Sau khi tiến vào khu vực huyện Mặc Thoát, Trác Mộc Cường Ba nhiều lần lấy ra con tằm ngọc Đa Cát giao vào tay gã hết ngắm nhìn rồi lại sờ nắn, nhìn một lúc lâu, lại trù trừ cho vào trong túi. Một lúc sau, gã lại lấy ra nhìn thẫn thờ. Pháp sư Á La trông thấy, bèn an ủi: “Không sao đâu, cô bé ấy rất kiên cường. Hơn nữa, người trong thôn Công Bố đều đã công nhận thân phận Thánh sứ đại nhân của cậu, cô ấy biết Đa Cát đã hy sinh để cứu Thánh sứ, trong lòng có lẽ không quá đau khổ lắm đâu.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Thế nhưng, chính vì nguyên nhân ấy, tôi mới càng cảm thấy mình khó có thể chối bỏ được trách nhiệm này.”Trương Lập vỗ vỗ lên vai gã, Nhạc Dương đang đeo chiếc ba lô to tướng, cũng hướng ánh mắt đầy sự quan tâm nhìn sang như cổ vũ.Trác Mộc Cường Ba gật đầu, lại cất con tằm ngọc, tiếp tục tiến về phía trước.
Núi xanh ngắt, bầu trời sáng bừng lên, rời xa khỏi ồn ào huyên náo và những mơ màng thế tục, mấy người họ sắp đến được tận cùng trời đất, thôn làng Công Bố đã lờ mờ hiện lên phía xa xa. Chỉ là, thứ Trác Mộc Cường Ba không muốn nhìn thấy nhất chính là áng mây hồng vẫn đợi chờ mãi nơi cổng làng, vẫn đỏ như giọt máu nhỏ xuống từ vầng dương lồng lộng trên cao, thấm vào núi xanh nước biếc, tựa như một bức tranh từ thuở hằng cổ xa xăm.
Tới gần hơn, bước chân Trác Mộc Cường Ba mỗi lúc một nặng nề, trước mắt gã dường như đã hiện ra bóng hình nhỏ nhắn ấy đang đứng trước cổng làng. Một cô thiếu nữ khoác áo Phổ Lỗ, đầu đội khăn đỏ như lửa, đàn cừu đã trở về thôn làng, nhưng cô vẫn quyến luyến nhìn về phương Đông, như đang đợi ai đó. Có điều, người mà cô chờ đợi, vĩnh viễn không bao giờ trở về nữa rồi.
Cảnh tượng màu áo đỏ, điểm giữa đàn cừu trắng hiện trên nền trời xanh, khiến trái tim Trác Mộc Cường Ba đau thắt lại.
Khi họ đi tới cổng làng, chỉ thấy cô thiếu nữ Ca Ca xinh xắn, my thanh mục tú kia vẫn sợ sệt đứng nơi ấy, hình như đã gầy hơn, vạt áo Phổ Lỗ đỏ rực như áng mây nơi cuối chân trời, nhưng khăn chít đầu đã cởi ra, để mái tóc dài chảy xuống như suối mây. Bàn tay cô đeo một miếng lót bằng da, thắt lưng quấn một chiếc váy da, đầu gối có miếng đệm, chân không giày để lộ ra đôi bàn chân thanh mảnh nhỏ nhắn. Trác Mộc Cường Ba thầm giật thót mình, gã quá quen thuộc với bộ trang phục này, vốn chuyên dùng khi dập đầu bái lạy. Kiểu dập đầu bái lạy này là nghi thức dân Tạng dùng để lễ tạ hoặc cầu xin thần minh bảo vệ. Theo truyền thống, ít nhất họ phải để chân trần liên tiếp dập đầu một vạn lần mới có thể được coi là thành tâm, trong lúc dập đầu phải tâm vô tạp niệm, như là giữa chốn không người vậy.
Chỉ thấy Ca Ca chắp hai tay trước ngực, mắt nhắm nghiền, từ từ giơ hai tay lên quá đỉnh đầu, rồi lại chầm chậm hạ xuống, chạm đến trán, chạm đến môi, kế đó là trước ngực, ba con đường thông đến linh hồn, đoạn lại chầm chậm quỳ rạp toàn thân, đến khi trán chạm đất, dùng hết sức lực toàn thân để hôn lên mảnh đất thánh thần thiêng liêng ấy.
