Trong những chuyến đi dạo quanh các lối đi vắng vẻ trong vườn Luxembourg, Marius, vào thời bấy giờ đã là một thanh niên đẹp trai hai mươi tuổi, chú ý tới một người đàn ông luống tuổi và một cô gái rất trẻ lúc nào cũng ngồi bên nhau nơi lối đi vắng vẻ nhất.
Người đàn ông tuổi khoảng 60, có vẻ buồn bã và đức độ, trọn người ông toát ra vẻ tráng kiện và mỏi mệt của những người chiến binh đã xong nhiệm vụ, trở về ẩn dật. Trang phục của ông tươm tất và sạch sẽ. Ông có mái tóc bạc phơ.
Con gái của ông đã mười lăm tuổi. Mái tóc tuyệt vời màu hung vàng viền quanh một khuôn mặt với những nét thuần khiết, với làn da mịn màng. Trang phục của nàng thanh lịch một cách giản dị và phong phú, nhưng một vài chi tiết trong cách ăn mặc cho thấy nàng không có mẹ. Quả nhiên mẹ chàng đã từng bảo một cô gái không nên mặc một chiếc áo dài bằng nhiễu.
Marius mơ tưởng nhiều đến cô gái đó. Hình ảnh của nàng đã nhẹ nhàng bước vào tâm hồn chàng tự bao giờ chàng không hay biết. Và dần dần chàng có thói quen chỉ đến vườn Luxembourg với những bộ quần áo mới hợp với chàng và làm nổi bật vẻ duyên dáng của vóc người chàng.
Khi đi qua trước chiếc ghế dài nơi cô gái và cha nàng đang ngồi, chàng cố tạo ra một thái độ tự nhiên, không bước nhanh hơn hay bước chậm hơn. Nhưng chàng khó lòng vượt qua cơn bối rối lạ thường khiến tim chàng đập mạnh và chàng đi qua, mặt đỏ rần, mắt không dám liếc nhìn người thiếu nữ xinh đẹp.
Tuy nhiên nhiều lần họ vẫn gặp nhau trong ánh mắt, và những hôm đó, Marius trốn ra khỏi khu vườn, tim đập mạnh, thái dương giật giật. Chàng có cảm tưởng cô gái nhìn chàng với vẻ thích thích chớ không dửng dưng lắm.
Những cuộc đi dạo hàng ngày đó kéo dài được hơn hai tháng thì ông lão cuối cùng nhận ra sự lân la của Marius nên không dẫn cô con gái đến chính xác như trước nữa. Những hôm đó, thay vì đi dạo trong nhiều giờ liền, Marius đã bỏ đi, cõi lòng dằn vặt.
Chàng muốn biết "nàng" ở đâu và một ngày nọ chàng đã đi theo họ đến tận một ngôi nhà ở đường phía Tây. Cảm thấy khó chịu, ông lão lo ngại về sự táo bạo của chàng nên dọn đi ở chỗ khác và không xuất hiện tại vườn Luxembourg nữa.
Đối với Marius, đó là một đòn khủng khiếp. Trong đầu chàng chỉ còn một ý tưởng gặp lại khuôn mặt dịu hiền và tuyệt vời đó. Chàng tìm kiếm nó khắp nơi mà không thấy. Chàng rơi thỏm vào một nỗi buồn đen tối.
Chàng chán ngắt công việc, chàng buồn nản mọi điều, ngày nào thiên nhiên rộng lớn rực rỡ sắc màu và rộn ràng âm thanh xiết bao giờ đây đã trở nên trống rỗng trước mắt chàng.
Tại sao mình theo đuổi nàng, chàng tự nhủ. Mình trông thấy nàng, mình hạnh phúc. Nàng nhìn mình. Nàng có vẻ yêu mình. Tại sao mình còn muốn hơn thế nữa?
Chàng đắm sâu trong nỗi buồn. Mùa hạ và mùa thu trôi qua.
Một buổi chiều khi trở về căn phòng lụp xụp của mình, chàng phần nào bị xô đẩy bởi hai cô gái ăn mặc rách rưới, một cô cao lớn và mảnh khảnh, cô kia nhỏ người hơn, đang chạy vội qua ngưỡng cửa.
Bọn cớm tới, một cô nói giọng nhỏ và khàn. Họ không tóm được tôi, tôi đã thoát được.
Marius dừng bước một hồi, lòng tràn ngập chán chường và thương xót. Qua thứ tiếng lóng đó, chàng biết rằng bọn cảnh sát thành phố suýt bắt được các cô gái này và họ đã chạy thoát.
Chàng sắp sửa bước tiếp thì trông thấy dưới chân chàng một cái gói nhỏ xam xám giống như một phong bì đựng giấy tờ. Chắc hẳn các cô gái bất hạnh đó đánh rơi cái này, chàng tự nhủ.
Chàng trở về phòng và mở cái gói hòng tìm ra một cái tên cho phép chàng hoàn trả mớ giấy tờ cho người đã đánh mất chúng. Chàng bắt gặp bốn lá thư không niêm phong và cùng một nét chữ. Chúng toát ra một mùi thuốc lá gớm ghiếc. Những người ký tên "Don Alvares, đại úy Tây Ban Nha tị nạn", "Bà Balizard, một người mẹ bốn con", "Gentlot, nhà văn" và "P.Fatanbon, diễn viên bi kịch", cả bốn người đều có cùng một phong cách rườm rà và cùng thứ chính tả sai sót, và cả bốn người đều cầu xin sự cứu trợ của những con người nhân đức mà họ gởi thư tới. Marius cho các tờ giấy trở vào phong bì. Chàng quá buồn phiền để có thể mỉm cười trước sự lừa dối nhảm nhí mà chàng tìm thấy. Chàng ném nó vào một góc và đi ngủ.
Khoảng bảy giờ sáng, chàng vừa thức giấc và ăn sáng xong, và chàng thử bắt đầu công việc thì có tiếng ai khẽ gõ cửa.
- Mời vào! - Marius nói. Tưởng đâu đó là bà lão lo việc nội trợ của mình, chàng lên tiếng hỏi mà không rời mắt khỏi mớ bản thảo trên bàn chàng - Bà có chuyện gì cần không, bà Burgon?
Một giọng nói không phải của bà lão đáp lại:
- Xin lỗi ông.
Đó là một giọng trầm đục, rạn và rè rè, một giọng đàn ông lớn tuổi khàn khàn vì rượu. Marius vội vàng quay lại và trông thấy một cô gái.
Đó là một con người xanh xao và gầy gò, dáng vẻ bơ phờ, mắt lờ đờ, trơ tráo, ti tiện.
Tuy nhiên vẻ duyên dáng của tuổi mười sáu nơi cô vẫn còn chống trả với sự già cỗi đến sớm vì sự trác táng và nghèo khó. Cô chỉ mặc một chiếc áo sơ mi và một chiếc váy buộc vào người bằng một sợi dây.
- Cô cần gì? - Marius hỏi và nhìn vào khuôn mặt có vẻ như không hoàn toàn xa lạ.
- Một lá thư cho ông, thưa ông Marius, cô gái trả lời bằng giọng người tù khổ sai nát rượu của mình. Và cô đưa ra cho chàng một bức thư mà bọt niêm phong vẫn còn ướt.
Marius đọc:
"Người láng giềng đáng yêu, con gái lớn của tôi sẽ nói với ông rằng từ hai ngày nay chúng tôi không có một miếng bánh mì, bốn người và vợ tôi đang bịnh. Tôi hi vọng tấm lòng nhân hậu của ông sẽ xúc động trước lời trần tình này và thuyết phục được ông trong ước muốn giúp tôi.
Với lòng kính trọng đặc biệt dành cho những bậc ân nhân của nhân loại, Jondrette".
A! Marius nghĩ thầm, lá thư này có cùng nguồn gốc với bốn lá thư kia. Cùng chữ viết, cùng phong cách, cùng thứ chính tả, cùng thứ giấy, cùng mùi thuốc lá.
Cái tên Jondrette khiến Marius nhớ lại một câu chuyện gẫu của người đàn bà lo việc nội trợ cho chàng.
Bà đã nói rằng gia đình Jondrette, những con người khá khốn khổ và có nhiều "dáng vẻ", họ ở trong gian phòng tồi tàn tiếp cận với phòng chàng.
Trong lúc Marius đang nhìn cô gái bằng một cái nhìn kinh ngạc và buồn phiền thì cô đi đi lại lại trong phòng, xê dịch những cái ghế, xáo trộn những tờ giấy. Cô cầm lên một quyển sách đang mở ra trên bàn:
-Tôi biết đọc mà, cô nói.
Và cô đọc khá trôi chảy.
"Tướng Bauduin được lệnh đưa lữ đoàn của ông chiếm lâu đài Hougomont tọa lạc giữa đồng bằng Waterloo..."
- À! Waterloo! - Cô nói - Tôi biết chuyện này. Đó là trận đánh trước đây mà cha tôi đã tham dự trận đó. Ông phục vụ trong quân đội. Tôi đọc rành rẽ chứ hả? Tôi cũng biết viết nữa. Tôi sẽ viết một câu thử xem.
Cô châm ngòi bút vào bình mực và viết trên một tờ giấy trắng ở giữa bàn "Bọn cớm tới kia rồi!".
- Này cô, - Marius nói, chàng đã bắt đầu sốt ruột vì sự xâm nhập này - tôi có một cái gói ở chỗ kia mà tôi nghĩ là của cô.
Cô chập hai bàn tay vào nhau và kêu lên:
- May quá! Chúng tôi đã tìm nó khắp nơi.
Cô mở ra một trong những bức thư gửi "Con người nhân đức ở nhà thờ Saint-jacques-du-haut-pas".
- Này, cô nói, đây là thư gửi cho lão già nọ đang đi xem lễ mi sa. Tới giờ rồi. Tôi sẽ mang nó tới lão. Có thể lão sẽ cho chúng tôi cái gì để ăn trưa nay đây. Hai ngày rồi chúng tôi chằng ăn uống gì cả. Câu nói khiến Marius sực nhớ điều cô gái bất hạnh đến tìm tại phòng chàng.
Lục túi mãi, chàng cuối cùng gom được năm frăng mười sáu xu. Chàng giữ lại mười sáu xu cho bữa ăn tối trong ngày và cho cô gái năm trăng. Cô ta chộp ngay:
- Tốt lắm - cô nói - Có ánh sáng mặt trời rồi đây. Tôi sẽ vừa ăn vừa đi. Cũng thế thôi, tôi sẽ đi gặp lão già của tôi. Chào!
Và cô đi ra.
Marius vừa ngắm bức vách ngăn cách chàng với gia đình Jondrette vừa nghĩ ngợi. Bức vách này là một lớp thạch cao mỏng được chống đỡ bằng những cái nan xuyên qua đó tiếng nói có thể nghe trót lọt. Bất chợt chàng thanh niên chú ý thấy ở gần trần nhà nơi bức vách ngăn có một cái lỗ hình tam giác do ba cái nan tạo nên một khoảng trống ở giữa. Khi đứng trên cái tủ có ngăn kéo người ta có thể qua đó nhìn thấy gian phòng của gia đình Jondrette.
Marius nghĩ, mình hãy ngó qua một chút xem những con người đó ra sao.
