II
NHỮNG CUỘC VUI MỞ ĐẦU
Ai cũng biết Leglơ đơ Mô ở với Giôli chứ không ở chỗ nào khác. Anh có một chồng cũng như con chim có một cành cây. Hai người bạn sống với nhau, ăn với nhau, ngủ với nhau. Cái gì họ cũng là chung, kể cả với Muydisela cũng chút ít như vậy. Những tu sĩ dòng Mũ gọi những người bạn như vậy là những người dính đôi.[238] Buổi sáng ngày 5 tháng Sáu, họ đi ăn điểm tâm ở Côranh. Giôli nghẹt mũi và đang bị cảm, Leglơ cũng bắt đầu chia sẻ bệnh đó. Áo của Leglơ sờn, nhưng Giôli thì quần áo đẹp.
[238] Nguyên văn latinh: beni.
Vào khoảng chín giờ, hai bạn đẩy cửa quán Côranh. Họ lên tầng một. Matơlốt và Gibơlốt tiếp họ.
- Sò, pho-mát, giăm-bông, Leglơ gọi.
Họ ngồi vào bàn. Quán trống, chỉ có hai anh em họ.
Gibơlốt nhận ra Giôli và Leglơ, đặt một chai rượu lên bàn.
Họ mới ăn những con sò đầu tiên thì có một cái đầu nhô lên ở cửa cầu thang và có tiếng nói:
- Mình đi qua. Mình đánh hơi thấy có mùi pho-mát xứ Bri ngon lành. Mình vào.
Đó là Gơrăngte. Gibơlốt đem hai chai vang đặt lên bàn.
Thế là ba chai tất cả.
- Cậu định uống cả hai chai này ư? - Leglơ hỏi Gơrăngte.
- Ai cũng có trí ý, chỉ có cậu là thiển ý.
Gơrăngte bắt đầu uống. Trong một thoáng hắn nốc nửa chai. Leglơ hỏi:
- Dạ dày cậu có lỗ thủng sao?
- Cậu cũng có ở khuỷu tay đó. Gơrăngte lại uống cạn cốc rồi nói tiếp: Ái chà! Leglơ văn tế ơi, cái áo cậu cũ quá.
- Mình mong thế. Bởi vậy, chúng tớ, cái áo và tớ rất thuận hòa với nhau. Nó nhận tất cả những nếp của tớ, nó chẳng vướng bận tớ tí nào, những tàn tật dị hình của tớ, nó bọc lấy, nó nâng chiều tất cả những cử động của tớ, tớ chỉ cảm thấy có nó là vì mình được ấm áp. Áo cũ cũng như bạn cũ.
- Đúng thế, Giôli hét to xen vào cuộc đối thoại. Áo cũ cũng như bạn cũ.[239]
[239] Giôli nói ami (bạn) thành abi (đồng âm với habit là áo) vì ngạt mũi. Trò chơi chữ này không chuyển qua Việt ngữ được.
Nhất là ở cửa miệng một anh nghẹt mũi.
- Gơrăngte, Leglơ hỏi, cậu từ đại lộ đến đây à?
- Không.
- Giôli và tớ vừa xem đoạn đầu đám tang đi qua.
- Một cảnh tượng kỳ diệu, Giôli nói.
- Còn cái phố này mới yên tĩnh làm sao! Leglơ kêu.
Ở đấy thì không ai ngờ Pari đã bị xáo ngược! Thật rõ ràng là ở chỗ các tu viện ngày xưa Đuy Brơi và Xơvan đã lên danh sách các tu viện đó, và cả tu viện trưởng Lơbớp nữa. Có lắm loại quanh đây đông như kiến ấy, nào dòng có giầy, dòng đi đất, dòng trọc đầu, dòng có râu, dòng xam, dòng đen, dòng trắng, dòng phrăngxieanh, dòng minim, dòng capuyxanh, dòng cacmơ, dòng tiểu ôguytxtanh, dòng đại ôguytxtanh, dòng cực ôguytxtanh… Lô nhô, lúc nhúc.
- Thôi đừng nói đến lũ tu sĩ nữa - Gơrăngte cất ngang - nghe ngứa ngáy lắm.