Nhìn từ xa đã thấy giữa trán cô có một dấu vết hơi gồ lên, lại gần hơn mới phát hiện ra đó là một vết chai. Trác Mộc Cường Ba thầm run lên: mỗi ngày phải dập đầu quỳ lạy bao nhiêu lần mới có thể làm chai cả trán thế kia!
Vừa nhìn thấy cảnh tượng đó, cả Trương Lập và Nhạc Dương cũng không biết nên nói gì. Một đoàn bốn người đeo những chiếc ba lô nặng trĩu lặng lẽ đăm đăm nhìn Ca Ca, trong lòng dâng trào nỗi áy náy khôn nguôi. Họ cứ ngây ra nhìn cô thiếu nữ giơ bàn tay yếu ớt nhỏ nhắn cao quá đầu, vỗ vào nhau, rồi chầm chậm hạ xuống, chạm vào trán, vào môi, vào ngực, rồi thân người từ từ quỳ xuống, bò rạp ra, cánh tay vươn thẳng, trán chạm đất, rồi lại đứng lên, miệng lẩm nhẩm cầu nguyện, một lần, rồi lại một lần nữa. Khoảnh khắc ấy, cả trời đất dường như đều im tiếng, gió lạnh tiêu điều, chỉ nghe thấy tiếng hai mảnh da lồng ở tay cô đập vào nhau lúc vỗ tay, “bách, bách, bách…” những âm thanh như sợi roi da quất lên mặt Trác Mộc Cường Ba. Lúc Ca Ca đứng dậy, nom cô như một vị thánh nữ trang nghiêm, toát lên một vẻ cao quý, thuần khiết lạ thường. Bao nhiêu nỗi nhớ trong lòng cô, đều đã chuyển thành những tiếng “bách, bách, bách”, vang dội khắp cả trời đất.
Đã có mấy lần, khi nhìn thấy Ca Ca đứng lên, Trương Lập và Nhạc Dương cùng muốn quay đầu bỏ đi. Chuyện này, lẽ ra nên để một mình Cường Ba thiếu gia giải quyết, vẻ bình tĩnh và kiên nghị trên gương mặt yếu đuối mà xinh xắn ấy khiến mọi người thực không thể nào nỡ nhìn tiếp nữa. Họ không dám tưởng tượng, nếu Ca Ca biết rằng Đa Cát đã… không biết cô sẽ như thế nào.
Không biết là vì tiếng bước chân của bốn người, hay vì họ đã chắn mất ánh sáng, hay vì cảm giác gì đó, Ca Ca đột nhiên mở bừng mắt. Khi đôi mắt sáng trong ấy mở ra, không ai dám nhìn thẳng vào cô nữa. “A! Thánh sứ đại nhân!” Ca Ca ngượng ngùng ngừng dập đầu bái lạy, giấu bàn tay ra phía sau, nhưng đôi mắt đen lay láy thì nôn nóng nhìn xem phía sau lưng gã rốt cuộc có mấy người.
Trác Mộc Cường Ba vốn định nở một nụ cười hòa nhã, nhưng khóe miệng chỉ mấp máy được một chút, rồi không phát ra được âm thanh gì nữa, chứ đừng nói là cười. Những người khác cũng đều nghiêm trang đứng lặng lẽ một bên. Ca Ca dường như đã đoán ra được mấy phần, cô không nói gì, chót mũi như đã đỏ lựng lên, “Đa Cát đâu rồi?” cơ hồ cô phải dùng nhiều sức lực lắm mới thốt lên được bốn chữ ấy.
Không đợi Trác Mộc Cường Ba trả lời, Ca Ca đã như sực nhớ ra điều gì đó: “Xin lỗi, phiền Thánh sứ đại nhân chờ giây lát, tôi chỉ còn vài lạy nữa là đủ lễ rồi.” Nói đoạn, cô lại nhắm mắt, hai tay giơ cao, miệng lẩm bẩm: “Nam mô tam mãn đa mẫu đà nam, a bát la để gia đa sa bà nan am, đát chí tha, a, khư khư khư tư khư tư, ngư ngư…” nơi khóe mắt đã chảy ra những giọt lệ lóng lánh như pha lê, lã chã rơi xuống đất theo nhịp bái lạy.