Chàng leo lên cái tủ ngăn kéo, ghé mắt vào chỗ hở và nhìn:
Điều Marius trông thấy là một gian phòng tồi tàn, so với nó, gian phòng được giữ gìn rất đỗi sạch sẽ của chàng có vẻ sung túc. Hai cái giường tồi tàn không thể tả, một cái bàn thiếu chân, một cái ghế nhồi rơm, vài mảnh sành, một cửa sổ trên mái nhà với bốn tấm kính phủ đầy mạng nhện, một lò sưởi trên đó có một cái lò, một cái nồi, những tấm ván gẫy, những mảnh nóc vào đinh, tro và có cả chút lửa với que củi cháy dở nhả một làn khói ảm đạm. Dưới đất, dọc theo bức vách, là một cái pa nô bằng gỗ lật ngược.
Một người đàn ông khoảng 60 tuổi, ốm, nước da xanh tái, đôi mắt hung ác, một hạng người đê tiện gớm ghiếc, ông ta mặc một chiếc áo sơ mi đàn bà và một cái quần dài nhem nhuốc, đang ngồi vào bàn. Ông ta đang viết và hút thuốc. Một người đàn bà mập bự, tuổi có thể bốn mươi hoặc một trăm, đang ngồi xổm cạnh lò sưởi trên hai gót chân trần của mình. Một cô bé cao lớn đang nằm trên một cái giường.
Bất chợt cửa phòng mở toang. Cô con gái lớn xuất hiện trên ngưỡng cửa. Cô hét lên đến hụt hơi:
- Lão già đến, cái lão nhân từ ở nhà thờ St-jacques! Lão đến bằng xe ngựa với cô con gái! Con đã đợi lão xem lễ mi sa ra, con đã đưa thư cho lão, lão đã đọc thư.
Ban đầu lão có vẻ ngập ngừng, sau đó lão nói được rồi, lão sẽ đến. Con phải chạy về báo cho cha biết.
- Con là một cô gái khôn lanh - người cha nói - Nhưng thế chưa đủ. Nơi này trông chưa khốn khổ lắm. Mẹ tụi nhỏ đâu, tắt lửa đi! Còn con, hãy tháo rơm độn ra khỏi ghế. Trời có lạnh không?.
- Rất lạnh, có tuyết mà..
Người cha quay sang cô gái nhỏ, hét:
- Nhanh lên! Rời khỏi giường, đồ ăn hại. Hãy đập một tấm kính. Đúng, đập nó đi. Tao muốn thế.
Đứa trẻ lấm lét vâng lời, vung tay đấm một tấm kính cửa sổ vỡ tan và rơi xuống đất.
Trong lúc đó, người cha với vẻ nhanh nhẹn của một người làm trò xiếc, đã đổ nước vào mấy que củi đang cháy và chộp chiếc ghế dùng gót chân tháo tung lớp rơm độn của nó.
- Bà lên giường đi? - Ông ta ra lệnh cho bà vợ giọng sang sảng khiến bà ta ríu ríu vâng lời và nặng nề gieo mình trên một trong hai cái giường.
Tuy nhiên người ta nghe có một tiếng khóc nức nở trong góc:
- Chuyện gì thế? - Người cha hét lên..
Cô con gái nhỏ đang ngồi co ro trong bóng tối, đưa ra nắm tay bết máu. Cô bị thương khi đập vỡ kính cửa sổ.
Người vợ nhổm dậy và kêu lên.
- Ông thấy những trò bậy bạ ông làm chưa? Khi đập vỡ tấm kính của ông nó đã đứt tay.
- Càng tốt - người đàn ông nói - Đã tính trước hết rồi. Bây giờ thì chúng ta có thể tiếp lão già nhân từ được rồi.
Ông ta xé toạc chiếc áo sơ mi mà bà vợ đang mặc trên người và lấy một mảnh vải quấn quanh cổ tay đầy máu của cô con gái.
Marius quan sát cảnh tượng đó với một sự kinh ngạc chán chường. Chàng muốn bước trở xuống từ tủ ngăn kéo, nhưng một nỗi tò mò bí ẩn giữ chàng lại, như để chờ đợi một điều gì đó khó tin xảy ra. Và chàng suýt kêu lên một tiếng, bởi lúc bấy giờ cửa phòng Jondrette chợt mở trước một ông lão và một cô gái.
Đó là nàng.
Đó chính là nàng. Marius chỉ thoáng nhận ra nàng xuyên qua luồng hơi lấp lánh chợt tỏa ra trước mắt chàng. Chính con người xa vắng dịu hiền đó, ảo ảnh lồng lộng khuất lánh đó. Nàng lại xuất hiện? Dường như Marius vừa mới gặp lại linh hồn thất lạc của mình.
Nàng vẫn thế, chỉ hơi xanh xao một chút. Nàng bước vào gian phòng và đặt một cái gói khá to lên bàn.
- Này ông, người khách nói với Jondrette. Ông sẽ tìm thấy trong cái gói này mớ quần áo cũ còn tốt, vớ và mền len. Tôi thấy ông phàn nàn là đúng, ông Fatanbon ạ.
- Học trò cũ của Talma, vị ân nhân thánh thiện của tôi - Jondrette kêu lên bằng giọng người lái đò chợ phiên - Xưa kia thời vận đã mỉm cười với tôi, giờ đây đến lượt sự bất hạnh. Ông thấy đấy, không bánh mì, không củi lửa, cái ghế độc nhất của tôi đã tháo rơm, một tấm kính cửa sổ đã vỡ vì thời tiết, vợ tôi bịnh liệt giường, con tôi thì bị thương.
Cô bé được khuây khỏa vì có những người lạ mặt, bắt đầu ngắm "cô nương" và đã im tiếng khóc.
- Khóc đi chứ! La hét đi chứ!- Jondrette nói nhỏ với cô. Cùng lúc, ông ta véo mạnh bàn tay đau của cô một cách nhanh gọn như làm quỷ thuật. Cô bé hét vang.
- Cô nương hãy xem cổ tay của nó, Jondrette nói với cô khách trẻ, một tai nạn đã đến với nó khi nó làm việc dưới một cỗ máy để lãnh sáu xu mỗi ngày. Rồi đây có thể chúng tôi buộc phải cưa cánh tay của nó.
- Đúng thế sao? - Ông lão nói giọng hoảng hốt.
- Hãy nhìn lão ta kìa? - Jondrette thì thầm với bà vợ - Giữa mùa đông giá rét! - Ông ta tiếp lời lớn giọng - chỉ có những manh áo tả tơi này! Rồi ngày mai là hạn chót ông chủ tôi buộc tôi phải trả món tiền theo kỳ hạn. Nếu chiều nay tôi không trả sáu mươi frăng nợ năm qua thì cả gia đình bốn người chúng tôi sẽ bị tống ra ngoài cửa.
Ông lão móc năm frăng từ trong túi và ném chúng lên bàn. Sau đó ông cởi chiếc áo rây đanh gết rộng màu nâu ông mặc bên trên chiếc rây đanh gột màu xanh của ông và đặt nó trên ghế:
- Ông Fatanbon, ông nói, tôi chỉ còn món tiền này trong người. Tôi sẽ đưa con gái tôi về nhà. Nhưng tôi sẽ có mặt tại đây vào lúc sáu giờ và tôi sẽ mang đến ông sáu mươi frăng.
- Vị ân nhân màu nhiệm của tôi - Jondrette kêu lên - Tôi đang ứa nước mắt đây. Ông hãy cho phép tôi tiễn đưa ông.
Marius suýt nhảy khỏi cái tủ để theo người con gái đáng yêu, nhưng chàng nghĩ người cha hoặc Jondrette có thể trông thấy chàng và cuối cùng chàng sẽ sớm bị bỏ lại bởi cỗ xe ngựa chạy nhanh.
Thế là chàng từ bỏ ý định, nhưng chàng bị khuấy động không yên, chàng run lên trên cơn nôn nóng khi phải lẩn tránh. Chàng nhủ thầm rằng người cha sẽ trở lại lúc sáu giờ, bảy giờ chàng sẽ thu xếp để theo ông đến tận nhà ông để gặp lại nàng. Nàng!
Jondrette vội vã trở về phòng. Mắt ông ta sáng quắc như mắt thú rừng.
- Bà có nhận ra hắn không? - Ông ta hỏi vợ. Và ông ta cúi sát vào tai bà. - Hãy ra ngoài cả đi, ông ta bảo hai cô gái, nhưng hãy có mặt tại đây vào lúc năm giờ. Cả hai đứa. Tao cần đến chúng mày.
Marius càng thêm chú ý.
Còn lại một mình với vợ, Jondrette bắt chéo tay và kêu lên:
- Chính hắn, cũng vóc người cao to đó, cũng giọng nói đó, nhưng ăn mặc lịch sự hơn, thế thôi. Còn cô gái... thì cũng chính là con nhỏ đó, con Sơn Ca.
Trọn cuộc đời của Marius đều dồn vào đôi tai của chàng.
Sự bùng nổ của cơn phẫn nộ nơi bà Jondrette sau những lời lẽ đó của chồng bà khiến chàng càng kinh hồn hoảng vía khi giọng nói người đàn bà trở nên gớm ghiếc:
- Khi tôi nghĩ hai đứa con gái tôi phải đi chân trần và không có một chiếc váy dài để mặc. Rồi sao chứ, con bé xinh đẹp ghê tởm đó nhìn chúng vẻ thương hại lại chính là con bé khốn khổ đó à? Ồ, tôi muốn dùng guốc mà đạp cho bể bụng nó ra.
- Và bà muốn nghe điều này không - Jondrette tiếp lời, giọng ông ta thấp xuống nhưng nghe còn ghê rợn hơn những tiếng hò hét của vợ ông ta - Là thời vận tôi đã tới rồi. Tôi muốn thành triệu phú như mọi người. Tôi chán cảnh đói khát lắm rồi. Hắn ta sẽ tới đây chiều nay vào lúc sáu giờ. Đó là giờ mà tên ở bên cạnh đi ăn tối. Không có người nào trong nhà. Hai đứa nhỏ thì lo rình. Bà sẽ giúp chúng tôi. Hắn sẽ thực hiện thôi.
- Nếu hắn không thực hiện thì sao? - Người đàn bà hỏi. Jondrette nở một nụ cười ghê sợ và nói:
- Chúng ta sẽ giết hắn... Bây giờ tôi ra ngoài đây. Tôi cần gặp mấy người bạn. Đây là một vố hấp dẫn. Bà hãy lo giữ nhà... Bà có biết rằng hắn hạnh phúc đến nỗi đã không nhận ra tôi? Chính chòm râu đã cứu tôi đấy, chòm râu cằm xinh xắn lãng mạn của tôi... Hắn đã để lại chiếc áo khoác của hắn cho tôi, tên già ngốc ấy...Không có nó, có lẽ tôi không thể ra đường được và mọi việc có thể hỏng bét! Thế mới được việc đấy.... à quên, bà hãy mua hai đấu thanh để đốt lò. Hãy lấy đồng trăm xu của con người nhân đức. Nhưng hãy mang về tiền lẻ cho tôi đấy. Tôi cần mua mấy thứ ở tiệm bán đồ lạt son ở đường Mouffetard. Hôm khác chúng ta sẽ đi ăn. Hôm nay còn nhiều điều cần phải làm hơn.
Sau đó Marius nghe tiếng Jondrette khuất dần trong hành lang và vội vã bước xuống cầu thang.
Bấy giờ chuông một giờ đã đổ tại St-médard.
- Phải chặn bọn người khốn nạn này lại - Marius nghĩ thầm trong cơn khiếp đảm. Phải cứu nàng, và cha nàng nữa. Phải báo cảnh sát.
Marius lặng lẽ rời khỏi phòng. Rồi chàng bước vội về phía đồn cảnh sát gần nhất, ở đường Pontoise.
Lúc đang đi trên đường Petit-banquier chàng nghe có tiếng nói vọng ra từ những khu đất trống ven con đường. Chàng đi chậm lại, tuyết làm cho bước chân chàng bớt gây tiếng động. Tường khá thấp, chàng nghiêng người và trông thấy hai người đàn ông có vẻ là dân lang thang. Một người có râu mặc áo bờ lu, người kia tóc tai bờm xờm ăn mặc rách rưới.
- Với Atron-minette, vụ này không thể thất bại được. Phần mỗi người là năm trăm frăng đấy, và trong trường hợp rủi ro thì năm năm, mười năm là cùng. Chưa tính cỗ xe ngựa của lão Chose.
Marius vừa tiếp bước vừa nghĩ ngợi. Chàng thấy câu chuyện của hai người đàn ông đang ngồi trên tuyết kia có phần liên quan đến những ý đồ ghê tởm của Jondrette.
Chàng tới đường Pontoise và khi bước vào đồn cảnh sát chàng xin được nói chuyện với ông cảnh sát trưởng.
- Ông ấy không có ở đây, một thầy đội nói, nhưng có một thanh tra thay ông ấy. Anh hãy theo tôi.
Ông thanh tra cảnh sát là một con người cao lớn. Râu dày và xám viền một khuôn mặt vuông với đôi mắt sáng quắc. Ông gây cho người khác cảm giác sợ sệt lẫn tin cậy. Marius kể ông nghe câu chuyện, tất cả những gì chàng biết về âm mưu.
- Có phải trong cái phòng cuối hành lang không? - Ông thanh tra hỏi bằng một giọng chứng tỏ rằng ông biết rõ ngôi nhà. Chắc Patron-minette có liên quan ít nhiều tới câu chuyện phải không?
- Đúng là tôi có nghe nhắc tới cái tên kỳ dị đó mới đây, chàng trai nói. Và chàng kể lại mẩu chuyện trao đổi giữa hai kẻ lang thang trên đường Petit-banquier.
- Người tóc tai bờm xờm chắc hẳn là Brujon, và người có râu là Demi-liard - ông thanh tra nói sau phút nghĩ ngợi - Còn lão Chose dường như tôi đã trông thấy lão. Anh có trông thấy một tên ăn mặc sang, lượn qua đó không? Một tên to lớn đồ sộ trông như một con voi trong thảo cầm viên? Một tên ác ôn mũi lệch?
- Dạ không, Marius nói, những người đó là ai?
- Anh có sợ những người đó không? - Ông thanh tra hỏi thay vì trả lời.
- Không sợ hơn ông đâu! Marius đáp giọng hơi gay gắt vì chàng bắt đầu để ý thấy viên cảnh sát vẫn chưa gọi chàng bằng "ngài".
- Anh có chìa khóa ngôi nhà không? - Ông thanh tra vừa hỏi vừa nhìn đăm đăm vào Marius nhưng với một vẻ ngưỡng vọng - Tốt, hãy đưa nó cho tôi. Còn anh hãy giữ lại hai khẩu súng này. Chúng đã nạp đạn. Anh hãy quay về điểm quan sát của anh. Bọn đó sẽ đến. Hãy cứ để cho chúng vào. Khi phán đoán tình hình đã đúng lúc, anh hãy bắn một phát chỉ thiên. Tôi và mọi người sẽ có mặt tại đó. Hẹn sáu giờ nhé? Tôi có đủ thì giờ. Anh đừng quên đấy. Pằng! Một phát súng.
- Ông hãy yên tâm, Marius đáp.
Và khi chàng trai đặt tay lên chốt cửa để bước ra ngoài, ông thanh tra gọi chàng:
- Nhân tiện, từ đây đến lúc đó có cần gì tôi, anh hãy đến hoặc cho người đến đây. Anh cứ hỏi thanh tra Javert.
@by txiuqw4