Rồi anh kêu:
- Ái chà! Mình vừa nuốt phải con sò ôi. Ấy, cái bệnh ưu phiền của tớ lại tái phát rồi đấy. Sò hỏng, các cô bán quán vô duyên. Tớ căm ghét nhân loại. Vừa rồi, tớ đi qua phố Risơliơ, trước một cái hiệu sách công cộng lớn. Cái đống vỏ sò mà người ta gọi là một thư viện đó, mới nghĩ tới tớ đã thấy tởm rồi. Bao nhiêu giấy, bao nhiêu mực! Lắm thứ bôi bác. Người ta đã viết ra chừng ấy đấy! Thế mà có thằng ngốc nào không biết đã nói, con người là con vật hai chân không lông.[240] Rồi tớ lại gặp một cô gái quen biết, đẹp như mùa xuân, mang tên hoa rất xứng đáng, thế mà cái con khốn nạn!
[240] Chơi chữ: plume vừa có nghĩa là cái lông nhím, vừa có nghĩa là cái bút, vì người Âu ngày trước dùng cái lông cánh ngỗng để viết.
Vì hôm qua một thằng chủ nhà băng đáng tởm, mặt rỗ đầu mùa, đã hạ cố ngủ với nó! Chao ôi! Cái bọn đàn bà, chúng nó rình chộp tên thầu thuế cũng ngang với trang phong lưu, con mèo cái cũng vậy đó, nó săn bắt chuột,cũng như săn bắt chim. Cách đây chưa đầy hai tháng, ả ấy là một cô gái ngoan trong một cái buồng nát, ả tán ô-dê trên coóc xê, các anh gọi cái việc ấy là gì? Có khâu vá, có ngủ trên giường vải, có ngồi bên cạnh một cái chậu hoa và có thỏa mãn. Bây giờ ả là vợ một ông chủ ngân hàng. Sự đổi lốt ấy mới xảy ra đêm qua. Sáng nay tớ vừa gặp nạn nhân đó. Ả thích thú lắm. Điều đáng hãi là cái con nỡm ấy hôm nay cũng vẫn xinh như hôm qua. Cái lão tài phiệt kia không hiện ra trên mặt ả. Hoa hồng có đặc điểm này, không biết nên cho là hơn hay kém phụ nữ, là dấu vết những con sâu còn thấy trên cánh nó. Ôi! Luân lý đâu có trên mặt đất này, tôi viện chứng cây hương đào, tượng trưng cho tình yêu, cây nguyệt quế tượng trưng cho chiến tranh, cây ôliu ngốc nghếch kia, tượng trưng cho hòa bình, cây táo mà hạt suýt làm cho Ađam chết vì nghẹn ở cổ, và cây vả, ông tổ của váy mặc trong. Còn công lý, các anh có muốn biết công lý là gì không? Người Gôloa muốn chiếm Cluydơ; La Mã bảo vệ Cluydơ, hỏi họ: Cluydơ phạm lỗi gì đối với các ông? Brennuýt trả lời: - Cái lỗi Anbơ đã phạm đối với các ông, cái lỗi mà Phiden, mà người Êcơ, người Vônxcơ và người Xabanh đã phạm đối với các ông. Họ đã là láng giềng của các ông. Người Cluydơ là láng giềng của chúng tôi. Chúng tôi quan niệm lân bang cũng như các ông. Các ông đã cướp lấy Anbơ, chúng tôi ngày nay chiếm Cluydơ, Brennuýt đánh lấy La Mã. Rồi ông thét: Ves Vicllis.[241] Công lý là thế đó. Chao ôi! Ở thế giới này, loại thú săn mồi sao mà lắm thế! Vô khối diều ó! Vô khối diều ó! Tớ thấy mà rợn da gà đây.
[241] Khi người La Mã (Rôma) cân vàng trả để chuộc lại thành quốc của mình, thì Breanus, thủ lĩnh người Gaulois ném thanh gươm mình vào đĩa mang quả cân và nói: "Vac vieti" (Kẻ chiến bại phải gánh hoạn nạn).
Gơrăngte đưa cốc cho Giôli rót đầy, rồi uống và nói luôn, hầu như không dừng lại vì cốc rượu mà không ai để ý, kể cả anh ta.
