Trác Mộc Cường Ba ném một đầu dây thừng lên, không buồn nhìn lại, lập tức vung mạnh đầu kia ra, quấn mấy vòng thắt nút ở đoạn thô và lớn nhất của khung thuyền, kế đó lại quấn phần còn lại vào hông mình, hai chân đạp mạnh xuống khung thuyền, thực hiện nốt bước chuẩn bị cuối cùng. Ở phía trên, Trương Lập cũng lặp lại những việc y như vậy, anh quăng dây thừng về phía trụ đá, lợi dụng trọng lực của chiếc khóa móc ở đầu dây quấn quanh cột hai vòng, phần còn lại cũng quấn vào eo hông. Mới quấn được một vòng, liền phát hiện ra thuyền rắn của họ đã bị con sóng trắng toát kia cuốn đi, anh vội vàng nắm chặt đầu mẩu dây thừng, người dựa nghiêng nghiêng vào cái hốc nhỏ chỉ vừa đủ chỗ cho một người népvào, hai chân dồn hết sức đạp vào cây cột đá.
Lại một lần nữa, sợi dây thừng xiết vào khung thuyền kêu “ken két”, lại một lần nữa con thuyền bị con sóng nuốt chửng trong khoảnh khắc, rồi lại vùng vẫy nghếch mũi lên giữa dòng nước dữ. Trác Mộc Cường Ba hất mạnh đầu cho văng đi những hạt nước chắn trước mắt mình, ngẩng cao đầu lên. Ở phía trước gã, Nhạc Dương cũng đã nhô đầu lên. Hai người đưa mắt nhìn nhau, trên gương mặt đều lộ ra một nụ cười hiểu ý... Vẫn còn sống, điều này quan trọng hơn tất cả mọi thứkhác.
Kế đó, Trương Lập buộc chặt dây thừng vào cột đá, rồi nhảy trở lại thuyền, người vừa hạ xuống liền ngã vật ra, không nhúc nhích nổi nữa. Tới lúc này, anh mới cảm thấy xương cốt trong mình như thể đều vụn ra, toàn thân rã rời lỏng lẻo. Trong số những người không cầm cự được còn có cả Trác Mộc Cường Ba, Chư Nghiêm, đội trưởng Hồ Dương, Sean... gắng gượng lấy tấm thân đầy thương tích ra dốc sức chèo thuyền. Rốt cuộc đã tìm được một nơi tương đối an toàn, thần kinh đang căng thẳng chùng xuống, lập tức họ không sao giữ được thân thể nữa, đều lần lượt ngã xuống, hoặc khá hơn thì cũng phải dựa vào mạn thuyền thở dốc.
Đoạn đường sông hiểm trở và dòng nước xiết dữ dội đã khiến những người trên thuyền bị thương tổn nặng nề, không chỉ Lê Định Minh qua đời, Trương Kiện trọng thương, cả Mạnh Hạo Nhiên và Vương Hựu cũng cực kỳ hư nhược. Lúc thuyền bị xoay vòng vòng ở vùng nước xoáy, Triệu Trang Sinh cũng nôn mửa rất ghê, khi vào đến đoạn sông bình ổn, tay chân anh mềm nhũn ra, về sau toàn bộ đều dựa vào một chút nghị lực để gắng gượng chèo thuyền. Hiểm cảnh vừa qua, anh cũng liền gục xuống vì hạ đường huyết, có điều cũng may là Triệu Trang Sinh còn trẻ, hồi phục nhanh hơn Mạnh Hạo Nhiên và Vương Hựu nhiều.
Tuy Mạnh Hạo Nhiên và Vương Hựu đã hồi phục được phần nào, nhưng cả hai đều xuất hiện một vấn đề nghiêm trọng, đó là không thể ăn được thứ gì, cứ hễ ăn vào là liền nôn ọe ra lập tức, đến cả uống chút nước đường cũng nôn ra bằng sạch. Đường Mẫn đã thử tất cả mọi cách, nhưng vẫn không thể giải quyết được vấn đề này, pháp sư Tháp Tây cũng đành bó tay. Ông nói, đây là chứng tai biến não do xoay trònvới vận tốc quá lớn, xử lý đơn giản không thể trị nổi. Vậy là đành phải tiêm thuốc duy trì sự sống cho hai người họ, nhưng số lượng thuốc này cũng không có nhiều lắm, cần phải sử dụng một cách có kế hoạch, đồng thời phối hợp với liệu pháp ngủ đông, giảm bớt sự tiêu hao do trao đổi chất của haingười.
