặc Lương phải lùi. Quang Phục
nghe tin Nam Đế mất, bèn tự lập làm Triệu Việt Vương, xây thành ở Trâu
Sơn, huyện Vũ Ninh.
@by txiuqw4