- Brennuýt đoạt La Mã là một con ó, tên chủ nhà băng chiếm ả gái lẳng lơ kia là một con ó. Ở đó cũng như ở đây, đều không có ngượng ngùng e thẹn chút nào. Cho nên, chúng ta không nên tin gì cả. Chỉ có uống là chân lý. Dù anh nghĩ thế nào, dù anh ở về phía con gà trống gầy như tổng Uyri nọ, hay là ở phía con gà trống béo như tổng Glarit kia, cũng chẳng nghĩa lý gì, cứ uống. Các anh nói đến đại lộ, đến đám tang, vân vân… Ái chà, thế nghĩa là sắp có một cuộc cách mạng nữa? Tôi lấy làm ngạc nhiên sao mà cái ông Đức Chúa nhân ái ấy túng phương tiện đến thế! Lúc nào ngài cũng chỉ lại biết tra mỡ vào kẽ rãnh của những biến cố. Có mắc míu. Có đình đốn. Mau mau, phải làm cách mạng. Đức Chúa, bàn tay ngài lúc nào cũng đen bẩn cái chất dầu mỡ khó ưa đó. Giá ở vào vị trí của ngài, tôi sẽ giản đơn hơn, tôi không luôn luôn lên dây cót cho cái máy của tôi như vậy. Tôi sẽ dìu dắt loài người một cách nhanh nhẹn và hiệu quả kia. Tôi đan sự việc từng mắt một, không làm đứt sợi, tôi không tùy nghi đối phó, tôi không có kịch bản khác thường.
Cái mà các anh gọi là tiến hóa chạy bằng hai động cơ là con người và sự kiện. Thế nhưng điều đáng buồn là thỉnh thoảng cần phải có chuyện đặc biệt. Với sự kiện cũng như con người, số bình thường không đủ. Trong số đông con người phải có những thiên tài, trong số nhiều sự kiện, phải có những cuộc cách mạng. Phải có những đại biến cố, đó là quy luật, trật tự thế giới không thể không có những diễn viên ra trò. Khi người ta ít ngờ đến nhất thì Chúa lại treo một thiên tượng lên tường vũ trụ. Một ngôi sao kỳ lạ hiện ra kéo theo một cái đuôi to lớn. Cái đó làm chết Xêda. Bruytuýtx đâm ông một nhát dao, Chúa, một nhát sao chổi. Tách! Đây là một giả bình minh bắc phương, đây là một vĩ nhân, 93 bằng đại tự, Napôlêông in nổi bật, sao chổi 1811 trên đầu biểu ngữ. Chà chà! Cái bảng quảng cáo xanh điểm những chấm sáng bất ngờ! Ùm! Ùm! Cảnh huống kỳ lạ. Hãy nhìn lên hỡi các chú rồi nghề! Tất cả đều xõa tóc, ngôi sao cũng như vở kịch. Chúa ôi! Nhiều quá đấy, và cũng chưa đủ đâu. Những biện pháp đặc biệt ấy trông như phong phú, thật ra là nghèo nàn. Các bạn ạ, thượng đế đang thi thố những mẹo vặt. Một cuộc Cách mạng thì chứng tỏ cái gì? Chứng tỏ là Chúa đã đến chỗ vô phương. Ngài làm một cuộc đảo chính chỉ vì có gián đoạn giữa hiện tại và tương lai và bởi vì ngài là Chúa đấy, ngài không nối được hai đầu dây với nhau. Điều này làm cho tớ tin những giả thiết của tớ về tình hình sản nghiệp của ngài là đúng. Tôi nghi là Chúa chẳng giàu có gì khi thấy làm cái bất ổn ở trên cũng như ở dưới, lắm cái hạ tiện, ti tiện, hà tiện, quẫn bách trên trời và dưới đất, từ con chim không có một hạt kê mà ăn cho đến tớ không làm sao có nổi một trăm nghìn phơrăng thực lợi, khi thấy số phận con người đã mòn nhẵn, cả đến số phận đế vương cũng sờn tận cốt sợi, bằng chứng là hoàng thân Côngđê bị treo cổ, khi thấy mùa đông chẳng khác gì một mảnh rách trên thiên đình qua đó gió lạnh thổi xuống trần gian, khi thấy vô khối những tã rách trên màu hồng tươi rói của ban mai ở các đỉnh đồi, khi thấy những giọt sương, những hạt ngọc