Sau khi nghỉ ngơi một lúc lâu, cuối cùng mọi người cũng dần dần hồi phục thể lực. Kiểm điểm lại các thứ còn sót lại, ba lô của Chư Nghiêm, Lý Hồng, Triệu Trang Sinh và Lê Định Minh đã bị văng đi mất. Trong ba lô của bốn người cũng không có thiết bị gì quan trọng, chỉ chủ yếu là thức ăn, quần áo, lều bạt..., nhưng như vậy cũng khiến lượng thức ăn dự trữ vốn đủ dùng trong một tuần giờ chỉ đủ cho babốn ngày nữa, đèn pha dự trữ cũng chỉ còn lại có ba chiếc, quan trọng hơn cả là đại đa số người trên thuyền đều đã thành thương bệnh binh. Tuy mỗi người đều có một túi cấp cứu, nhưng cũng chỉ có thể xử lý những thứ đơn giản như cầm máu, giảm đau, khử trùng..., còn những chỗ tổn thương xương khớp hay mô mềm, thì chỉ còn cách cố chịu đựng, đợi vết thương tự lành.
Nhạc Dương giở đi giở lại tìm kiếm trên bản đồ, đối chiếu với cái rãnh trên vách đá, nhưng trước sau vẫn chưa thể xác định được. Nhìn hai mắt Nhạc Dương đã vằn lên đầy tia máu li ti, Trác Mộc Cường Ba hơi có chút không đành lòng, gã nói: “Không tìm thấy à? Không thấy thì thôi vậy.”
Hai tay Lê Định Minh giao nhau đặt trước ngực, vẻ mặt khoan thai điềm tĩnh, chỉ có đôi mắt là đang nửa khép nửa mở, đội trưởng Hồ Dương đã vuốt mấy lần mà không khiến nó khép hẳn lại được, như thể người đã khuất vẫn muốn he hé để quan sát thứ gì đó vậy. Trương Lập đặt ngọn đèn gắn trên đầu Lê Định Minh vào tay anh, Ba Tang và Nghiêm Dũng một người khiêng đầu, một người khiêng chân, cẩn thận đặt anh xuống làn nước. Tất cả đều lặng lẽ nhìn chăm chú khi thân thể Lê Định Minh từ từ chìm xuống nước. Đồng thời, dòng nước chảy cũng đưa thi thể trôi về hạ du, ngọn đèn trên tay Lê Định Minh phát ra những tia sáng loang loáng màu trắng sữa trong làn nước, trông như con đom đóm lập lòe, cô đơn lẻ loibay trong bóng tối. Nó vẫn gắng sức tiến lên phía trước, hy vọng có thể chỉ đường dẫn hướng cho những người đang đi trong bóng tối, nhưng cuối cùng ánh sáng ấy cũng nhạt dần, rồi biến mất khỏi tầm mắt của cả bọn Trác Mộc Cường Ba.
Tiễn Lê Định Minh đi rồi, trong lòng mọi người đều bao phủ một lớp sương mù u ám bất an. Lúc xuất phát có mười tám người, giờ đây đã mất đi hai, hai người đang nằm vật ra đó, còn ngày mai thì sao? Ngày mai liệu còn mấy người có thể kiên trì được? Đây là con đường không có lối về dẫn thẳng tới địa ngục. Tuy mỗi người trong đoàn đều đã ôm quyết tâm hy sinh, không oán trách cũng không hối hận, nhưng người đang sống bao giờ chẳng mặc niệm những người đã khuất. Đó nào phải đơn giản chỉ là chuyện mất đi một tính mạng thôi đâu.
Nhạc Dương lại bắt đầu xem bản đồ, đồng thời nhờ cả pháp sư Á La cùng nghiên cứu với mình, thảo luận một hồi lâu mà vẫn chưa ra được kết quả gì. Số thức ăn còn lại đã quyết định bọn họ cần phải tiếp tục lên đường, sau đợt sóng đáng sợ thứ hai, con thuyền hình rắn lại khởi hành.
