Đó là lần đầu tiên tôi rời thành phố vào chiến khu. Trước năm 1975 ở Nam Việt Nam chuyện ấy chẳng có gì lạ, vì hàng ngàn phụ nữ trẻ như tôi cũng từng làm như vậy. Họ đã chiến đấu, đã bị thương, đã chết, đã bị bắt làm tù binh hay đã chiến thắng trở về trong chiến dịch Hồ Chí Minh như trường hợp của tôi.
Vì thế câu chuyện của tôi sẽ không có gì đáng nói nếu lúc ở chiến khu tôi không gặp ông già ấy. Ông không phải là một người bình thường. Ông là một nhân vật đầy quyền lực của “R”.
“R”, một cái tên huyền thoại, một thánh địa cách mạng, vừa là nỗi ám ảnh vừa là món nợ của nước Mỹ. Nhưng “R” là gì? Có thể nó được viết tắt từ chữ “Rừng”. Nhưng khu rừng mà tôi đến cũng không có gì ghế gớm, không có gì bí ẩn. Nó chỉ là một vùng cây cối rậm rạp, bằng phẳng, hoang sơ và thầm lặng.
Nhưng ở đó có một căn nhà đặc biệt.
Đó là căn nhà của ông già ấy. Tuy nó cũng đơn sơ như những căn nhà khác nhưng nó vừa là Tử cấm thành vừa là Hậu cung của ông ta. Nó nằm giữa một khu vực cực kỳ bí mật và vô cùng quan trọng mà người ta quen gọi là Trung Ương Cục Miền Nam, tức “R”.
Và người đàn ông năm mươi tuổi ấy, tuy không là hoàng đế nhưng quyền lực của ông bao trùm thiên hạ. Người ta quen gọi ông là “vương gia”.
Việc tôi lọt vào hậu cung của ông không phải là vận may mà là một tai họa. Về sau này nó đã dồn tôi vào những bi kịch liên tiếp mà tôi không biết phải chống đỡ như thế nào.
Ít ai được thấy mặt vương gia. Ông như cái bóng chập chờn sau tấm vách nylon mờ đục. Rừng thì đen kịt, ngửa bàn tay không thấy, nhưng trong căn lều của ông, ngọn đèn dầu vẫn in rõ cái bóng lên vách. Ông đi lại. Ông nghe đài. Ông đọc báo cáo. Ông uống trà. Và ông chờ tôi.
Lúc ấy tôi đang ở mé rừng. Trời mới chạng vạng. Giao liên bàn giao tôi cho “người dẫn đường”.
Đó là một người đàn ông lạnh lùng. Một chiếc quần kaki sờn rách. Áo bà ba đen và một cái khăn rằn quấn quanh cổ. Khẩu AK mang sau lưng, mũi súng chĩa xuống đất. Anh ta ngồi đợi trên doi đất nhỏ cạnh mé nước.
-Chào đồng chí, tôi nói. Nhưng anh ta làm thinh, ra hiệu cho tôi đi theo. Hai người băng qua những vườn xoài thấp. Trong bóng tối, lối mòn châu thổ vẫn ánh lên một màu trắng đục vì thế chúng tôi đi khá nhanh. Tới một cái chốt kiểm soát, người dẫn đường nói mật khẩu rồi đi qua cây cầu khỉ.
Thấy người đàn ông lầm lì quá, tôi bắt chuyện:
-Đồng chí là người ở đây?
-Không. Tôi là bắc kỳ.
-Bộ đội?
-Không phải bộ đội. Bắc kỳ di cư.
Câu trả lời lạ quá làm tôi không dám hỏi nữa. Đột nhiên có tiếng động cơ rất lớn từ sông cái tràn vô. Người dẫn đường ra hiệu dừng lại, nghe ngóng. Tiếp theo là tiếng loa phóng thanh vang trên mặt sông:
-Hỡi các cán binh cộng sản. Các anh đã bị bao vây. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa sắp tấn công càn quét khu căn cứ này. Hãy ra hàng, nếu không các anh sẽ bị tiêu diệt.
Lập tức trực thăng quần đảo ngay trên đầu. Người dẫn đường nắm tay tôi chạy nhanh đến một chốt vũ trang.
-Cho cô này xuống HBM.
Tổ trưởng vũ trang nói:
-Còn một cái cuối cùng. Hai đồng chí xuống đi.
Anh ta đỡ tôi xuống rồi nhảy theo. Kéo nắp hầm đậy lại. Hơi đất ẩm và bóng tối làm tôi ngộp thở. Người dẫn đường nói:
-Bây giờ không phải lúc ngại ngùng đâu. Đừng đứng sát vách đất. Hãy nép vào tôi đi. Sẽ thấy dễ thở hơn.
Đó là kinh nghiệm chiến trường. Bao giờ một nam một nữ ở chung hầm bí mật cũng có nhiều hy vọng sống sót hơn là hai người đồng giới tính. Quả nhiên hơi ấm của tấm lưng người đàn ông làm tôi thấy dễ chịu hơn. Trên mặt đất súng nổ lẻ tẻ. Chỉ một lúc sau đại liên từ trên trực thăng bắn xuống áp đảo. Cành xoài gãy răng rắc. Tiếng chân chạy nặng nề ngang qua miệng hầm. Cũng may, căn cứ này đóng trên một địa hình sông nước nên xe tăng không vào được.
Có tiếng chân nhiều người khuấy động mặt đất bên trên. Người dẫn đường rút chốt lựu đạn cầm ngay trước ngực. Anh nói nhỏ vào tai tôi:
-Nếu tụi nó “xăm” trúng miệng hầm thì tôi sẽ bung nắp hầm lên, ném lựu đạn và dzọt lẹ ra bờ sông nhé. Cô biết bơi không?
Nhưng những bàn chân mang giày “xô” đã đi xa dần. Một đợt trực thăng nữa đảo tới. Đạn M60 lại trút xuống như sấm sét. Nắp hầm rung chuyển. Tôi co rúm lại.
Không biết trận càn kéo dài bao lâu vì sự gầm thét của bom đạn đã làm lu mờ mọi khả năng phán đoán. Khi chiến trường im tiếng súng, người dẫn đường hé nắp hầm nhìn lên thì thấy trời đã sáng.
Chúng tôi lại lên đường. Người đàn ông lấy lương khô đưa cho tôi. Lúc hai người đối mặt nhau tôi ngạc nhiên khi nhận ra một chàng trai đẹp đẽ, nho nhã. Tôi hỏi:
-Anh tên gì?
-Trần Vũ.
-Sao buồn quá vậy?
-Không sao.
Lại cắt rừng mà đi. Rừng sáng. Thưa thớt.
Sau bữa cơm chiều, nhà văn Đức Hải đến gặp tôi:
-Sao? Ở luôn đây được không?
-Mọi người ở được thì em ở được.
-Vậy mà có người muốn chiêu hồi đấy. Cô phải cẩn thận chớ nên tiếp xúc nhiều.
-Ai vậy?
Ông nhà văn liếc nhìn về phía Trần Vũ lúc đó đang nằm trên võng hút thuốc lá. Tôi nói:
-Đồng chí ấy có vẻ bí ẩn.
Đức Hải cười khô một tiếng rồi quay lưng đi. Mười Thảo tiến lại chỗ tôi.
-Em cho chị cây đèn dầu. Ở trong rừng phải có 3 chữ Đ. Đó là Đèn, Đài và Đùng.
-Đùng là gì?
-Là súng. Rồi chị cũng sẽ có một khẩu.
Tôi hỏi:
-Anh Trần Vũ là nhà văn hả?
-Ảnh là trung úy ngụy đấy. Tốt nghiệp trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt nhưng ghét Mỹ ngụy nên bỏ vô đây. Ban đầu ảnh viết văn, viết báo hăng lắm. Rất phong độ.
-Sao thấy ảnh buồn?
-Người ta không tin ảnh. Bị theo dõi. Bị ông Đức Hải bắt khai lý lịch hoài.
-Tại sao?
-Không biết. Ảnh nói với em là lúc đầu ảnh rất tự hào về sự chọn lựa. Bây giờ thì tấn thoái lưỡng nan. Em thấy ảnh như bị thất chí, bị trầm cảm. Em nghĩ tại sao người ta lại đối xử với ảnh như vậy? Người bình thường theo cách mạng thì “tốt” có một lần. Người bên kia chiến tuyến mà theo cách mạng thì phải “tốt đến hai lần”. Chị có đồng ý với em không?
-Chị chưa hiểu nhiều về ảnh.
Đèn trong căn nhà lợp lá trung quân ấy được thắp sáng đầu tiên. Vương gia đang ngồi uống trà. Hình như trên tay có cầm một cuốn sách. Theo lịch làm việc, tối nay tám giờ tôi phải đi gặp ông.