“…đem thân này…, hồi sinh miền Cực lạc!” Niệm xong, Ca Ca đứng lên, hai hàng nước mắt vẫn chưa khô, lồng ngực hơi phập phồng co thắt, nhưng vẻ bi thương trong ánh mắt đã giấu đi. “Anh ấy, có để lại gì không? Thánh sứ đại nhân.” “À.” Trác Mộc Cường Ba vội đưa chiếc Thiên châu và con tằm ngọc đã ướt đầy mồ hôi tay ra, giọng nói thấp dần: “Đa Cát nhờ tôi đưa cái này cho cô, và… và nói rằng, đừng đứng ở cổng làng, đợi anh ấy nữa…”
“Ư…” Ca Ca lau nước mắt nhận lấy hai món vật đó, nhìn vật nhớ người, lại không kìm được nỗi đau thương, ngón tay cô khẽ vuốt ve lên con tằm ngọc: “Đây là tín vật định tình tôi tặng anh ấy, anh ấy trả lại rồi, anh ấy trả lại rồi… ôi!” Ca Ca lấy hết sức lực ném con tằm ngọc ấy ra thật xa, đau xót nói: “Đều tại tôi cả, tôi không nên tặng nó cho Đa Cát. Người đó rõ ràng đã nói, vật định tình ấy đẹp thật, nhưng lại là kiệt tác của lũ ma quỷ.”
“Cô bảo thứ cô vừa ném đi ấy là gì? Người nào đã nói với cô?” Trác Mộc Cường Ba còn chưa nghĩ ra nên an ủi cô gái này thế nào, pháp sư Á La đã đột nhiên kích động hỏi.Trác Mộc Cường Ba không hiểu, vội truy vấn: “Sao vậy? Pháp sư Á La?”
Pháp sư Á La nói: “Có lẽ Cường Ba thiếu gia không biết, chúng ta nói ngọc tằm hay ngọc trùng đều chẳng vấn đề gì cả. Nhưng đối với cô gái này, đó lại là một điều kỵ húy, đó là tên của ma quỷ, trong tôn giáo của chúng tôi, cũng không thể trực tiếp gọi ra được, nó sẽ mang đến điều bất hạnh và nạn tai.”
Ca Ca nói: “Tôi, tôi không biết. Người đó nói rằng, nói rằng đó là pháp thuật của ác ma, biến những thứ nó thích thành những viên đá rất đẹp, để giữ mãi mãi, ở chỗ họ có rất nhiều viên đá như thế, động vật biến ra, cây cối biến ra… tôi sớm biết vậy… tôi mà sớm biết như vậy…” cô lại đau lòng khóc òa lên.
Pháp sư Á La nói: “Chỗ bọn họ? Người đó không phải dân trong thôn này à? Cô gặp người đó ở đâu vậy?”
Ca Ca khóc nức nở nói: “Lúc tôi đi chăn cừu, lũ cừu đã tìm thấy anh ta. Khi ấy, anh ta đã đói đến sắp ngất đi rồi, cả người ướt sũng, lạnh run lên cầm cập ấy. Tôi lấy bánh tảm ba, túc mã và rượu Thanh Khoa cứu anh ta tỉnh lại. Anh ta rất hoảng sợ, bảo rằng mình vừa trốn từ địa ngục ra, cứ nói đi nói lại, bảo người ở đó chết hết rồi, cừu dê chết hết cả rồi, tôi cũng không biết tại sao anh ta biết nói tiếng của chúng tôi nữa…”
“Cô! Cô nói gì!” Lần này đến lượt Trác Mộc Cường Ba trợn tròn mắt, kinh hoảng nhìn Ca Ca thốt lên: “Người đó, người đó hình dáng ra sao?”
Trước câu hỏi của Thánh sứ đại nhân, Ca Ca cúi đầu nhớ lại: “Người đó… anh ta, tóc anh ta dài lắm, lúc ấy tôi chỉ lo cứu người thôi, không chú ý lắm.” Nghĩ một lúc nữa, cô lại nói: “À, trước ngực anh ta có tượng Quan Âm Bồ Tát sáu tay, tôn quý lắm.”
