sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Người Dublin - Chương 13 - Phần 3

Anh ta cũng đưa ly rượu lên uống.

Mà các cậu biết đấy - Mr M'Coy nói - khi nghĩ về chụp ảnh, chẳng lẽ nó không tuyệt vời sao?

- Ừ, tất nhiên rồi - Mr Power nói - Những trí tuệ vĩ đại luôn nhìn thấy mọi thứ.

- Như thi sĩ nói, Trí óc vĩ đại rất gàn với sự điên dại[21] - Mr Fogarty nói.

[21] Nguyên văn là “Great minds are very near to madness”, trích dẫn từ câu “Great wits are sure to madness near allied” (trí tuệ lớn thường đi đôi với điên rồ) trong bài thơ châm biếm Absalom and Achitophe của nhà soạn kịch người Anh John Dryden (1631-1700).

Mr Kernan có vẻ đang vướng bận điều gì. Anh ta cố gắng nhớ lại mấy điểm gai góc trong Thần học Tin lành và cuối cùng hỏi Mr Cunningham.

- Nói cho tớ biết, Martin - anh ta nói - Chẳng phải đã có một số Giáo hoàng - tất nhiên, không phải là người hiện giờ, hay người tiền nhiệm, nhưng một số Giáo hoàng trước kia, thế nào nhỉ… cậu biết đấy... không được hoàn hảo lắm, phải không?

Im lặng một lúc, rồi Mr Cunningham nói:

- Phải, tất nhiên, cũng có những ông hư đốn... Nhưng điều đáng kinh ngạc chính là ở chỗ đó. Không một ai trong số họ, dù là gã nghiện rượu nặng nhất, dù là tên vô lại nhất, không một ai trong số họ từng giáo huấn thượng tòa dù hỉ một từ giáo lý sai trái nào. Nào, giờ có đúng là một chuyện đánh kinh ngạc không?

- Đúng vậy - Mr Kernan nói.

- Phải, bởi một khi Giáo hoàng công bố một tín điều - Mr Fogarty giải thích - ông ta phải bất khả ngộ.

- Phải - Mr Cunningham nói.

- Ừ, tớ biết về tính bất khả ngộ của Đức Giáo hoàng. Tớ nhớ hồi đó khi tớ còn trẻ... Có phải không ấy nhỉ?

Mr Fogarty cắt ngang. Anh ta nhấc chai rượu lên và rót cho những người khác thêm chút nữa. Mr M'Coy nhận thấy chỗ rượu còn lại không đủ cho tất cả, bèn nói anh ta chưa uống xong lượt trước. Những người khác phản đối chiếu lệ. Tiếng whisky róc rách rơi xuống ly làm nên một quãng nghỉ dễ chịu.

- Cậu đang nói gì ấy nhỉ, Tom? - Mr M'Coy hỏi.

- Tính bất khả ngộ của Giáo hoàng - Mr Cunningham nói - đó là chương vĩ đại nhất trong toàn bộ lịch sử Giáo hội.

- Sao lại thế, Martin? - Mr Power hỏi.

Mr Cunningham giơ hai ngón tay mập mạp lên

- Trong hồng y đoàn hôm đó, các cậu biết đấy, gồm hồng y, tổng giám mục và giam mục, có hai người đã ra phản đối nó trong khi tất cả những người khác đều ủng hộ. Toàn bộ cơ mật viện đều nhất trí, trừ hai vị này. Không! Họ nhất quyết không chịu!

- Ha! - Mr M'Coy thốt lên.

- Và họ là một hồng y người Đức tên là Dolling... hay Dowling... hay...

- Dowling không phải là người Đức, điều này thì chắc như đinh đóng cột - Mr Power nói, cười lớn.

- Ừ, vị hồng y người Đức vĩ đại đó, tên ông ta là gì cũng chẳng sao, là một, còn người kia là John MacHale[22].

- Ai cơ? - Mr Kernan kêu lên - Có phải là John xứ Tuam không?

- Lần này cậu có chắc không đấy? - Mr Fogarty ngờ vực. Tớ nghĩ phải là một người Ý hay Mỹ gì đó chứ?[23]

- John xứ Tuam. Mr Cunningham nhắc lại - Chính ông ấy.