“Chúng ta có la bàn xác định phương hướng, chỉ cần thuận theo dòng nước, không có bản đồ cũng vẫn đến được Shangri-la thôi.” Trương Lập an ủi mọi người.
Nhạc Dương cười khổ nói: “Không thể xác định vị trí trên bản đồ, có nghĩa là chúng ta không thể biết được đoạn sông phía trước nguy hiểm tới mức nào, cũng không biết con sóng khủng khiếp kia sẽ ập đến lúc nào, ở đâu có điểm mốc có thể dừng lại neo thuyền. Như vậy tức là tất cả đều chỉ có thể nghe theo số trời màthôi.”
Trương Lập biến sắc, khi con sóng cao ngập cả hang động ấy ập đến mà không tìm được chỗ buộc thuyền, đó không phải là điều bọn họ có thể vượt qua được. Trác Mộc Cường Ba nói: “Nếu chúng ta đi qua mấy chỗ rẽ nhánh nữa, cậu có thể xác định được vị trí haykhông?”Nhạc Dương lắc đầu nói: “Nếu là ở ngoài mép bản đồ, tôi còn có thể lần lượt dùng phương pháp loại trừ, nhưng lúc này chúng ta đã tiến vào vị trí giữa bản đồ rồi, những chỗ rẽ nhánh vẽ trên đây gần như giống hệt nhau, mà những chỗ dừng thuyền ở khu vực này cũng không có gì đặc biệt, chỉ dựa vào những thông tin ấy thì tôi không thể biết được vị trí cụ thể của chúng ta lúc này đâu. Hiện giờ, điều duy nhất chúng ta nắm được chính là thời gian con sóng xuất hiện hình như tuân theo một quy luật, mỗi ngày con sóng sẽ xuất hiện sớm hơn ngày hôm trước chừng nửa tiếng đồng hồ, giữa hai lần cách nhau khoảng mười hai tiếng, về mặt thời gian là tương đối chính xác, một đợt sóng lớn, rồi một đợt sóng nhỏ. Chúng ta vừa qua một đợt sóng lớn rồi, chừng mười hai tiếng nữa sẽ còn một đợt sóng nhỏ nữa. Sau đó, dựa vào tốc độ của thuyền và quãng đường đã đi được, đại khái cũng có thể tính ra được thời gian đợt sóng tiếp theo sẽ xuất hiện.”
Nhạc Dương lắc đầu nói: “Anh nhìn bản đồ mà xem, người xưa hiển nhiên đã hiểu rất rõ uy lực của những con sóng này, vì vậy giữa mỗi đoạn sông, đều nhất định có một điểm dừng thuyền, tuy có đoạn dài đoạn ngắn, nhưng chỉ cần chúng ta nắm được thời gian sóng lớn ập đến, thì sẽ có thể quyết định được nên tiến lên hay dừng lại chờ đợi ở giữa hai điểm dừng thuyền, tóm lại là ít nhất cũng còn đỡ hơn không biết gì.”
Chư Nghiêm cất tiếng thúc giục: “Chèo thuyền đi thôi, mau mau ra khỏi dòng sông ngầm này cho sớm tôi mới thấy dễ chịu hơn một chút, dưới này tối quá, làm tôi chẳng thở nổi nữa rồi.” Con thuyền hình rắn của họ lại bắt đầu tiến về phía trước, mới đầu còn chầm chậm rồi mỗi lúc một nhanh.
Lhasa. Giáo sư Phương Tân đã thức trắng một đêm không ngủ để tra tìm tài liệu. Muh, đại lục Shamuh, thần Nadimuke, nhất định là ông đã thấy ở đâu đó rồi, nhất định. Ông gần như đã lật tìm tất cả các kinh văn của dân tộc Tạng, những tài liệu ông đã đọc đi đọc lại, tra tìm vô số lần ấy, rốt cuộc là nó được ghichép ở đâu nhỉ? Cuối cùng, ông cũng tìm được một câu thế này, “Ta nhắm mắt lại, dường như đã nhìn thấy, khi sao Ba Nhĩ rơi xuống nơi ngày nay đã trở thành vùng ranh giới giữa trời và nước, bảy tòa thành lớn cùng với những đền đài lầu các rực rỡ và những ngôi chùa lớn như kim tự tháp cùng ầm ầm rungchuyển. Chỉ nháy mắt, lưỡi lửa đã bùng lên trong cung điện cùng với khói đen mù mịt cuồn cuộn. Khi đó, khắp nơi vang lên tiếng rên rỉ của những kẻ sắp tắt thở cùng tiếng gào thét của chúng nhân. Đám đàn ông gồng gánh của cải và đám đàn bà mặc những bộ quần áo đắt tiền nhất kêu gào trong tuyệt vọng: „Muh, xin hãy cứu chúng tôi.‟” Phía sau đoạn văn ấy còn chú rằng, ở gần biển Caribe và vịnh Mexico ngày nay, e rằng đã có một đại lục rất lớn bị chìm xuống đáy biển sâu. Giáo sư Phương Tân tắt cửa sổ có đoạn văn đó trên máy tính đi, đằng sau cửa sổ đó liền hiện ra một cửa sổ khác, bên trên có năm chữ lớn tô nhũ vàng: “Thiên Luân kinh sơ chú”.