Trác Mộc Cường Ba hít một hơi không khí lạnh, xem ra không sai rồi, chính là người Qua Ba điên ấy, không ngờ anh ta lại từ đây đi ra. Vậy thì Cánh cửa Địa ngục mà anh ta nói, chắc chắn chính là Cánh cửa Địa ngục mà thôn Công Bố bảo vệ rồi. Lẽ nào Đường Thọ cũng từ nơi đây đi tới Shangri-la? Không, tuyệt đối không thể nào, Đường Thọ lái xe chạy ra cơ mà. Nói vậy nghĩa là, nơi Đường Thọ đi vốn không phải là chỗ của người điên ở Mông Hà đó hay sao? Nơi Tử kỳ lân cư ngụ không phải Bạc Ba La thần miếu, Bạc Ba La thần miếu cũng không có Tử kỳ lân canh gác, nói như vậy, ngay từ lúc ban đầu gã đã lầm rồi hay sao? Còn Ba Tang? Bọn họ lên núi tuyết, tình cờ lạc vào chỗ đó. Nơi ấy và nơi Đường Thọ đã đến có phải là cùng một nơi hay không? Hay là, đó là ba nơi hoàn toàn khác nhau, hoàn toàn cách biệt với thế gian? Không, bọn Ba Tang từng gặp người Qua Ba, nếu nói nơi bọn họ đến không phải là Shangri-la, sao lại gặp được người Qua Ba chứ? Lẽ nào có những nhánh khác nhau của cùng một tộc người? Nhất thời, đầu Trác Mộc Cường Ba như muốn nổ tung, ở Tây Tạng quả thực có quá nhiều khu vực không người, quá nhiều núi tuyết thần thánh, rốt cuộc trong đó ẩn chứa bao nhiêu điều bí mật thì không ai biết được. Ở đây, chỉ cần hơi không lưu ý một chút, là đã đặt chân vào một vùng thế ngoại đào nguyên, không tranh chấp gì với đời, hoặc giả là một chốn nhân gian thánh địa, lìa xa nhân thế. Ở đây, đâu đâu cũng là những tín đồ chân thành nhất, đâu đâu cũng là những bức tranh tuyệt mỹ của con người hòa nhập với tự nhiên. Có lẽ chính bởi nguyên nhân ấy, mà những người đã chán ghét những âm thanh ồn ã, những rừng bê tông cốt thép chốn thị thành mới hướng về mảnh đất này như thế. Thứ họ tìm kiếm, là một mảnh bình yên trong tâm hồn, họ muốn được gần hơn với thiên nhiên. Nhưng rốt cuộc nơi gã muốn tìm, là ở đâu chứ?
Nhạc Dương nói: “Pháp sư, Cường Ba thiếu gia, hai người bị làm sao vậy?” Trác Mộc Cường Ba nhìn Trương Lập nói: “Người điên ở Mông Hà, cậu còn nhớ không, Trương Lập, Trương Lập!” Tới đây, Trác Mộc Cường Ba lại cuống cuồng hỏi Ca Ca: “Người đó còn nói gì nữa? Cô gặp anh ta lúc nào thế? Cố nhớ thật kỹ tình hình lúc gặp anh ta lại đi! Ca Ca! Chuyện này quan trọng lắm! Cô làm ơn, nhất định, nhất định phải… phải nhớ rađó!”
Ca Ca vừa thút thít khóc, vừa nhớ lại tình cảnh lúc mình gặp người lạ kia khoảng ba năm về trước, lúc đó anh ta rất yếu ớt, tỉnh lại rồi nhưng người vẫn rũ rượi, cũng may là lúc đó anh ta rất tỉnh táo, còn cảm ơn Ca Ca đã cứu mạng, muốn báo đáp cô nữa. Ca Ca thấy con tằm bằng ngọc thì rất thích, anh ta liền tặng luôn nó cho cô. Nhưng người này không hề nói chuyện mình ở đâu tới, đang đi đâu, tại sao lại thành ra nông nỗi ấy, Ca Ca hỏi đi hỏi lại mấy lượt, anh ta liền tỏ ra hết sức đau khổ, rồi sau đó chìm vào nỗi kinh hoàng, cứ không ngừng lẩm bẩm nhắc đi nhắc lại mấy câu “đến rồi” và “chết hết cả rồi”. Anh ta ở với Ca Ca một lúc lâu, tới khi mặt trời xuống núi mới đi. Ca Ca đưa hết đồ ăn mang theo mình cho anh ta, nhưng cũng không biết anh ta đã đi đâu.
Trương Lập nhớ lại tình cảnh lúc mình lần đầu tiên hỏi han Ba Tang, liền nói: “Xem ra, lúc gặp Ca Ca, anh ta vẫn còn trong giai đoạn phát bệnh cách quãng, nhưng lúc gặp chúng ta, người này đã hoàn toàn điên dại, mất hết cả lý trí rồi.”
Ca Ca nói: “À, đúng rồi, người đó còn bảo anh ta ngồi cổ oa đến, đó là thứ gì vậy?” Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đều biết, cổ oa là tiếng Tạng cổ, nghĩa là cái thuyền. Chỉ có điều, người trong thôn Công Bố này chủ yếu sống bằng nghề chăn nuôi, thỉnh thoảng mới bắt cá ven sông, xưa nay chưa từng có con thuyền nào ra thuyền cả, hơn nữa đoạn sông Nhã Lỗ Tạng Bố ở gần thôn của họ này cũng không thể nào đi thuyền được, vì vậy Ca Ca không biết cũng là chuyện bìnhthường.
Nhạc Dương giải thích: “Là một thứ có thể ngồi được, giống như xe bò xe ngựa ấy, nhưng mà đi ở trên mặt nước.”
Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm suy nghĩ: “Nếu người điên ở Mông Hà từ đây đi ra, Cánh cửa Địa ngục nhất định là ở đây, tuyệt đối không sai được nữa.” Gã lại đưa mắt nhìn theo hướng con tằm ngọc bị Ca Ca ném đi, nếu nói đó là thứ người điên ở Mông Hà mang bên mình, nói không chừng còn có giá trị nghiên cứu gì cũng nên. Nhưng phía trước là cả một bãi cỏ mênh mông, tìm ở đâu bây giờ?
Nhạc Dương nhìn ra được suy nghĩ của Trác Mộc Cường Ba, bèn nói: “Để tôi tìm lại con tằm bằng ngọc ấy cho.” Trác Mộc Cường Ba khẽ gật đầu đồng ý.
Pháp sư Á La cả quyết nói: “Đã vậy, giờ chúng ta hãy lập tức đi tìm các vị trưởng lão, hỏi thăm chuyện về Cánh cửa Địa ngục. Ca Ca, đừng quá thương tâm, Đa Cát là một chiến sĩ dũng cảm, cậu ấy đã hy sinh để bảo vệ Thánh sứ đại nhân, ắt sẽ được luân hồi vào thế giới Cực lạc. Cậu ấy giao lại vật định tình cô tặng cùng với vật tùy thân của mình, chứng tỏ rằng cậu ấy đã buông bỏ những lưu luyến với nhân thế rồi. Nhất định là cậu ấy đã được Đức Ma Hê Thủ La vạn năng triệu gọi, giờ đây linh hồn đã thăng vào cõi bất sinh bất diệt, nói không chừng có khi đang ở cõi xa xăm ấy chúc phúc cho cô và hạnh phúc tương lai của cô đó.”
Quả nhiên, những lời khuyên giải ấy của pháp sư Á La hết sức hiệu quả, Ca Ca đã nín khóc, nhìn chằm chằm vào Thiên châu Đa Cát để lại, cuối cùng cũng kiên định gật gật đầu, nói: “Ưm, tôi biết rồi, đi thôi, tôi sẽ dẫn mọi người đi gặp các vị trưởng lão.”
Điều làm bọn Trác Mộc Cường Ba cảm thấy bất ngờ là, dường như các trưởng lão thôn Công Bố sớm đã biết mấy người bọn họ sẽ đến, phòng ốc, đồ ăn, người phục vụ đều đã được sắp xếp đâu ra đó, dân trong thôn đã dựng chảo đá lên nướng chuột núi, thịt chảy mỡ reo xèo xèo, mùi hương khen khét xộc vào mũi mọi người.