[22] Trong thực tế đúng là có hai giám mục bỏ phiếu chống lại điều luật Bất khả ngộ, nhưng không phải là hai người mà Cunningham nhắc tên. Johann Dollinger (1799-1890) linh mục người Đức, tuy chống lại điều luật này, nhưng ông ta không phải là hồng y và cũng không có mặt tại Cộng đồng Vatican đó. Ngoài ra ông bị rút phép thông công chứ không phải ông tự ý rút khỏi Giáo hội. John MacHale (1791-1881) là Tổng giam mục xứ Tuam, Ireland, là một nhà đấu tranh Dân chủ, nhưng ông cũng không có mặt tại cuộc bỏ phiếu của Cộng đồng Vatican làn đó.

[23] Hai giám mục đã bỏ phiếu chống lại điều luật là Giám mục người Ý Abisio Riccio và Giám mục người Mỹ Edward Fitzgerald.

Anh ta uống rượu và những quý ông khác uống theo anh ta. Rồi anh ta tiếp tục:

- Và họ cứ như vậy, tất cả các hồng y và giám mục và tổng giám mục đến từ mọi ngóc ngách trái đất và hai kẻ phá đám chống đối này, cho đến khi cuối cùng Giáo hoàng phải thân chinh đứng dậy và tuyên bố tính bất khả ngộ sẽ trở thành giáo lý thượng tòa của Giáo hội. Đúng vào giây phút đó John MacHale, người vẫn kiên quyết tranh cãi chống lại nó, đứng dậy và gầm lên với giọng của một con sư tử: Credo![24]

[24] Tôi tin (tiếng Latin).

- Tôi tin! - Mr Fogartry nói.

- Credo! - Mr Cunningham nói - Điều đó thể hiện đức tin của ông ta. Ông ta đã nhượng bộ khi Giáo hoàng cất tiếng.

- Còn Dowling thì sao? - Mr M'Coy cất tiếng hỏi.

- Vị hồng y người Đức không chịu nhượng bộ. Ông ta rút khỏi Giáo hội.

Những lời nói của Mr Cunningham đã vẽ nên hình ảnh hoành tráng của Giáo hội trong tâm trí người nghe. Cái giọng trầm khàn bí hiểm của anh ta làm họ hồi hộp khi nó phát ra những từ về đức tin và sự phục tùng. Khi Mrs Kernan bước vào phòng, vừa đi vừa lau khô tay, chị ta thấy cả bọn họ đang nghiêm nghị. Chị ta không làm kinh động sự im lặng, mà đứng dựa vào thành chân giường.

- Tớ từng gặp John MacHale một lần - Mr Kernan nói - và chừng nào còn sống tớ sẽ không bao giờ quên.

Anh ta quay sang vợ mình để nhấn mạnh.

- Tôi vẫn nói với mình thế, phải không nào?

Mrs Kernan gật đầu.

- Đó là dịp khánh thành bức tượng Sir John Gray[25]. Edmund Dwyer Gray[26] đang thuyết giảng, huyên thuyên, và rồi ông già này, một ông già trông cáu bẳn, nhìn ông ta từ phía dưới đôi lông mày rậm rạp.

[25] Bức tượng trên phố Sackville (nay là O'Connell) dựng năm 1879 ghi nhớ Sir John Gray (1815-1875) chủ bút tờ Người tự do, ủy viên HỘi đông thành phố Duplin, đã có công xây dựng hệ thống cung cấp nước mới cho Dublin năm 1868. Ông còn là một nghị sĩ ủng hộ phong trào Dân tộc của Parnell.

[26] Edmund Dwyer Gray (1845-1888) con trai của Sir John Gray, tiếp nối cha làm chủ bút tờ Người tự do, ủng hộ phong trào Dân tộc và Parnelll. Ông là nghị sĩ và là ủy viên Hội đồng thành phố Dublin.

Mr Kernan nhíu hai mày, cúi thấp đầu xuống như một con bò đực đang nổi giận, nhìn đăm đăm vào vợ.