Tôi nghĩ nếu mình bước vô căn phòng ấy thì mình cũng sẽ là một cái bóng. Những người đứng bên ngoài cũng sẽ nhìn thấy bóng tôi in trên bức vách làm bằng tấm nylon xám đục. Tuy nhiên khi tôi bước vô thì ngọn đèn dầu đã được dịch ra sát của sổ, vì thế ở ngoài nhìn vào chỉ thấy có vùng sáng của ngọn đèn.
Vương gia ngồi trên cái ghế tre, ra hiệu cho tôi ngồi đối diện. Ông hỏi tôi về công tác thanh niên ở đô thị, và đặc biệt chú ý đến những cán bộ Đoàn đang hoạt động dưới danh nghĩa Phật giáo. Tuyệt nhiên ông không đả động gì đến chồng tôi hiện bị tù Côn Đảo. Ông chỉ nói:
-Rất tiếc là cháu đã bị lộ. Chú đã bố trí một đồng chí khác về thay chỗ của cháu. Cháu sẽ đảm nhiệm công tác khác, quan trọng hơn. Còn bây giờ đã đến đây thì mọi việc có chú lo. Chú coi cháu như con nuôi vậy.
Ông đứng lên, đưa tay ra. Tôi bắt tay ông.
Ông vuốt tóc tôi bằng những ngón tay dịu dàng. Tôi không dám cưỡng lại. Tôi để yên một lúc rồi bước ra ngoài đêm.
Lúc ấy ngoài mé rừng nhà văn Đức Hải xách đèn pin đi rảo một vòng khu lán trại. Bao giờ ông ta cũng dừng lại chỗ gốc cây bằng lăng cách võng của Trần Vũ chừng bốn mét. Và lắng nghe.
Mọi tối, giờ này, Trần Vũ thường nghe đài BBC nhưng bữa nay hắn nghe cái đài quái gì lạ hoắc. Đức Hải nhích tới mấy bước, cũng không nghe được, bèn tới sát võng.
-Ông nghe cái gì vậy?
Im lặng.
-Nghe bằng tiếng Mỹ thì ai mà hiểu. Có chửi Đảng cũng chẳng ai biết.
Trần Vũ chẳng buồn ngoái lại. Anh chỉ nói:
-Không phải tiếng Mỹ.
-Tiếng Pháp lại càng phức tạp.
Nói xong thì bỏ đi.
Ngang qua căn nhà của lãnh đạo, thấy cái bóng của vương gia đi qua đi lại, Đức Hải vội vàng tắt đèn pin và bước lẩn vào trong bóng tối.
Tôi thả bộ, đi về phía Trần Vũ.
-Em có món quà nhỏ cho anh.
-Cô nên về ngủ đi. Tôi muốn nằm một mình.
Nhưng tôi đã sấn tới mấy bước và thảy gói thuốc lá lên ngực anh.
Trong buổi họp, Đức Hải nói:
-Tôi đề nghị đồng chí Vũ nộp cái đài cho cơ quan. Nhiều đồng chí cần đài mà không có.
Trần Vũ mở thắt lưng lấy cái radio, đặt ngay trước mặt mình.
-Còn khẩu súng và cây đèn dầu, anh có muốn tịch thu nốt không?
Đức Hải nói:
-Khi nào cần, tôi sẽ thông báo.
Cuối buổi họp Trần Vũ ra gốc cây ở sau bếp ngồi hút thuốc. Đó là gói thuốc tôi cho anh tối hôm qua. Tôi thấy ái ngại cho anh. Tôi đến gần và nói:
-Anh không nên sống đơn độc như thế.
-Tôi không sống đơn độc. Tôi bị cô lập. Thu không biết rằng tôi đã vào rừng bằng một tâm tình rất đẹp, và bằng hào khí của một chàng tráng sĩ sao? Thu không biết rằng một sĩ quan tốt nghiệp trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt tương lại sẽ có thể trở thành tướng lãnh sao? Vào đây tôi chỉ muốn làm một anh du kích mà còn bị nghi ngờ. Còn gì bẽ bàng hơn thế không?
Lúc ấy có tiếng Đức Hải gọi:
-Đồng chí Thu. Vương gia cần gặp.
Đó là đêm định mệnh. Về sau này, tôi vẫn thường tự hỏi tại sao đêm ấy tôi lại chịu thua lão? Lão không cưỡng bức, không thô bạo. Chỉ là một cái nhìn. Một cái nhìn đầy thèm muốn và đầy quyền lực, thế mà tôi không cưỡng lại nổi. Đó là cái nhìn của một con sói. Nó làm tôi rúng động, vừa muốn thoát thân vừa muốn bị ăn thịt. Lão chỉ nói:
-Em có vẻ mệt. Hãy nằm xuống nghỉ một lát.
Thế là tôi nằm xuống, co người lại, một tay che mặt, một tay níu lấy lưng quần.
Trong nhiều năm, tôi vẫn tự biện hộ rằng đêm đó mình không làm rùm beng chỉ vì muốn bảo vệ uy tín cho lãnh đạo, vì điều đó rất cần cho kháng chiến. Nào ngờ, sau ngày thống nhất, gặp lại các nạn nhân của lão, tôi mới biết rằng họ cũng dùng cái lý do cũ rích ấy để tự biện hộ cho mình.
Sáng hôm sau, có tin Trần Vũ mất tích. Người ta túa ra đi tìm. Còn nhà văn Đức Hải thì ngồi viết báo cáo là Vũ đã chiêu hồi. Báo cáo viết chưa xong thì có người phát hiện anh nằm ngoài bờ suối trong tình trạng sốt cao. Tôi nấu cho anh một nồi cháo cá và cùng với Mười Thảo thay phiên nhau chăm sóc.
Vài bữa sau, Vũ đã khá hơn. Đức Hải đem trả lại cho anh cái radio.
Khi ông ta đi rồi tôi bảo Vũ:
-Thấy mất anh, người ta nói anh đi chiêu hồi.
-Cô có tin không?
-Tin một nửa.
-Vậy tôi kể cho cô nghe một giai thoại trong truyện Tam Quốc nhé: Tào Tháo có tội, phải đi trốn, tráng sĩ Trần Cung theo giúp. Hai người đến nhà một người bạn tên Bá Xa, được ông này mời nghỉ lại, rồi đi mua rượu về thếch đãi. Hai người nằm trốn trong phòng, chợt nghe bên ngoài có tiếng gia nhân nói: “Bắt trói nó lại và giết đi.” Tức thì xông ra, gặp ai chém nấy. Khi ra nhà sau, thấy con heo bị trói đang nằm dưới đất thì biết mình đã giết lầm người. Bèn lên ngựa bỏ chạy. Giữa đường gặp Bá Xa đi mua rượu về Tào Tháo bèn chém chết luôn. Trần Cung nói:”Lúc nãy ta đã giết lầm bao nhiêu người, sao bây giờ lại còn giết nữa?” Tào Tháo nói: Thà mình phụ người chớ đừng để người phụ mình. Nếu không giết, nó về thấy người nhà chết hết nó sẽ đi tố cáo. Ta thoát sao được? Trần Cung thấy Tào tháo là kẻ bất nhân nên bỏ Tào Tháo mà theo Lữ Bố. Em có hiểu ý nghĩa câu chuyện đó không?
-Ý anh muốn ra chiêu hồi chứ gì?
-Em hiểu sai rồi. Trần Cung thấy Tào Tháo bất nhân nên theo Lữ Bố. Còn anh thấy Mỹ bất nhân nên theo Việt cộng. Bây giờ lại thấy Việt cộng vừa bất nhân vừa bất nghĩa, chẳng lẽ anh trở lại với Mỹ sao? Trần Cung còn có con đường để đi. Còn anh thì đã cùng đường. Đã mạt lộ rồi. Chỉ còn cái chết thôi.
Tôi đưa ngón tay lên môi anh:
-Vũ ơi! Đừng nói những lời ấy. Anh gắng ăn thêm một chén cháo.
Trong khi chăm sóc anh, tôi tìm thấy trong cái balô con cóc một tập truyện ngắn mà anh là tác giả. Tôi hỏi mượn đọc nhưng anh nói:
-Em đọc làm gì. Đó là những câu chuyện ấu trĩ của một thời hoang tưởng.
-Sao lại hoang tưởng?
-Vì chung quanh anh toàn là xu nịnh, đố kỵ và hèn nhát, những thứ ấy không hề có trong cuốn sách ấy.
-Vậy tác phẩm này là dối trá sao?
-Không dối trá nhưng ngây thơ, hời hợt. Em đem ra ngoài đốt giùm anh đi.
-Sao lại đốt.
-Nếu em không đốt thì anh sẽ đốt.
Và trong đêm ấy, khi mọi người đang ngủ say thì Trần Vũ đã ra ngồi nơi cái gốc cây quen thuộc của mình. Anh lôi cuốn sách ra, xé từng tờ. Và đốt. Ngọn lửa cháy đơn độc trong cái xó rừng ẩm mốc, khuất tịch và câm lặng. Ngọn lửa vừa nhóm lên một chút đã tàn lụi. Những trang giấy ngã vàng hấp hối đang được hóa kiếp.