Ở đây không có đường quốc lộ, cũng không có điện thoại, Trác Mộc Cường Ba thật không sao hiểu nổi, tại sao các vị trưởng lão trong thôn lại biết bọn gã sẽ đến.
Trưởng lão Đơn Ba nói: “Về Cánh cửa Địa ngục, dựa theo các ghi chép cổ xưa nhất của chúng tôi, ngôi làng này được dựng lên chính là để bảo vệ cánh cửa ấy. Cánh cửa Sinh mệnh thì sau này mới được xây dựng lên theo ý chỉ của một vị Thánh sứ, vì đã trải qua vô số năm, ý nghĩa thực sự của việc bảo vệ và xây dựng ban đầu đã hoàn toàn bị quên lãng. Còn sứ mệnh của chúng tôi, chỉ là bảo vệ vùng đất này, đợi chờ một vị Thánh sứ khác đến. Hơn nghìn năm nay, theo các ghi chép trong thôn, tổng cộng đã có ba mươi sáu vị Thánh sứ lần lượt đến đây, nhưng chỉ có mười vị thực sự đến được Cánh cửa Sinh mệnh, từ trong đó sống sót trở ra, e chỉ có hai người. Đó là ngài, và vị Thánh sứ đến trước ngài chỉ mấyngày. Còn người hỏi chúng tôi về Cánh cửa Địa ngục chỉ có mình ngài mà thôi. Trưởng lão Cách Liệt là người nắm các văn thư của thôn làng, ông ấy sẽ gắng hết sức mình, nói cho các vị biết mọi điều về Cánh cửa Địa ngục.”
Trưởng lão Cách Liệt nhướng mày, khẽ hắng giọng nói: “Cánh cửa Địa ngục mà Thánh sứ đại nhân từng đến ấy, đích thực là nơi chúng tôi bảo vệ, chỉ có điều lối vào ở đâu thì thực sự không một ai trong chúng tôi biết được cả. Theo các ghi chép cổ, nơi đó từng là chỗ giao giới của địa ngục và thế giới của chúng ta, vô số ác ma, xác chết, máu tanh đều từ nơi ấy chảy tràn ra thế gian này. Bọn chúng mang theo bệnh dịch, chém giết và máu tanh, khiến người dân Tạng thời kỳ viễn cổ phải chịu đựng bóng đêm và nỗi sợ hãi, bị bệnh tật giày vò trong đau đớn, chết trong những cuộc chém giết vô nghĩa lý. Nhưng họ lại không thể tìm được nguyên nhân, chỉ có thể đời đời nối nhau gánh chịu nỗi khổ mà sống trong gian lao vất vả. Các vị thần minh tiên hiền thuở trước, vì muốn đem lại ánh sáng, chôn vùi bóng đêm, nên đã tìm ra lối vào địa ngục, bắt đầu lần mò tìm đường ra trong dòng U Minh tối tăm vô biên vô tận. Họ phiêu dạt trên dòng sông đen tối ấy mấy nghìn, mấy vạn năm, vô số bậc tiên hiền đã phải trả giá bằng cả tính mạng mình. Nhưng vì để con cháu đời sau được sống bình yên, các vị dũng sĩ vẫn không ngớt nối nhau lên đường…”
Trương Lập đã không sao ngồi yên nổi nữa, đây chẳng phải giống hệt như Ninh Mã cổ kinh mà Trác Mộc Cường Ba đã từng nhắc đến hay sao, anh nhấp nhổm nói: “Cường Ba thiếu gia…”
Trác Mộc Cường Ba ra hiệu cho Trương Lập đừng ngắt lời. Chỉ nghe trưởng lão Cách Liệt tiếp tục nói: “Hậu nhân sau này để cảm tạ và tưởng niệm những dũng sĩ đã cam tâm tình nguyện dùng mạng sống của mình đổi lấy tự do và hạnh phúc của muôn người, đã dựng lên một tượng thần thông thiên triệt địa ở nơi các vị dũng sĩ xuất phát, trấn áp tất cả tà ma bên dưới tượng thần, từ đó Tây Tạng mới được yên bình.”