- Chúa ơi! - anh ta kêu lên, lấy lại nét mặt bình thường - Tớ chưa bao giờ nhìn thấy một đôi mắt như thế. Như thể nó muốn nói: Tôi đã nghe hết những gì ông nói rồi, anh bạn. Ông ta có một đôi mắt như diều hâu.

- Họ nhà Gray chẳng ai nên trò trống gì[27] - Mr Power nói.

[27] Dù Sir John Gray và Edmund Dwyer Gray đều là những người ủng hộ Parnell, đến đời thứ ba, Edmund John Chisholm Dwyer Gray (1870-1945) con trai của Edmung Dwyer Gray, đã từ bỏ truyền thống này.

Lại có một khoảng im lặng. Rồi Mr Power quay sang Mrs Kernan và nói với một giọng vui vẻ bất ngờ:

- Chị Kernan này, chúng tôi sắp biến ông chồng chị đây thành một tín đồ ngoan đạo, một người Công giáo La mã kính Chúa.

Anh ta khoát tay về phía hội bạn.

- Tất cả chúng tôi sẽ cùng tĩnh tâm và xưng tội và có Chúa chứng giám tất cả chúng tôi đều thực sự muốn làm.

- Tôi không ngại - vợ Kernan nói, mỉm cười hơi bối rối.

Mrs Kernan nghĩ có lẽ sẽ khôn ngoan hơn nếu che giấu sự hài lòng của chị ta. Nên chị ta nói:

- Tôi thương cho vị linh mục tội nghiệp nào phải lắng nghe những thiên chuyện của các anh

Mặt Mr Kernan hơi biến sắc.

- Nếu ông ta không thích chúng - anh ta nói một cách bất cần - ông ta có thể... làm cái khác. Tôi sẽ chỉ kể cho ông ta nghe mấy chuyện nho nhỏ, khiến tôi khổ sở thôi. Tôi không phải là một gã tệ đến nỗi...

Mr Cunningham can thiệp đúng lúc.

- Chúng ta, tất cả nguyện sẽ tránh xa quỷ Xa tăng - anh ta nói - Tránh xa mọi tội lỗi và cám dỗ của hắn.

- Bớ quỷ Xa tăng, hãy lui ra đàng sau ta[28] - Mr Fogarty, cười lớn và nhìn những người khác.

Mr Power không nói gì. Anh ta cảm thấy hoàn toàn lạc lõng. Nhưng một vẻ hài lòng thoáng hiện trên gương mặt anh.

[28] Sách Phúc âm Matthew, chương 16, câu 21-23 (Kinh Tân ước, nơi trang 18).

- Tất cả những gì chúng ta phải làm - Mr Cunningham nói - là đứng và cầm những ngọn nến cháy và hứa lại lời hứa rửa tội của chúng ta.

- Ấy, mà đừng có quên nến nhé, Tom - Mr M'Coy nói - dù cậu có làm gì.

- Sao? - Mr Kernan nói - Tớ bắt buộc phải có nến ư?

- Ừ, đúng thế - Mr Cunningham nói.

- Không, chết tiệt chứ - Mr Kernan nói một cách sáng suốt - tớ dừng ở đây. Tớ sẽ làm tốt chuyện kia. Tớ sẽ làm mấy vụ cầu nguyện và xưng tội, và... tất cả những vụ đó. Nhưng... không nến gì hết! Không, quỷ tha ma bắt tất cả đi, tớ cạch mặt cái lũ nến!

Anh ta lắc lắc đầu với một vẻ nghiêm trang hài hước.

- Nghe đấy nhé! - vợ anh ta nói.

- Tớ cạch mặt cái lũ nến - Mr Kernan nói, nhận ra tác động mình tạo ra cho khán giả của anh ta và tiếp tục lắc đầu quầy quậy - Tớ cạch mặt mấy cái vụ đèn lồng, nến niếc.

Tất cả cười lớn.

- Tín đồ Thiên Chúa giáo ngoan đạo cho các anh! - vợ anh ta nói.

- Không nến gì hết! - Mr Kernan bướng bỉnh nhắc lại - Chấm hết!