“Không thể nào!” Giáo sư Phương Tân lắc mạnh đầu, toan xua đi cơn buồn ngủ, nhưng ông lại không thể không chăm chú nhìn lại vào cuốn kinh văn làm bằng vỏ cây hoa, chữ thiếp nhũ vàng được scan lại trên màn hình máy tính. Bỗng có điện thoại gọi tới, giáo sư Phương Tân bèn tạm ngưng suy nghĩ, đẩy xelăn đến bên cạnh chiếc điện thoại di động, ấn nút bắt máy.
“Anh Phương, chuyện mà anh nhờ tôi điều tra đó, đã có đầu mối rồi. Đúng là có người tên là Hahn đó. Ông ta là chuyên gia nghiên cứu năng lượng nguyên tử của Đức, sau Thế chiến II đã bị quân Mỹ cướp về, hình như từ đó trở đi vẫn bí mật đảm nhận một chức vụ quan trọng trong cơ quan nghiên cứu năng lượng nguyên tử của Mỹ, sau đó còn xuất bản một quyển hồi ký nữa, chủ yếu đều viết về quãng thời gian nghiên cứu phát triển đầu đạn hạt nhân của ông ta trong thời kỳ Thế chiến II.”
Giáo sư Phương Tân nói: “Còn có cả hồi ký nữa cơ à? Ở đâu thế? Trên mạng có tìm được không? À, thế này nhé, anh giúp tôi quét vào máy tính được không, nhớ giữ hình ảnh độ nét cao nhé, gửi cho tôi ngay lập tức được không.”
Giáo sư Phương Tân ngủ một giấc tỉnh dậy, trong điện thoại di động có tin nhắn, người bạn kia của ông đã quét hết những tài liệu tìm được về Hahn vào máy tính và gửi qua. Ông không kịp đi đánh răng rửa mặt, đã vội vội vàng vàng bật máy tính lên, cẩn thận xem từng trang tài liệu của người bạn gửi cho, đa phần nội dung đều là hồi ký của Hahn, bao gồm cả việc xây dựng phòng thí nghiệm, chức vụ ông ta đảm nhiệm, khi ấy có những người nào tham gia, tiến trình công tác và nỗi nhớ người thân. Nhưng ngoài ra, trong số các tài liệu đó còn một phần có nội dung hết sức kỳ lạ. Nói kỳ lạ, là bởi chính bản thân Hahn cũng không biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, ông ta chỉ đưa ra nghi vấn mà không có lời giải đáp. Trong hồi ký, Hahn viết: “Ngày 25 tháng Mười một năm 1942, nghiên cứu của chúng tôi đã đạt được những thành quả tương đối. Nhưng lúc này quân địch đã tìm hiểu được một phần kế hoạch chúng tôi đang tiến hành, bọn chúng bắt đầu thực hiện kế hoạch phá hoại ở Tiệp Khắc, nguồn cung ứng nước nặng đã hoàn toàn bị phá hoại. Chúng tôi rất cần có nhiều nước nặng hơn nữa... Chúng tôi đã ba lần gửi báo cáo lên trên. Chúng tôi chỉ cần có thêm... một chút, dù chỉ là một chút... nước nặng, là sẽ có thể hoàn thành thực nghiệm lò phản ứng hạt nhân. Tôi nghĩ, hẳn Quốc trưởng cũng tương đối hiểu rõ uy lực và tính khả thi của vũ khí mà chúng tôi sắp chế tạo thành công. Vũ khí mới sẽ có tác dụng mang tính quyết định đối với cuộc chiến tranh này. Thế nhưng, tại sao yêu cầu nhỏ ấy của chúng tôi mãi vẫn không nhận được hồi đáp? Dù chỉ là tăng cường bảo vệ cho nguồn cung cấp nước nặng, hay bảo vệ tốt hơn các tuyến đường vận chuyển, chúng tôi cũng chắc chắn sẽ có thể thử nghiệm thành công phản ứng phân hạch hạt nhân trong thời gian ngắn nhất. Tiếp theo đó, chỉ cần tiến hành sản xuất trên quy mô lớn là được. Thế nhưng, lời phúc đáp chúng tôi nhận được từ Quốc trưởng lại là, không cần phải vội, thắng lợi sẽ thuộc về chúng ta... Tôi lại đề đạt yêu cầu lên Quốc trưởng lần nữa, lần này lời đáp củaông ta là, „Không cần vội vã, chúng ta có cách khác hay hơn...‟ Rốt cuộc là cách gì có thể xoay chuyển cục diện của cả cuộc chiến hiệu quả hơn thứ vũ khí có uy lực khủng khiếp này chứ? Tôi thật không thể nghĩ ra...”
Nhìn chằm chằm các tài liệu trên màn hình máy tính hồi lâu, giáo sư Phương Tân chìm vào trầm tư. Trong Thế chiến II, rất nhiều loại vũ khí của quân Đức ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật hàng đầu thời bấy giờ, kể cả công nghệ hạt nhân. Từ năm 1938, quân Đức đã bắt đầu nghiên cứu về vũ khí hạt nhân, đến năm 1940, sau khi Đức Quốc xã chiếm đóng Nauy, tăng gấp đôi số lượng hồ điện phân của nhà máy điện khí Nauy, sản lượng nước nặng hàng năm tăng từ 3.000 pounds lên đến 10.000 pounds. Còn khi ấy, nghiên cứu về năng lượng hạt nhân của các nước Anh Mỹ vẫn đang trong giai đoạn khởi đầu, không có nhiều tiến triển, thậm chí vẫn còn chưa thể giải quyết được kỹ thuật chưng cất nước nặng. Mùaxuân năm 1942, Werner Heisenberg đã tiến hành thực nghiệm bắn phá hạt nhân đầu tiên được ghi lại trên thế giới ở Leipzig. Lò phản ứng hạt nhân thử nghiệm đầu tiên trên thế giới cũng là do người Đức xây dựng. Sau này, bom nguyên tử của Mỹ và Liên Xô thành công như thế nào ai ai cũng biết. Trong thành công đó, những đợt nổ thử nghiệm bom hạt nhân của các nhà khoa học Đức đóng vai trò tương đối quan trọng. Chính nước Mỹ cũng từng kiêu ngạo tuyên bố rằng, tìm được một Werner Heisenberg còn có tácdụng hơn đánh bại sáu sư đoàn của quân Đức. Cơ hồ như trước khi quân Đức chiến bại đầu hàng, bọn họ đã hoàn toàn nắm được kỹ thuật nghiên cứu và khai thác bom nguyên tử. Nhưng vấn đề cũng chính là ở đây, nước Đức dường như tuyệt đối không coi trọng việc nghiên cứu phát triển vũ khí hạt nhân, mà sự không coi trọng này phát xuất từ tầng lớp lãnh đạo cấp cao. Giờ đây, có đủ các giả thiết suy đoán, chân tướng sự việc như thế nào e rằng chỉ có Mỹ và Liên Xô là biết được. Nhưng sau Thế chiến II hai cường quốc này lập tức chĩa vũ khí vào nhau, quan hệ một độ đã căng thẳng tới mức khiến người ta nghẹt thở. Dường như cả hai cường quốc này đều không có ý định công bố những thông tin mình có được từ nước Đức, mà ngược lại còn có ý che giấu kỹ hơn.
Nhất thời, hóa thạch khổng lồ trong địa cung Maya, Thiên Luân kinh sơ chú, hồi ký của Hahn, bức tranh người và thằn lằn khổng lồ trong Đảo Huyền Không tự mà Trác Mộc Cường Ba nhắc tới, thần miếu, lời nguyền của người Maya và thôn Công bố, tất cả những thông tin ấy dânglên trong trí óc giáo sư Phương Tân, như thể các đầu mối này đã được thứ gì đó kết nối với nhau. Giáo sư mệt mỏi dựa người trên ghế xe lăn, lẩm bẩm: “Rốt cuộc chúng ta đang tìm kiếm gì vậy? CườngBa...”
“Con đang xem gì đấy? Cường Ba?” Đức Nhân lão gia đẩy cửa bước vào. “Dạ.” cậu bé Trác Mộc Cường Ba đứng lên, hai tay bứt rứt xoắn vặn vào nhau. “À, lại đọc bộ sách của cô Đồn Châu mang từ Thành Đô về cho con à?” “Vâng.”
“Mười vạn câu hỏi vì sao.” Cậu bé Trác Mộc Cường Ba chớp chớp mắt đáp. “Tại sao vậy?”
“Ừm, vậy ta hỏi con nhé, tận cùng của thế giới này ở đâu nhỉ?” “Thế giới này không có tận cùng, trái đất của chúng ta hình cầu, từ đầu này khởi hành, đi một vòng sẽ trở lại được chỗcũ.”
“Là vũ trụ, vũ trụ to lớn lắm, ngoài vũ trụ có rất nhiều tinh vân, hệ Ngân hà của chúng ta chính làmột đám tinh vân trong đó, hệ Mặt trời lại là một phần nhỏ trong hệ Ngân hà, có chín hành tinh xoay chung quanh ông mặt trời, chúng giống như là chín anh em vậy, trái đất của chúng ta là anh ba.”
Đức Nhân lão gia trầm mặc giây lát. Rõ ràng ông cũng không ngờ Trác Mộc Cường Ba lại biết kỹ đến thế. Ông thoáng ngần ngừ trong giây lát, cuối cùng lại hỏi: “Vậy thì vũ trụ rộng lớn nhường nào? Nó có giới hạn hay không?”
Thoắt cái đã ba mươi năm trôi qua, lại trở về căn phòng nơi Trác Mộc Cường Ba đã đối thoại với cha gã, các thứ bài trí trong nhà, đồ đạc bàn ghế giường tủ đều vẫn y nguyên, duy chỉ có con người là đã thay đổi. Cha gã đã già, cậu bé Trác Mộc Cường Ba ngày nào đã trở thành một người trưởng thành cường tráng, thời gian làm đổi thay tất thảy, nhưng đổi thay nhiều nhất, nhanh nhất, vẫn là conngười.
“Thưa cha, cha vẫn còn nhớ câu hỏi ba mươi năm trước chứ ạ?”“Ừm, câu hỏi gì vậy?”
“Cha hỏi con, vũ trụ rộng lớn như thế nào, giờ con có thể trả lời cha, vũ trụ bùng phát ra từ một điểm đơn lẻ, nó cũng giống như địa cầu vậy, không ngừng mở rộng ra bên ngoài theo hình cầu tròn. Đến nay, đường biên mà con người có thể đo được là 14,4 tỷ năm ánh sáng, đây chính là vũ trụ của chúng ta. Khi đạt tới điểm tới hạn, vũ trụ sẽ bắt đầu thu hẹp lại, cuối cùng sẽ trở về trạng thái ban đầu là một điểm đơn nhất, rồi sẽ bùng nổ lần thứ hai.” Nói đoạn, Trác Mộc Cường Ba ngước nhìn người cha già bằng ánh mắt hết sức kính trọng. Tuy ông già dáng dấp hơi mập mạp một chút này là bậc đại trígiả, nhưng những tri thức ấy, một người già lão chỉ sống ở Tây Tạng tuyệt đối không có cách nào tiếp xúc được. Gã nghĩ, chắc cha mình phải hiểu rằng thế giới trong kinh Phật và thế giới bên ngoài có sự khác biệt rất lớn.
Không ngờ, Đức Nhân lão gia chẳng hề nghĩ ngợi gì, đã hỏi tiếp một câu khác luôn: “Nếu nói, vũ trụ là một hình cầu không ngừng mở rộng ra bên ngoài, vậy thì... bên ngoài nó là gì? Nếu nói nó chỉ là một điểm đơn nhất, vậy thì, bên ngoài điểm đơn nhất ấy thì sao? Là thứ gì?”
@by txiuqw4