“Đợi chút đã,” Trác Mộc Cường Ba cũng không kìm được, lên tiếng ngắt lời: “Không phải Cánh cửa Địa ngục ở gần thôn làng này hay sao? Vậy thì nơi các vị dũng sĩ xuất phát cũng là lối vào của Cánh cửa Địa ngục, đồng thời cũng là nơi xây tượng thần khổng lồ ở di chỉ của vương triều Tượng Hùng ư? Hai nơi này sao lại cách nhau xa đến vậy?”
Trưởng lão Cách Liệt mỉm cười nói: “Đây đều là nội dung ghi chép trong các sách cổ, kỳ thực chúng tôi đều chưa hề thấy qua tượng thần thông thiên triệt địa gì, cũng chưa từng đặt chân ra khỏi thôn làng này bao giờ. Tuy chúng tôi biết đến vương triều Tượng Hùng mà Thánh sứ đại nhân nhắc tới, nhưng chưa ai đi đến đó cả. Đương nhiên, chuyện về Cánh cửa Địa ngục này cũng không khó giải thích lắm. Người xưa nói các vị dũng sĩ tìm được lối vào địa ngục, nhưng đâu nói địa ngục chỉ có một lối vào duy nhất đâu? Địa ngục, vốn bao gồm tám địa ngục lớn, mỗi địa ngục lớn lại có bốn cánh cửa, trong cánh cửa ấy lại có bốn địa ngục nhỏ, mỗi địa ngục lớn có mười sáu địa ngục nhỏ, cộng thêm bản thân tám địa ngục lớn, tổng cộng là có một trăm ba mươi sáu địa ngục, về sau lại chia tám địa ngục lớn ra làm tám nhiệt địa ngục và tám hàn địa ngục, thêm các địa ngục nhỏ, tổng cộng thành ra hai trăm bảy mươi hai địa ngục, về sau nữa lại thêm cả địa ngục Cô độc. Ngoài ra còn có sách chép rằng, các địa ngục thuộc A Tỳ Vô Gian Địa ngục bao gồm mười tám hàn địa ngục, mười tám nhiệt địa ngục, mười tám đao luân địa ngục, mười tám kiếm luân địa ngục, thực là nhiều không đếm xuể, bởi vậy, các lối vào địa ngục tự nhiên cũng rất nhiều. Nơi dân làng Công Bố chúng tôi đời đời bảo vệ, chính là một trong các lối vàoấy, chỉ có vậy mà thôi.”
Vừa nghe thấy lời giải thích này, Trác Mộc Cường Ba lập tức nhớ đến tấm bản đồ có vô số lối vào lối ra kia, gã thật chỉ muốn vỗ trán mà mắng mình mấy câu ngu xuẩn, một đạo lý đơn giản như vậy mà nghĩ mãi cũng không ra. Đồng thời, gã cũng lại nghĩ: cũng có thể nói, Ba Tang, Đường Thọ và người điên kia, rất có khả năng đã từ cùng một nơi chạy ra, chỉ là theo những con đường khác nhau mà thôi. Ba Tang và Đường Thọ vượt núi, còn người điên bộ tộc Qua Ba lại ngồi thuyền. Nghĩ tới đây, gã đứng dậy nói: “Vậy thì, chúng tôi sẽ tự đi tìm lối vào Cánh cửa Địa ngục, nếu ba vị trưởng lão thấy rằng còn điều gì có thể cho chúng tôi biết nữa, xin cố gắng nói hết, chúng tôi thực sự rất cần đến sự giúp đỡ của cácvị.”
Trưởng lão Đạt Kiệt nói: “Điều này là dĩ nhiên, bao đời chúng tôi canh giữ nơi này chính là để đợi Thánh sứ đại nhân đến đây, chúng tôi biết gì, tất nhiên sẽ nói hết với Thánh sứ đại nhân.”Trác Mộc Cường Ba bỗng hỏi: “Vậy thì, có thể hỏi lại một lần nữa, tại sao tôi lại là Thánh sứ của các vị được không?”Lối vào
@by txiuqw4