Gian ngang Nhà thờ Dòng Tên phía trên phố Gardiner đã gần hết chỗ, vậy mà mỗi lúc lại thấy các quý ông bước vào từ cửa bên và được thầy giúp việc chỉ dẫn, nhón gót dọc theo các lối đi giữa cho đến khi họ tìm được chỗ ngồi. Các quý ông đều ăn mặc lịch sự và gọn gàng. Ánh đèn trong nhà thờ tỏa xuống những bộ trang phục màu đen cổ cồn trắng, đây đó dịu đi trên chất vải len, trên những cây cột đá cẩm thạch màu lốm đốm và trên những bức sơn dầu buồn thảm. Các quý ông ngồi trên ghế băng, sau khi đã sửa nhẹ đầu gối quần và làm yên vị những chiếc mũ của họ. Họ ngồi thẳng lưng và nhìn trang trọng vào vầng sáng màu đỏ xa xa phía trước đang tỏa mờ mờ trước bàn thờ Chúa.

Ở một trong những hàng ghế gần bục giảng kinh là Mr Cunningham và Mr Kernan. Hàng phía sau là một mình Mr M'Coy, và ở hàng ghế sau anh ta là Mr Power và Mr Fogarty. Mr M'Coy đã cố gắng tìm một chỗ ngồi cùng hàng với bạn bè nhưng không được, và khi cả hội đã ngồi yên vị theo hình nanh sấu, anh ta lại cố gắng đưa ra một cách không thành công những lời nhận xét hài hước. Bởi những lời này không được đón nhận nhiệt tình cho lắm, anh ta đã thôi. Ngay cả anh ta cũng cảm nhận được không khí đứng đắn và ngay cả anh ta cũng bắt đầu hưởng ứng lại với sự kích thích tôn giáo này. Thầm thì, Mr Cunningham hướng sự chú ý của Mr Kernan vào Mr Harford, người cho vay nặng lãi, đang ngồi cách đấy một đoạn, và Mr Fanning, viên lục sự phụ trách bầu cử thị trưởng, đang ngồi ngay phía dưới bục giảng kinh bên cạnh đám hội viên hội đồng khu vực mới được bầu. Phía bên phải là ông già Michael Grimes, chủ ba tiệm cầm đồ và cháu trai của Dan Hogan, ứng cử viên chân thư ký trưởng Tòa Thị chính. Phía xa bên trên là Mr Hendrick, phóng viên gạo cội tờ Người tự do, và O'Carroll khốn khổ, một người bạn cũ của Mr Kernan, từng có thời là một nhân vật tài chính tầm cỡ. Dần dần, khi nhận ra những khuôn mặt quen, Mr Kernan bắt đầu cảm thấy tinh thần thoải mái hơn. Cái mũ của anh ta, đã được vợ chỉnh lại, yên vị trên đầu gối. Một hay hai lần anh ta một tay kéo măng sét tay kia cầm nhẹ vành mũ, nhẹ, nhưng chặt.

Một dáng người trông quyền uy, phần thân trên phủ trong cái áo lễ màu trắng lùng thùng, dang khó nhọc bước lên bục giảng. Ngay lập tức giáo đoàn chuyển động, rút khăn mùi soa trải xuống đất và cẩn thận quỳ lên. Mr Kernan làm theo những người khác. Hình dáng đức cha giờ đã thẳng tắp phủ kín hai phần ba bục, ngự bên trên đỉnh là một khuôn mặt to bè đỏ lựng, hiện ra phía sau hàng lan can.

Cha Purdon quỳ xuống, hướng về vệt ánh sáng đỏ và, lấy tay che mặt, bắt đầu cầu nguyện. Sau một quãng nghỉ, ông ta bỏ tay xuống và đứng lên. Giáo đoàn cùng đứng lên và ngồi xuống ghế. Mr Kernan đặt lại mũ lên đầu gối và thể hiện một vẻ mặt chăm chú hướng về người thuyết giáo. Người thuyết giáo vén lần lượt hai bên tay áo lễ rộng thùng thình với một cử chỉ chậm rãi và tỉ mỉ quan sát những hàng khuôn mặt phía trước. Rồi ông ta đọc:

“Vì con đời nầy trong việc thông công với người đồng đời mình thì khôn khéo hơn con sáng láng. Còn ta nói với các ngươi: Hãy dùng của bất nghĩa mà kết bạn, để khi của ấy hết đi, họ tiếp các ngươi vào nhà đời đời. ”[29]

[29] Đoạn này trong sách Phúc âm Luke, chương 16, câu 8-9 như sau” Vì con đời nầy trong việc thông công với người đồng đời mình thì khôn khéo hơn con sáng láng. Còn ta nói cho các ngươi: Hãy dùng của bất nghĩa mà kết bạn, để khi của ấy hết đi, họi tiếp các ngươi vào nhà đời đời” (Kinh Tân ước, sđ, trang 77)

Cha Purdon diễn giải đoạn kinh với một giọng vang rền tin tưởng. Đây là một trong những đoạn khó nhất trong Kinh thánh, ông ta nói, để có thể diễn giải một cách đúng đắn. Với những người theo dõi bình thường thì đoạn này dường như ít nhiều có vẻ trái ngược với đạo đức tối cao Jesus Christ từng giảng những chỗ khác. Nhưng, ông nói với những người nghe của mình, đối với ông đoạn này đặc biệt hợp để chuyển thành lời soi đường cho những người có số phận phải dẫn dắt cuộc sống của cõi đời này, tuy nhiên, lại chưa muốn dẫn dắt cuộc sống đó theo cách của người trần tục. Đó là một bài kinh cho các thương gia lớn. Jesus Christ, bằng trí tuệ thần diệu của Người thấu hiểu từng ngóc ngách bản chất con người chúng ta, hoàn toàn rằng không phải ai cũng được gọi đến với cuộc sống tôn giáo, rằng cho đến giờ phần lớn bị buộc phải sống trong cõi đời này, và, tới một mức nào đó, sống cho cõi đời này, và trong câu này Người chỉ bảo cho họ đôi lời, đưa ra cho họ mẫu những kẻ tôn thờ Mammon[30], những kẻ, so với người khác, ít quan tâm nhất đến những vấn đề tôn giáo.

Ông nói với những người nghe của mình rằng ông có mặt ở đây tối nay không phải vì một mục đích to tát hay quá mức gì, mà như một người bình dị trò chuyện với bạn hữu của mình. Ông đến đây để trò chuyện với các thương gia, và ông sẽ nói với họ theo phong cách thương gia. Nếu dùng phép ẩn dụ, ông nói, thì ông sẽ là viên kế toán tinh thần của họ, và ông muốn các thính giả của ông hãy mở những quyển số của họ ra, những cuốn sổ đời sống tinh thần của họ, và xem xem chúng có ăn khớp hoàn toàn với lương tâm hay khác.

[30] Trong kinh Tân ước, đây là thần đại diện cho của cải và lòng tham.

Jesus Christ không phải là một viên đốc công độc đoán. Người hoàn toàn những lỗi lầm nho nhỏ của chúng ta, hiểu những nhược điểm của bản chất yếu đuối khốn khổ của chúng ta, hiểu những cám dỗ của cõi đời này. Chúng ta có thể đã từng, tất cả chúng ta lúc này hay lúc khác đều đã phải đối mặt với cám dỗ chúng ta có thể từng có, chúng ta đều có, những lúc thất bại. Nhưng có một điều duy nhất, ông ta nói, ông sẽ đề nghị những người nghe làm. Đó chính là: hãy trung thực và can đảm với Chúa. Nếu như những tài khoản của họ ăn khớp hoàn toàn, hãy nói:

- Vâng, tôi đã kiểm tra những tài khoản của tôi. Tôi thấy tất cả đều ổn.

Nhưng nếu, rất có thể xảy ra như vậy, có những chỗ sai lệch, hãy thừa nhận sự sự thật, hãy thẳng thắn và nói như một người đàn ông:

- Vâng, tôi đã xem xét các tài khoản của tôi. Tôi thấy cái này và cái kia không được đúng đắn lắm. Nhưng nhờ ân sủng của Chúa, tôi sẽ chỉnh lại cái này và cái này. Tôi sẽ chỉnh lại các tài khoản của tôi.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx