Giáo sư Phương Tân viết trong tài liệu như thế này: “Không nghi ngờ gì nữa, Hitler là một kẻ cuồng tín sùng bái năng lực siêu tự nhiên, tư tưởng này đã thúc giục y cùng một số quan chức cấp cao cũng sùng bái năng lực siêu tự nhiên khác, tiến hành nhiều hoạt động bí mật, bao gồm cả việc thành lập lực lượng Waffen-SS và Hiệp hội Di sản Tổ tiên, rồi những hành động tìm kiếm Chén Thánh, Mũi Giáo Thần Thánh, nghiên cứu văn tự cổ, đặc biệt là sự kiện Tây Tạng…”
Thấy Cường Ba thiếu gia ý chí đã khôi phục, mọi người đều hân hoan cổ vũ, không tránh khỏi huyên náo một hồi. Nhưng chỉ chốc lát sau đó, một cô y tá lập tức đi vào nhắc nhở, nói bệnh nhân cần được nghỉ ngơi, không nên chui rúc hết cả vào đây như thế này, để lại một hai người chăm sóc là được rồi, những người khác phải ra ngoài hết.
Lúc này Trác Mộc Cường Ba đã bình tĩnh trở lại sau cơn say và sau những xúc cảm kích động dồn dập, trong lòng vẫn còn nhiều điều nghi vấn, nhưng lại không biết phải mở miệng hỏi thế nào. Giáo sư Phương Tân ở đầu máy bên kia dường như nhìn thấu tâm sự của gã, khi mọi người chuẩn bị ra khỏi phòng bệnh để Trác Mộc Cường Ba và Mẫn Mẫn ở lại với nhau, giọng giáo sư liền vang lên qua loa máy tính: “Cánh Nam, đại sư nữa, về số tài liệu hai người gửi cho tôi đó, tôi vẫn còn vài vấn đề muốn hỏi, hai người ở lại một chút đã nhé.”
Trương Lập đề nghị, ở gần đấy có siêu thị, mọi người ra đó mua ít đồ.
Vậy là, Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La ở lại, còn những người khác đều ra ngoài mua sắm. Trong lúc y tá vào đo huyết áp, nhiệt độ cho Trác Mộc Cường Ba, Lữ Cánh Nam nói chuyện với giáo sư Phương Tân. Sau khi cô y tá đi khỏi, Trác Mộc Cường Ba nhìn bóng lưng Lữ Cánh Nam, thấp giọng thì thào hỏi: “Đại sư, có một chuyện tôi không được rõ cho lắm.” Gã ngưng lại giây lát, rồi hỏi thẳng: “Trương Lập, Nhạc Dương trở lại giúp tôi, điều này tôi có thể lý giải được; Ba Tang và đội trưởng Hồ Dương tôi cũng có thể lý giải, nhưng trường hợp của đại sư và Cánh Nam thì khiến tôi lấy làm bất ngờ. Với năng lực và bản lĩnh của hai người, hoàn toàn có thể tìm được một đội ngũ tốt hơn nhiều, cho dù gia nhập đội tìm kiếm của nhà nước cũng không thành vấn đề gì, đúng không? Tại sao hai người lại chọn tôi?”
Lạt ma Á La đứng lên, ra đóng cửa phòng bệnh. Lữ Cánh Nam chỉ liếc một cái, như đã sớm đoán được Trác Mộc Cường Ba sẽ chất vấn chuyện này. Lạt ma Á La bước trở lại bên cạnh giường bệnh của Trác Mộc Cường Ba, từ tốn: “Ừm, Cường Ba thiếu gia, có một số chuyện chúng tôi vẫn chưa nói với cậu. Hiện giờ, tôi nghĩ, cũng đã đến lúc phải cho cậu biết rồi.”
Trác Mộc Cường Ba trợn tròn mắt, im lặng lắng nghe. Lạt ma Á La nói: “Năm xưa, toàn bộ Đạo quân Ánh sáng biến mất trong một đêm, chuyện này tuy rất bí mật, nhưng dù sao cũng đã để nhiều gia tộc lớn và hoàng gia hay biết rồi, nhưng vẫn còn một chuyện bí mật hơn, thậm chí cả hoàng gia năm đó cũng không hề biết đến. Đó chính là, không phải toàn bộ Đạo quân Ánh sáng đã bỏ đi, họ vẫn còn để lại ở thế giới này một cánh quân nhỏ. Cánh quân này, toàn bộ là những đứa trẻ mười hai mười ba tuổi, vẫn còn chưa hoàn thành quá trình huấn luyện, cũng có nghĩa là, những đứa trẻ này chưa phải là chiến binh thực thụ của Đạo quân Ánh sáng, mà chỉ là lực lượng hậu bị, trong đó có rất nhiều đứa, thậm chí chỉ mới vừa được chọn vào huấn luyện mà thôi. Những đứa trẻ này, hoàn toàn không hề hay biết chuyện gì đã xảy đến với các thành viên trưởng thành của Đạo quân Ánh sáng, cũng không hề biết họ cất giấu bí mật gì, có lẽ chính vì lý do đó, chúng mới bị bỏ lại, bị giấu ở một nơi vô cùng bí mật. Tương truyền, những đứa trẻ này vẫn ở lại nơi bí mật đó, tiếp tục tiếp nhận huấn luyện từ những đứa lớn hơn, còn được lệnh không được ra ngoài, phải ở nguyên tại chỗ đợi Đạo quân Ánh sáng phái người đến đón đi. Nhưng chúng cứ đợi mãi, đợi mãi đến khi trưởng thành rồi mà vẫn không nhận được bất cứ tin tức gì liên quan tới Đạo quân Ánh sáng. Bọn chúng, đã bị bỏ rơi. Về sau, khi chúng ra khỏi sơn cốc bí mật đó, cao nguyên đã dấy lên vô số cuộc tranh đoạt, chiến tranh nổ ra khắp nơi, cánh quân bị Đạo quân Ánh sáng bỏ lại này trải qua nhiều trắc trở, cuối cùng đã phát triển thành một tổ chức đặc thù, được người đời gọi là Mật tu giả, cũng chính là… chúng tôi!”
Trác Mộc Cường Ba từ đầu chí cuối vẫn giữ được vẻ bình tĩnh, nhưng nội tâm chấn động dữ dội, nếu không phải bị băng bó khắp người, chỉ e gã đã ngồi bật dậy từ lâu rồi. Mặc dù gã cũng mang máng cảm thấy lạt ma Á La và Lữ Cánh Nam hình như liên quan gì đó với Đạo quân Ánh sáng, thậm chí còn từng nghĩ rằng họ chính là hậu duệ của bộ tộc Qua Ba, nhưng đáp án của lạt ma Á La vẫn khiến gã nhất thời khó mà chấp nhận nổi, thật không ngờ bọn họ lại chính là Đạo quân Ánh sáng! Cánh quân bị bỏ rơi của Đạo quân Ánh sáng! Gã liếc nhìn giáo sư Phương Tân đang nói chuyện với Lữ Cánh Nam qua máy tính; chắc giáo sư cũng nghe thấy cuộc trò chuyện của gã và lạt ma Á La, nhưng phản ứng của ông cho thấy rõ ràng giáo sư đã biết chuyện này từ trước rồi.
Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa hết kinh ngạc, nhưng nghĩ kỹ lại thì thân thủ đó, cùng với sự hiểu biết của lạt ma Á La về bộ tộc Qua Ba cũng như Đạo quân Ánh sáng, lẽ ra gã phải nghĩ ra từ lâu rồi mới đúng, chẳng qua là từ đó tới giờ gã vẫn luôn cảm thấy khả năng này khó có thể xảy ra mà thôi. Tại sao Đạo quân Ánh sáng bỏ rơi họ? Vì họ không hề biết chuyện xảy ra năm đó hay sao? Hay vì Đạo quân không muốn để lũ trẻ bị cuốn vào vòng xoáy tranh đoạt ấy? Tại sao lại không đưa lũ trẻ đó trở về nơi quần cư của bộ tộc Qua Ba? Có điều, rất hiển nhiên là năm đó Đạo quân Ánh sáng không hề muốn người trong bộ tộc mình biết chuyện, vậy thì chuyện không đưa lũ trẻ về cũng có thể lý giải rồi. Nhưng, giờ mấyngười bọn lạt ma Á La muốn tìm Đạo quân Ánh sáng để làm gì? Muốn đòi họ cho một lời giải thích về vận mệnh bị bỏ rơi của mình ngày đó hay sao? Chỉ trong chốc lát, vô số câu hỏi cùng lúc ùn lên trong óc gã.
Lạt ma Á La như nhìn thấu tâm tư của Trác Mộc Cường Ba, lại nói tiếp: “Đạo quân Ánh sáng năm đó không chỉ mang đi tất cả châu báu trong Tứ Phương miếu, mà còn toàn bộ kinh điển nữa. Nếu trong Tứ Phương miếu chỉ cất giữ điển tịch của Bản giáo và Phật giáo thì cũng chẳng sao, nhưng ở đó còn cất giấu cả giáo lý duy nhất và toàn bộ nghi thức điển lễ của Qua Ba tộc chúng tôi. Công việc truyền thừa tín ngưỡng trong Qua Ba tộc trước nay đều do Đại Bản Ba và các tế sư thuộc hạ của mình hoàn thành, đồng thời họ cũng là người phụ trách giải đáp những nghi hoặc trong lòng tộc nhân và những thắc mắc về giáo lý, giáo nghĩa. Nhưng khi Đạo quân Ánh sáng biến mất, họ cũng biến mất theo. Cậu biết rồi đó,người Qua Ba không có chữ viết, đại đa số binh sĩ của Đạo quân Ánh sáng cũng không biết chữ.”
Trác Mộc Cường Ba gật đầu, điều này thì gã hiểu được, hơn nữa, ở thời cổ đại một vị quân vương chỉ cần đạo quân hùng mạnh của mình có thể nghe hiểu mệnh lệnh và chấp hành mệnh lệnh là đã đủ lắm rồi, không cần binh sĩ phải có đầu óc thông minh, tri thức uyên bác để làm gì.
Lạt ma Á La lại kể tiếp: “Duy chỉ có những binh sĩ canh gác Tứ Phương miếu, vì được tiếp xúc và bảo quản điển tịch, có một số rất ít người đã biết chữ, đồng thời còn ghi chép lại những giáo lý được Đại Bản Ba truyền dạy, phụng thờ làm Thánh điển, đem bảo tồn chung với những kinh sách khác trong Tứ Phương miếu. Bộ Thánh điển đó, chính là toàn bộ tín ngưỡng của bộ tộc Qua Ba chúng tôi, và cũng là bộ duy nhất còn sót lại trên đời này.”
Trác Mộc Cường Ba bừng tỉnh ngộ: “Cũng có nghĩa là, hai người muốn tìm lại…”Pháp sư Á La[1]nói: “Tín ngưỡng của chúng tôi vốn từng trải qua một thời kỳ phồn vinh, không thể nào không có dấu vết
gì trong lịch sử được, ít ra thì cũng phải có vị trí nhất định trong giới tôn giáo rối ren phức tạp thời đó mới đúng. Nhưng chính vì hơn trăm năm loạn lạc sau khi Lãng Đạt Mã diệt Phật, tôn giáo của chúng tôi và Bạc Ba La thần miếu đã bị lịch sử triệt để lãng quên. Sau này, tôn giáo của chúng tôi cũng giống như nhiều tôn giáo bị biến mất khác, chỉ có thể tìm được một số ít phục tàng trong đống hoang tàn đổ nát bị tàn phá bởi ngọn lửa chiến tranh. Nhưng chúng tôi đã mất đi cả tên tôn giáo của mình, quên cả giáo nghĩa, giáo lý, chỉ còn lại một số ít những người tu hành địa vị thấp kém, chỉ biết tuân theo phương cách các bậc tiền bối để lại, dựa vào những kinh sách thiếu đầu thiếu đuôi mà lẳng lặng tu hành. Giờ đây, tôn giáo của chúng tôi giống như Phật giáo không có Phật pháp, Cơ Đốc giáo không có Kinh Thánh vậy. Một thời gian rất dài, những người tu hành thậm chí còn không biết tại sao mình lại tu luyện như vậy, tu luyện như vậy để làm gì. Trong rất nhiều ký lục tu hành của các bậc tiền bối viết kín đặc hết câu hỏi này đến câu hỏi khác. Hơn một nghìn năm nay, chúng tôi vẫn luôn đi tìm lại Thánh điển của mình, không hề từ bỏ.”
Trác Mộc Cường Ba thận trọng đưa mắt liếc Lữ Cánh Nam một cái, rồi hạ giọng hỏi: “Vậy Cánh Nam cũng là người Qua Ba à?”
“Không, Lữ Cánh Nam tuy là Mật tu giả, nhưng lại không phải là người Qua Ba, cô ấy thuộc về dòng ngoài. Thực ra, chuyện Mật tu giả chúng tôi là hậu duệ của Đạo quân Ánh sáng và bộ tộc Qua Ba ban đầu cô ấy cũng không hề hay biết, sau khi đến thôn Công Bố, cô ấy mới dần hiểu được sự tình. Vì Mật tu giả không có điện đường của tôn giáo mình, nên từ rất lâu về trước, tổ tiên chúng tôi đã dung nhập vào các tôn giáo khác, đồng thời lan tỏa ra các tổ chức tôn giáo ở xung quanh. Đến giờ thì cả mấy hệ phái lớn của Phật giáo Tạng truyền đều có Mật tu giả. Tại Ấn Độ, Nhật Bản và các nước Đông Nam Á cũng có Mật tu giả. Phát triển từ đó đến nay, các Mật tu giả dòng ngoài đã rất đông, có điều, họ tuyệt đối không hề hay biết chút gì về ngọn nguồn cũng như truyền thừa của Đạo quân Ánh sáng hết.” Nói đến đây, pháp sư Á La hai mắt sáng rực lên, nhìn thẳng vào mắt Trác Mộc Cường Ba, tiếp lời: “Những chuyện này, chúng tôi từ đó tới giờ vẫn chưa nói với cậu, chính là vì từ khi nhà thám hiểm người Anh tên Morton Stanley kia bỗng dưng xuất hiện, các tổ chức, các nhóm người tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu quả thực là quá nhiều, nếu để bọn họ biết được thân phận của chúng tôi thì… Vì vậy, chuyện này ngoài cậu và giáo sư Phương Tân ra, những người khác…”
“Tôi biết rồi.” Trác Mộc Cường Ba đã hiểu ý của pháp sư Á La, liền hứa sẽ bảo mật. Đoạn gã lại hỏi: “Nói như vậy là, lúc trước pháp sư nói với chúng tôi rằng mình không hiểu biết gì về tôn giáo thần bí kia, thì ra chỉ không muốn chúng tôi biết được thân phận thực sự của các vị thôi?”
“Không,” pháp sư Á La cải chính: “Đám Mật tu giả bị bỏ rơi chúng tôi đã hoàn toàn mất đi tất cả những gì liên quan đến tôn giáo trước kia, vì vậy, cũng có thể nói là căn bản không hiểu gì về nó hết. Tôn giáo được hình thành khi nào, hưng thịnh vào đời nào, giáo lý như thế nào, phân thuộc ra sao, đã từng làm được những gì, tất cả những điều ấy chúng tôi đều hoàn toàn không hề hay biết. Còn như Đảo Huyền Không tự, một công trình huy hoàng rực rỡ như thế mà chúng tôi cũng chẳng biết nó ở nơi đâu. Chẳng qua chỉ là xem được hình vẽ trong một vài kinh sách tản mát còn sót lại mà thôi. Còn cả Cánh cửa Sinh mệnh ở thôn Công Bố nữa, đó có lẽ là một thánh đàn trong Giáo, những người sáng lập ra thôn Công Bố, cũng là đồng bào trong Giáo… nhưng chúng tôi đã đứt liên lạc từ gần nghìn năm nay rồi. Cả những thứ cổ trùng đó nữa, kinh sách ghi chép về thứ này cực kỳ ít, mà đại đa số đều đã bị thất lạc cả. Còn như giống dây leo trong Đảo Huyền Không tự, rồi tử vong trùng, không khí nén, hồ cường toan… chúng tôi cũng như các cậu thôi, nghe cũng chưa từng nghe tới chứ đừng nói là hiểu biết về chúng.”
Trác Mộc Cường Ba khẽ thở dài một tiếng, lại nói: “Nhưng pháp sư vẫn chưa trả lời tôi, tại sao hai người lại sẵn lòng giúp đỡ tôi như vậy. Hiện giờ điều kiện của chúng tôi so với đội chuyên gia của nhà nước thì kém nhiều lắm lắm cơ mà?”
“Bởi vì cậu là Thánh sứ!” Pháp sư Á La nhìn Trác Mộc Cường Ba nhăn mặt nhíu mày dưới lớp băng bó, nói bằng giọng khẳng định: “Kỳ thực, trong đám Mật tu giả chúng tôi, từ xưa đã có lời đồn như vậy. Chỉ có Thánh sứ mới mở được cánh cửa lớn của Bạc Ba La thần miếu. Vì vậy, bất kể thế nào, chúng tôi cũng sẽ dốc hết sức giúp đỡ cậu, trừ phi cậu muốn bỏ cuộc.”
Các trưởng lão thôn Công Bố xưa nay vốn không chịu gặp người ngoài, chính là sau khi gặp mặt pháp sư Á La mới đồng ý tiếp gã. Trác Mộc Cường Ba tức thì nhớ lại được chuyện này, vội hỏi: “Đúng rồi, pháp sư, hai người và dân thôn Công Bố chắc cùng một tôn giáo đúng không? Vậy tại sao họ nghĩ tôi là Thánh sứ thế? Mà cả Merkin nữa, sao hắn cũng thành Thánh sứ được?”
“Không biết nữa.” Pháp sư Á La cười khổ lắc đầu: “Cường Ba thiếu gia, cậu vẫn chưa hiểu, chúng tôi đã không liên hệ gì với nhau hơn một nghìn năm nay rồi, bọn họ không biết đến sự tồn tại của chúng tôi, chúng tôi cũng không biết rằng có họ tồn tại trên đời này. Lời thề mà họ tuân thủ ấy là do tổ tiên truyền lại, vì vậy, bất cứ ai cũng không thể thăm dò bí mật của họ được. Có điều, theo suy đoán của tôi, những người gọi là Thánh sứ có lẽ là một quần thể đặc thù, giống như trong một trăm nghìn người mới có một người thuộc nhóm máu AB âm tính vậy. Nhưng quần thể này, không chỉ có một hoặc hai thôi, bằng không thì không thể nào giải thích nổi, tại sao cả trong đám người nước ngoài cũng xuất hiện Thánh sứđược.”
Cuối cùng, pháp sư nói: “Giờ thì Cường Ba thiếu gia không còn nghi ngại gì nữa chứ? Tuy mục tiêu của chúng ta khác nhau, nhưng lại có chung một đích đến. Chúng tôi cần sự giúp đỡ của cậu, Cường Ba thiếu gia ạ.”“Không, chớ nên nói vậy.” Trác Mộc Cường Ba vội đáp: “Là mọi người đang giúp đỡ tôi, pháp sư Á La, cả giáo quan nữa, không có hai người, thì không thể có tôi ngày hôm nay được…”
Lúc này, giáo sư Phương Tân đã thảo luận xong với Lữ Cánh Nam, quay sang bảo Trác Mộc Cường Ba: “Được rồi, Cường Ba à, giờ thì cậu đã rõ thân phận của pháp sư, tôi nghĩ những nghi vấn trong lòng chắc hẳn cũng đã được tháo gỡ rồi phải không, để tôi cho cậu biết kế hoạch và các sắp xếp của chúng ta trong bước tiếp theo.”
Lữ Cánh Nam xoay máy tính về phía Trác Mộc Cường Ba, để gã nghe được rõ hơn chút nữa. Giọng giáo sư Phương Tân vang lên: “Mấy hôm nữa pháp sư Á La sẽ trở lại chỗ tôn giáo của họ để thu thập thêm tư liệu, Cánh Nam cũng phải trở về Tây Tạng, đội trưởng Hồ Dương và Trương Lập cần đi mua thêm vũ khí trang bị, Nhạc Dương và Ba Tang thì đi lần theo một đầu mối khác, trong thời gian dưỡng thương, Mẫn Mẫn sẽ ở lại chăm sóc cậu.”
Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Thầy giáo, thầy vừa nói đầu mối phải không? Chẳng phải đầu mối của chúng ta đã đứt đoạn rồi sao? Còn đầu mối gì nữa?”
Giáo sư Phương Tân ở phía bên kia bật cười đáp: “Cậu có điều chưa biết rồi, Cường Ba à. Mặc dù những đầu mối rõ ràng nhất đều đã đứt đoạn, nhưng các đầu mối khác thì vẫn có thể tiếp tục lần theo. Chẳng những vậy, giờ đây đầu mối của chúng ta còn nhiều hơn trước rất nhiều nữa.”
Nhìn bộ dạng như muốn ngồi bật dậy của Trác Mộc Cường Ba, giáo sư Phương Tân liền giải thích: “Vì lúc đó chúng ta giải tán bất ngờ quá, nên rất nhiều đầu mối còn chưa kịp chỉnh lý sắp xếp lại, thời gian sau này thì lại không thể nào liên lạc được với cậu. Cậu thử nghĩ lại xem, những văn bản chúng ta chụp trong địa cung ở châu Mỹ chẳng phải là vẫn chưa dịch được hết hay sao? Còn nữa,Cổ Cách kim thưmà các chuyên gia cho chúng ta, cũng mới chỉ dịch được có phần đầu tiên, không đúng à? Chúng ta không thể dịch được toàn bộ, không có nghĩa là các chuyên gia cũng đình đốn không thể tiến lên. Vừa nãy tôi và Cánh Nam chính là thảo luận về những bản dịch mới đó đấy. Hơn nữa, chúng ta còn có mấy đầu mối khác nữa…”
Đang nói chuyện thì mấy người bọn Trương Lập quay lại, túi lớn túi nhỏ các thức ăn dinh dưỡng và hoa quả chất đầy giường. Cả bọn đang cao hứng vui vẻ thì thầm đùa cợt mấy câu gì đó, chợt nghe Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Nhạc Dương, chúng ta phát hiện ra đầu mối gì mới hả? Sao tôi không thấy có gì nhỉ.”
Nhạc Dương kéo một chiếc ghế xếp ngồi xuống, một tay đặt lên thành ghế, đầu gục xuống tay, không chút khách khí nhận quả dương mai Đường Mẫn đưa cho, vừa nhét vào miệng nhồm nhoàm vừa nói: “Cường Ba thiếu gia, còn nhớ cái xác chết của tên lính Nazi đó không? Chúng ta tìm được trong cái xác ấy một bao thuốc có chữ viết, anh vẫn nhớ chứ?”
Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, rồi “ừm” một tiếng, gật đầu. Nhạc Dương lại tiếp lời: “Giáo sư Phương Tân đã nhờ chuyên gia dịch được rồi. Đầu mối này thì cả tổ chuyên gia cũng không biết đâu đấy.”Trác Mộc Cường Ba ngẩn người, sững sờ nói: “Không… không trình lên à.” Chỉ nghe Nhạc Dương gãi gãi đầu đáp: “Chuyện này à, lúc đó đi cũng hơi vội, nói giải tán là giải tán luôn, nên tôi quên béng đi mất.”
Giáo sư Phương Tân nói: “Trong thời gian tinh thần cậu bị sa sút, tôi đã tìm các chuyên gia giải nghĩa những văn tự đó, chúng được viết bằng mật mã quân Đức thường sử dụng trong Thế chiến II, muốn đọc được cũng phải tốn không ít công sức. Giờ chúng ta đã biết ý nghĩa mặt chữ là, trở lại căn cứ địa số 3, tìm kiếm, phá giải, chỉ một câu như thế thôi. Ngoài ra, chúng tôi còn phát hiện được một số đầu mối khác trên bao thuốc đó. Thời gian sản xuất của bao thuốc là khoảng năm 1945, cũng là năm quân Đức chiến bại, như vậy có nghĩa là, rất có khả năng bọn họ chưa trở về căn cứ địa, còn chuyện tìm kiếm, và phá giải cái gì, theo tôi, cần phải tiến hành điều tra kỹ hơn. Trên thực tế, chúng tôi đã tra xét được một số rồi. Năm đó đảng Nazi cho xây dựng mấy căn cứ trên đất Tây Tạng, chỉ có điều tấm bản đồ chú thích vị trí của chúng giờ có lẽ đang lưu trữ bên Nga. Chỉ cần tìm được vị trí của căn cứ số 3, nói không chừng chúng ta sẽ có thêm phát hiện gì mới cũng nên. À, đúng rồi, còn một đầu mối quan trọng nữa, Trương Lập đã mang đến cho cậu rồi đây.”
Trương Lập đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, lẳng lặng lấy ra một quyển sổ ghi chép bìa da màu đen dày cộp, đặt lên ngực gã. Trác Mộc Cường Ba thoáng sững sờ, rồi sực nhớ ra, kêu lên kinh ngạc: “Nhật ký của Đường Thọ!” Chỉ thấy Mẫn Mẫn bên cạnh gã khẽ gật đầu. Trác Mộc Cường Ba mừng rỡ ngồi bật dậy, suýt chút nữa làm những vết thương khắp người vỡ ra.
“Các cậu phát hiện ở đâu thế?”
Trương Lập và Nhạc Dương nhìn nhau cười cười: “Nói thế nào nhỉ, có thể coi như là ông trời gửi tặng cho cũng được, lúc mới về bệnh viện, vì bị giải tán gấp quá nên cũng không kịp kể cho kỹ càng với mọi người.” Sau đó, hai anh chàng liền thuật lại một lượt chuyện mình gặp hiểm nguy trên đường trở lại Tây Phong đới, rồi bị gió thổi đi thế nào, rơi xuống lều bạt thế nào. Trác Mộc Cường Ba nghe xong mới biết cuốn nhật ký của Đường Thọ này quả nhiên xuất hiện rất ly kỳ. Gã cười cười nói: “Sao các cậu không giao ra cho cấp trên?”
Trương Lập hạ giọng thì thầm: “Dù sao thì cũng có ai biết đâu?” Nhạc Dương biện bạch: “Cái này lẽ ra phải là tài sản cá nhân của Mẫn Mẫn chứ?”
Trác Mộc Cường Ba cầm cuốn nhật ký lên, không thể chờ được, chỉ muốn lật tìm những ghi chép có liên quan tới Bạc Ba La thần miếu, nhưng lật giở mấy chục trang rồi cũng không thấy gì. Trương Lập đứng bên cạnh bèn giải thích: “Không cần tìm đâu, Cường Ba thiếu gia, mấy trang đó bị người ta xé đi rồi. Chắc là lúc đầu có ba nhân viên kiểm lâm rời khỏi trạm bảo hộ Khả Khả Tây Lý, họ có lẽ đã lần theo những gì ghi trong nhật ký mà đến được rừng tháp băng, nhưng khi chúng tôi phát hiện ra cuốn nhật ký này thì chỉ có hai cái xác thôi. Cũng có nghĩa là, còn một kẻ khác, kẻ này đã thoát khỏi lũ rắn trắng. Hắn chỉ mang theo những trang bị thiết thực nhất, đến cả cuốn nhật ký này, hắn cũng chê quá nặng nề mà chỉ xé đi mấy trang liên quan. Chúng tôi đã xem đi xem lại rồi, chỉ có những trải nghiệm mạo hiểm của Đường Thọ ở các nơi khác thôi, không hề có bất kỳ nội dung nào đề cập đến Bạc Ba La thần miếu cả.”
Trác Mộc Cường Ba cụt hứng gập cuốn nhật ký lại, nói: “Thì ra là thế.”
Nhạc Dương liền cổ động tinh thần: “Nhưng cũng đừng nản lòng thế, Cường Ba thiếu gia, anh vẫn chưa xem kỹ cuốn nhật ký đó mà, nội dung trong đó giúp chúng ta rất nhiều đấy. Đường Thọ đã mua loại vũ khí, trang bị nào ở nước nào, thông qua mối chợ đen nào, tất cả đều được ghi chép rất kỹ càng trong nhật ký. Đối với chúng ta mà nói, bản thân điều này đã là một sự giúp đỡ không nhỏ rồi. Có một số công cụ anh ta nhắc đến trong nhật ký còn tiên tiến hơn, thực dụng hơn loại mà chúng ta từng sử dụng. Còn có cả một số đồ tự chế nữa, đến Trương Lập cũng không thể không thừa nhận, anh trai Mẫn Mẫn đích thực là một thiên tài. Không ai có thể ngờ rằng, anh ta có thể tự chế ra những trang thiết bị hoàn mỹ như vậy.”
Nhắc đến Đường Thọ, ánh mắt Đường Mẫn tối sầm đi, anh trai cô giờ này vẫn không biết đang lưu lạc ở chốn nào.
Trương Lập bổ sung thêm: “Không sai, có cuốn nhật ký này, chúng ta coi như đã có một quyển đại toàn thư về trang bị cao cấp khi tiến vào vùng hoang vu không bóng người, tiết kiệm rất nhiều công sức khi mua sắm thiết bị khí giới. Hơn nữa, Đường Thọ còn có thói quen tổng kết một cách ngắn gọn đơn giản, mỗi khi kết thúc một hành trình mạo hiểm, anh ta đều tổng kết lại bằng mấy chữ. Anh nhìn phía trước kia xem, anh ta kể lại chuyện một mình vào động băng, cũng gặp phải lũ chuột khủng khiếp ấy, lại còn có cả băng lở nữa, so với những gì chúng ta trải qua thì không hề thua kém chút nào, nhưng tổng kết của anh ta chỉ là ‘dễ hơn so với dự tính’, có vậy thôi. Rừng nguyên sinh ở Phi châu trong miêu tả của anh ta còn hung hiểm hơn rừng nhiệt đới Amazon chúng ta đã băng qua nhiều, vậy mà anh ta chỉ tổng kết bằng có ba chữ ‘cũng tạm được’. Anh ta xông vào một ngôi mộ Pharaoh vẫn chưa được khai quật ở Ai Cập, cũng gặp phải cạm bẫy chẳng thua kém gì trong Đảo Huyền Không tự. Người Ai Cập cổ đại lợi dụng thực vật mục nát phân hủy để chế tạo khí độc, lợi dụng sức chảy của cát để tạo ra vô số cạm bẫy, ngoài ra còn dùng chuỗi thức ăn liên hoàn để nuôi dưỡng rất nhiều loài động vật thích hợp sống trong cát… Nhưng Đường Thọ bình luận lần mạo hiểm ấy như thế nào chứ, ‘tương đối kích thích’, có bốn chữ thôi. Thế nhưng, anh thử giở trang cuối cùng ra xem xem, mấy chữ chưa bị xé đi ấy, chắc đó là những chữ cuối cùng Đường Thọ viết trước khi rút lui đấy.”
@by txiuqw4