trai giả ấy, khi thấy những hạt tuyết, kim cương giả đeo ở đầu cành, khi thấy nhân loại đứt chỉ, lịch sử vá víu và nhiều vết ở mặt trời, nhiều hố trên mặt trăng, khi thấy khốn khổ tràn trề khắp nơi khắp xứ. Chúa ra vẻ lắm, đúng, nhưng tớ cảm thấy Chúa túng rồi. Ngài cho ra một cuộc cách mạng cũng như nhà đại thương két rỗng mở một cuộc khiêu vũ. Không nên xét thần thánh ở bề nguôi. Dưới lớp vàng son bóng lộn trên trời tớ nhận thấy vũ trụ nghèo nàn. Trong cuộc sáng chế có cảnh phá sản. Vì vậy tớ bất mãn. Các anh thấy không, hôm nay là ngày 5 tháng Sáu, thế mà bây giờ hầu như còn đang trong đêm. Từ sớm nay tớ đợi cho trời sáng. Thế mà trời không sáng cho, tôi cam đoan là cho đến hết ngày, trời vẫn chưa sáng ra. Đây là lỗi giờ giấc của anh nhân viên lương không được trả đúng. Thật vậy, tất cả đều xếp đặt sai, không có cái gì khớp với cái gì cả, cái quả đất cũ kỹ này đã quằn quẹo rồi, tớ đứng vào phải chống đối. Xiên xẹo, méo mó tất. Vũ trụ là trớ trêu lắm. Chúng ta như những đứa trẻ: đứa nào muốn thì không có, đứa nào không muốn lại có. Chung quy, tớ căm lắm. Ngoài ra cái anh hói Leglơ đơ Mô làm tớ nhìn mà phát sầu muộn. Cứ nghĩ tớ cùng tuổi với cái đầu gối ấy mà thấy nhục. Thực ra thì tớ phê phán chứ không lăng mạ. Vũ trụ nó đã như thế thì thế. Tớ nói không có ác ý, nói chỉ để cho lương tâm khỏi day dứt mà thôi. Xin Chúa vĩnh hằng hãy nhận sự thành kính trân trọng của tôi. Chao ôi! Xin viện tất cả các thánh ở Thần sơn và các thần linh ở Thiên đường mà thề rằng tôi không phải sinh ra để làm người Pari, nghĩa là cái vật được chuyền qua lại giữa đám rong chơi và đám phá phách, như chiếc cầu lông giữa hai cây vợt. Tôi sinh ra để làm người Thổ, suốt ngày nghỉ ngắm gái phương Đông nhảy múa những điệu vũ Ai Cập lả lơi như những mộng mị của một anh chàng trai giới, hoặc là nông dân đất Bôxơ, hoặc là quý tộc thành Vơnidơ ở giữa đám bài bạc, hoặc là tiểu vương Đức góp cho liên bang Nhật-nhĩ-man mỗi lần nửa tên lính bộ, ngày rồi chỉ tiêu khiển bằng cách phơi bít tất lên hàng rào mình, tức là biên giới đất nước mình. Đó, số kiếp của tớ phải là như thế! Vâng! Tớ nói Thổ, và tớ không cải chính. Tôi không hiểu sao người ta có thói quen coi thường người Thổ, Mahômê cũng có cái hay. Hãy tôn kính đấng sáng chế những hậu cung có thần nữ và những thiên đường có tỳ nữ![242] Đừng lăng mạ Hồi giáo, cái tôn giáo duy nhất được trang trí một chuồng gà mái! Đến đây tớ phải uống đã. Thế giới này là một ngu xuẩn vĩ đại. Và hình như họ sắp đánh nhau, tàn sát nhau giữa mùa hè trong tháng cỏ non, trong khi chúng có thể cắp tay một mỹ nhân đi về đồng quê hít thở mùi cỏ cắt bốc lên như một chén trà lớn! Quả là người ta đã làm lắm cái điều dại dột! Cái đèn lồng cũ vỡ mà tớ thấy ở một quầy hàng xén vừa rồi đã gợi cho tớ một sự suy nghĩ: đã đến lúc phải sốt sắng cho nhân loại. Ừ, tớ lại buồn rầu ấy nuốt mắc nghẹn một con sò và một cuộc cách mạng thì nó như thế đấy! Tớ trở lại sầu thảm. Ôi! Cái thế giới cố hữu đáng hãi này! Ở đấy người ta lật đật, người ta lật đổ, người ta đánh đĩ, người ta đâm họng nhau và người ta đã sống quen với nó.