Giữa trưa hôm sau Trần Vũ gọi Mười Thảo đến. Hỏi:
-Em có thương anh không?
-Sao anh lại hỏi vậy?
-Vì anh muốn nhờ em chuyển giúp anh một bức thư về gia đình.
-Sao anh không nhờ giao liên?
-Thư của anh luôn bị kiểm duyệt. Hãy nhận lời đi. Vì đây là bức thư cuối cùng.
Mười Thảo giật mình:
-Anh nói gì vậy?
-Anh sẽ tự sát.
-Không được. Anh nói mê rồi.
Cô gái nhỏ sờ trán Trần Vũ, thấy lạnh tanh. Tay cô run lên. Vũ lại nói:
-Gia tài của anh còn 3 thứ có thể dùng được. Cái đèn dầu, anh cho em. Cái đài thì em có rồi, anh tặng cho Thu.
Trần Vũ cầm khẩu AK47 lên, mỉm cười với cô bé đang run rẩy:
-Sau khi anh tự sát. Người ta sẽ lấy khẩu súng. Anh chỉ còn một chiếc đồng hồ. Em giúp anh gởi tặng cho thằng Hay. Nó đi giao liên chưa về phải không? Nó thường trầm trồ cái đồng hồ này lắm đó.
Tiếng gà rừng gáy vang trong buổi trưa oi bức. Trần Vũ lột cái đồng hồ đang đeo trên cổ tay rồi bỏ chung các thứ vào cái bao nylon đã chuẩn bị sẵn và đưa cho Mười Thảo. Anh đứng lên, xăm xăm đi ra bờ suối.
Mười Thảo kêu lên:
-Anh Vũ! Em lạy anh!
Lúc đó tôi đang đứng trong trạm xá nghe tiếng kêu, vội bước ra. Mười Thảo kéo tay tôi chạy ra suối. Khi chúng tôi đến nơi thì Trần Vũ đã lội sang bên kia bờ và đang đứng trên một mô đất.
Mười Thảo lôi tôi xuống suối. Tôi vấp ngã, ướt hết quần áo. Thảo gào lên:
-Em lạy anh! Anh Vũ ơi!
Con bé khóc hu hu. Trần Vũ mở chốt an toàn, kéo quy-lát. Tôi la lên:
-Đừng! Em xin anh! Anh Vũ!
Và tôi nhào tới nhưng Vũ lạnh lùng nói:
-Đứng im! Bước tới thêm một bước là tôi bắn liền.
Nhưng chúng tôi bất chấp. Chúng tôi nhảy lên bờ. Lập tức một loạt đạn tung đất đá ngay trước mặt, làm chúng tôi khựng lại.
Hai đứa quỳ xuống, sụp lạy và khóc nức nở.
Nhưng Trần Vũ rất bình tĩnh, anh cũng quỳ xuống, đưa nòng súng ngay cổ họng mình và bóp cò. Tiếng nổ như một tiếng hú khô và lạnh của rừng.
Trần Vũ ngã chúi xuống phía trước.
Khẩu súng chuồi theo triền dốc.
Đó là hồi ức của một người đàn bà tên Huỳnh Thị Thu, bốn mươi tuổi, đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam, giám đốc Sở Thương nghiệp, có chồng và một con trai.
Bà là bạn của tôi từ khi chúng tôi còn là sinh viên trong các phong trào phản chiến, xuống đường chống chiến tranh thời đánh Mỹ.
Trong số hai người đàn ông mà bà Huỳnh Thị Thu gặp trong chiến khu thì vương gia là người quyết định số phận của bà sau này còn “người dẫn đường” tuy không phải là bạn tôi nhưng anh ta là em trai của bạn tôi. Và vì trước khi tự sát anh có để lại một bức thư nên tôi tự thấy có trách nhiệm phải giao bức thư ấy cho bạn mình.
Giám đốc Thu hỏi:
-Trước đây bạn anh làm gì?
-Đại úy trong quân đội Sài Gòn.
Thu mở ví lấy ra một cái hộp nhỏ, trong đó có một tờ giấy đã vàng ố nhưng những dòng chữ vẫn còn rõ nét.
Hồi ở trong rừng tôi chỉ nghe phong phanh về cái chết của Trần Vũ vì những loại tin tức như vậy thường bị bưng bít rất kỹ, và rất dễ bị lãng quên trong giai đoạn chiến tranh ác liệt. Nào hay anh ta lại là em của bạn tôi và có vẻ như mối liên hệ này sẽ dẫn đến nhiều tình huống bất ngờ.
@by txiuqw4