[242] Gơrăngte dụng ý nói ngược lại, cũng như khi nói về thần linh và thánh ở trên, để thấy thực chất.
Sau cơn hùng đàm đó, Gơrăngte nổi một cơn ho, thật đáng đời. Giôli nói:
- Nhân nói đến cách mạng, mình thấy rõ ràng thằng Mariuytx đã mê gái.
- Có biết hắn mê ai không? - Leglơ hỏi.
- Không!
- Không à?
- Không, tớ đã nói mà!
- Chuyện yêu đương của Mariuytx ư? Gơrăngte hét. Tớ thấy rõ rồi, Mariuyx là một đám sương mù, nó đã tìm thấy một cột khói. Mariuytx thuộc dòng họ thi sĩ. Nói thơ là nói dở hơi. Thần Apôlông của người Tênhbrêuýt,[243] Mariuytx với cô nàng Mau, hay Mang hay Mariet hay Mariông của nó chắc phải là một đôi nhân tình ngộ nghĩnh. Tớ biết tình hình chúng là như thế nào rồi. Ngây ngất mà quên hôn nhau. Đoan chính ở dưới trần, giao hợp ở trên cung mây. Đó là những linh hồn có giác quan. Họ ngủ với nhau giữa vòm sao.
[243] Nguyên văn latinh: Timbraeus Apollo.
Gơrăngte bắt đầu chai thứ hai và có lẽ cả bài diễn thuyết thứ hai nữa nhưng một người nữa đã chui lên khỏi cái lỗ cửa cầu thang. Đó là một chú bé chưa đến mười tuổi, rách rưới, thấp bé, vàng vọt, mặt đỏ, mắt sáng, tóc rất dày đẫm nước mưa, nét mặt vui vẻ. Không quen ai hết, nhưng lựa chọn không do dự giữa bộ ba ấy, chú hướng về Leglơ đơ Mô hỏi:
- Ông có phải là ông Bốtxuyê không?
- Đó là cái tên nhà của tôi, Leglơ đáp. Em cần gì mà hỏi tôi?
- Thế này. Một ông tóc vàng, người cao, ở đại lộ hỏi em: Em có biết bà Huysơlu không? Em đáp: Biết, ở phố Săngvrơri, bà góa của ông già. Ông ấy bảo em: Em đến đấy. Em tìm gặp ông Bốtxuyê, em nói hộ cho anh: A-B-C. Chắc là người ta muốn giễu ông phải không? Ông ấy cho em mười xu.
- Giôli ơi, cho tớ vay mười xu đi - Leglơ nói. Rồi quay lại Gơrăngte: Gơrăngte, cho tớ vay mười xu.
Được hai mươi xu, Leglơ cho thằng bé.
- Cám ơn ông - thằng bé nói.
- Em tên là gì?
- Nave, bạn của Gavrốt.
- Ở đây với các anh - Leglơ bảo.
- Ăn sáng với các anh nào - Gơrăngte mời.
Thằng bé đáp:
- Em không thể. Em ở trong đoàn đưa tang, chính em hô đả đảo Pôlinhắc.
Và quay lại, kéo lê chân lệt sệt - đó là cách chào tôn kính nhất của nó - nó bước đi.
Đứa bé ra khỏi thì Gơrăngte lên tiếng:
- Thằng bé này là thằng bé nguyên chất. Có nhiều loại trong bọn nhãi ranh. Nhãi của các viên chưởng khế gọi là nhãi nhãy-phố,[244] nhãi làm bếp gọi là nhãi đội-nồi, nhãi làm bánh mì là nhãi mũ chụp, nhãi hầu gọi là grum, nhãi thủy thủ là mútxơ, nhãi lính là thiếu sinh quân, nhãi họa sĩ là rapanh, nhãi đại thương là nhãi-choai-choai, nhãi triều thần là tiểu-công-tử, nhãi vua chúa gọi là hoàng tử, nhãi Chúa trời là Hài đồng.
[244] Nguyên văn những danh từ này: sau, e-ruisecau, marimiton mitron groom (tiếng Anh, Pháp hóa), mousse tapin, rapin, trottin, menin, dauphin, bambino. Chúng tôi buộc phải dùng cả ba cách: chuyển ra từ tương đương, dịch những từ dịch được, phiên âm từ chuyên nghiệp và tiếng lóng.
Trong lúc đó, Leglơ nghĩ ngợi. Anh nói nho nhỏ:
- A.B.C, nghĩa là đám tang Lamác.
- Ông người cao tóc vàng - Gơrăngte nhận xét - là Ănggiônrátx. Anh ta báo tin cho cậu đấy.
- Chúng ta có đến không nào? Bốtxuyê hỏi.
- Trời mưa - Giôli nói. Tớ cam kết vào lửa chứ không cam kết vào nước. Tớ không muốn cảm ốm.
- Tớ thì ở lì đây - Gơrăngte nói. Tớ thích ăn sáng hơn chôn người.
- Kết luận: chúng ta không đi - Leglơ nói tiếp. Thế thì uống vậy. Vả lại thiếu mặt ở đám tang cũng không nhất thiết phải thiếu mặt ở cuộc bạo khởi.
- À! Nói bạo khởi thì có tớ đây - Giôli thét.
Leglơ xoa hai bàn tay vào nhau nói:
- Thế là chúng ta sắp soát lại cuộc cách mạng 1830. Trên thực tế cuộc cách mạng 1830 làm cho dân chúng lúng túng ở những chỗ khuỷu.
- Cái cách mạng của các anh, mình chẳng thiết - Gơrăngte nói. Tớ không ghét bỏ cái chính phủ này. Đó là cái vương miện được lót êm bằng chiếc mũ lông, một vương trượng mà đầu dưới là chiếc ô. Ờ nhỉ! Trời hôm nay như thế này cho nên tớ nghĩ cái vương trượng đó: Luy Philip có thể dùng cái quân quyền của mình nhằm hai mục tiêu, đưa cái đầu trượng ra đối với dân, mở cái đầu ô ra đối với trời.
Phòng tối om, những mảng mây lớn đã làm mất nốt ánh sáng ban ngày. Không có ai trong quán, cũng không có ai ngoài đường, mọi người đều đi "xem diễn biến của thời cuộc".
- Giữa trưa hay nửa đêm đấy? Bốtxuyê thét. Chẳng trông thấy gì sất, Gibơlốt, đem đèn đây!
Gơrăngte buồn bã cứ uống rượu. Anh làu bàu:
- Ănggiônrátx chê ta, Ănggiônrátx nói: Giôli ốm, Gơrăngte say. Cho nên hắn cho Nave đến gọi Bốtxuyê. Giá hắn đến rủ ta thì ta đã đi rồi. Mặc xác Ănggiônrátx! Ta không đến dự cái đám tang của hắn đâu.
Đã quyết nghị không đi cho nên Bốtxuyê, Giôli và Gơrăngte chẳng nhích ra khỏi quán. Vào khoảng hai giờ chiều thì bàn của họ đã đầy những vỏ chai. Hai cây nến thắp sáng để trên bàn, một cây cắm trên cái chân đồng đã hoàn toàn gỉ xanh, một cây nhét vào cổ một lọ đựng nước rạn nứt. Gơrăngte đã kéo Giôli và Bốtxuyê trở về với vui nhộn.
Về phía Gơrăngte thì từ trưa, anh ta đã vượt quá cái mốc rượu vang, vì rượu vang là một nguồn mộng tồi. Đối với những hôm ghiền thực sự, rượu vang chỉ được nể nang mà thôi. Về việc say sưa thì cũng có ảo thuật và quỷ thuật, rượu vang chỉ là ảo thuật thôi, Gơrăngte là một anh chàng uống mộng liều lĩnh. Một trận say tối trời đen đất, một trận say kinh hồn sừng sững trước mắt không làm cho anh ta dừng, ngược lại lôi cuốn anh ta. Anh đã để chai qua một bên để cầm cốc vại. Không có thuốc phiện, không có ba-sít[245] bên mình, mà cứ muốn cho đầu óc ám hoàng hôn thì đành phải mượn cái thứ nước pha ghê gớm gồm có rượu mạnh, bia đen và rượu ngải, cái thứ nước gây nên những cơn hôn mê kinh khủng. Thể hơi của ba thứ bia, rượu mạnh, rượu ngải đổ chì vào tâm hồn. Đó là ba thứ đêm đen làm chết chìm thiên tư bay bướm. Ở đấy, trong một màng khói tụ mơ hồ thành cánh dơi hình thành ba nữ cuồng thần câm lặng là Mê sảng, Đêm đen và Chết chóc bay chập chờn bên trên nàng Sysê ngủ thiếp.
[245] Một loại lá gai Ấn Độ, nhai hoặc hút như thuốc lá có thể say.
Gơrăngte vẫn chưa đến cái giai đoạn thảm đạm đó, hãy còn lâu.
Anh ta vui vẻ vô cùng và Bốtxuyê, Giôli cũng chia vui với anh. Họ chạm cốc. Anh có những cử chỉ bất thường đi đôi với những lời những ý kỳ quặc. Anh chống nắm tay trái lên gối một cách oai vệ, cánh tay nạnh ra thành hình thước thợ, cà vạt sổ tung, ngồi cưỡi ngựa trên ghế đẩu, cốc đầy trên tay trái ném cho ả Matơlôt to béo những lời long trọng sau đây:
- Hãy mở các cửa điện ra! Tất cả mọi người phải có chân trong viện hàn lâm Pháp và có quyền hôn bà Huysơlu! Cất chén vào!
Rồi quay về phía bà Huysơlu, anh thêm:
- Hỡi người phụ nữ nghìn xưa được tập tục thừa nhận, người hãy lại đây ngõ hầu ta chiêm ngưỡng!
Giôli thét:
- Matơlôt và Gibơlôt, đừng mang rượu cho Gơrăngte uống nữa. Hắn uống mất vô khối là tiền. Từ sáng nay hắn đã ngốn bừa bãi hai phờ răng chín mươi lăm xu rồi.
Gơrăngte lại nói:
- Ta không cho phép mà ai dám khoèo các vì sao xuống đặt lên bàn đây thay nến như vậy?
Bốtxuyê tuy say khướt nhưng vẫn bình tĩnh. Anh ngồi lên bậu cửa sổ để ngỏ, đưa lưng ra hứng mưa và nhìn hai người bạn.
Thình lình anh nghe ồn ào phía sau lưng, tiếng chân chạy hấp tấp, tiếng kêu: Hãy cầm súng! Anh quay lại và nhận thấy ở phố Xanh Đơni, cuối phố Săngvrơri, Ănggiônrátx đang đi qua, súng cầm tay. Rồi Gavrốt với khẩu súng ngắn của nó, Phơidi cầm mã tấu, Cuốcphêrắc cầm gươm, Giăng Pruve với khẩu mút-cơ-tông, Côngbơphe mang súng, Bahôren xách các-bin cùng với cả tốp vũ trang ồn ào sôi nổi theo sau họ.
Phố Săngvrơri dài không quá một tầm các-bin. Bốtxuyê lấy hai bàn tay làm thành ống loa giữ mồm vào gọi:
- Cuốcphêrắc! Cuốcphêrắc. Đây này.
Cuốcphêrắc nghe tiếng gọi, nhìn thấy Bốtxuyê. Tiến mấy bước vào phố Săngvrơri, hỏi to: Cậu cần gì? Câu hỏi ấy gặp chéo câu của Bốtxuyê: Cậu đi đâu đấy? Cuốcphêrắc trả lời:
- Dựng một chiến lũy.
- Thế thì tại đây thôi! Chỗ này tốt lắm! Dựng ở đây đi!
- Đúng đấy, Phượng hoàng ạ. Cuốcphêrắc đáp.
Cuốcphêrắc ra hiệu, cả đoàn lao vào phố Săngvrirơ.
@by txiuqw4