II
GIĂNG VANGIĂNG VẪN BUỘC CÁNH TAY
Không phải ai ước mơ cũng được toại nguyện. Chắc phải có những cuộc biểu quyết ở trên trời. Mỗi người chúng ta vô tình là một ứng cử viên. Thiên thần biểu quyết, Côdét và Mariuytx đã đắc cử.
Ở thị chính và nhà thờ, Côdét trông thật rực rỡ và cảm động: Bà Tútxanh và Nicôlét đã trang điểm cho nàng.
Côdét mặc một chiếc áo ren Binsơ ngoài một chiếc váy lục soạn trắng, mặt che một tấm khăn voan thêu mũi Anh, đeo một chuỗi hạt trai quý, đầu đội một vành hoa cam, tất cả phục sức ấy toàn màu trắng làm cho nàng như chói ngời ánh sáng. Nàng là sự trong trắng thùy mị đang nảy nở và biến hóa trong hào quang, là cô gái đồng trinh đang trở thành thần nữ.
Mớ tóc rất đẹp của Mariuytx chải bóng và bôi nước hoa, dưới làn tóc xoăn còn thấy rõ ràng những vết thương ở chiến lũy đã thành sẹo.
Lão Gilơnócmăng oai vệ đàng hoàng khoác tay Côdét. Trang phục và điệu bộ của lão là tất cả những kiểu cách lịch sự từ thời Bara.[353] Giăng Vangiăng vì cánh tay buộc, không khoác tay Côdét được, nên lão thay thế Giăng Vangiăng bận đồ đen đi theo sau, miệng hé một nụ cười.
Lão Gilơnócmăng nói với Giăng Vangiăng:
- Này ông Phôsơlơvăng, ngày hôm nay thật là một ngày đẹp đẽ. Tôi bỏ phiếu chấm dứt mọi nỗi buồn bực khổ đau ở đời; không ở đâu buồn được có mặt nữa! Này, tôi công bố nghị quyết là mọi người phải vui vẻ. Điều ác không được phép tồn tại. Thật là một điều nhục nhã nếu dưới vòm trời trong xanh, còn có người khốn khổ.
[353] Bara: một trong những ủy viên chế độ Đốc chính trong thời kỳ cách mạng Pháp.
Điều ác không phải do người gây ra, bản chất con người vẫn tốt. Tất cả những đau khổ mà loài người phải chịu đựng có nguồn gốc từ nơi địa ngục, nó là thủ phủ, là chính phủ trung ương của đau khổ, là cung điện Tuylơri[354] của quỷ vương. Hừ! Bây giờ tôi cũng nói cái giọng mị dân đấy! Tôi vứt bỏ hết mọi xu hướng chính trị, tất cả mọi người được giàu có, nghĩa là vui vẻ, đó là tất cả nguyện vọng của tôi.
[354] Cung điện của vua nước Pháp ở Pari.
Tất cả nghi lễ đã xong. Họ đã nói trước mặt ông thị trưởng và ông cố đạo tất cả những tiếng “vâng ạ” đáng nói, họ đã ký trên những sổ bộ của tòa thị chính và nhà thờ, họ đã trao đổi nhẫn cưới, họ đã quỳ cạnh nhau dưới cái tán lụa vân trắng trong khói hương trầm. Sau đó họ nắm tay nhau đi ra cửa lớn nhà thờ mở rộng hai cánh. Mariuytx trang phục đen, Côdét mặc toàn trắng, có anh lính Thụy Sĩ đeo tua vai đi trước và nện kích xuống nền đá. Ai cũng trầm trồ khen ngợi và ước được như đôi vợ chồng trẻ. Mọi việc đã xong, họ sẵn sàng lên xe. Côdét còn tưởng nằm mơ. Nàng nhìn Mariuytx, nàng nhìn đám đông, nàng nhìn trời, hình như nàng sợ tỉnh giấc mơ. Cái vẻ ngỡ ngàng, lo âu ấy làm cho nàng càng thêm quyến rũ. Hai người cùng ngồi trên một chiếc xe để trở về. Mariuytx ngồi bên cạnh Côdét, lão Gilơnócmăng và Giăng Vangiăng ngồi đối diện với họ. Dì Gilơnócmăng lui xuống hàng hai, ngồi xe sau.
- Các con, lão ông ngoại bảo: thế là các con đã thành ngài nam tước và nam tước phu nhân với ba mươi nghìn phơrăng lợi tức đồng niên.
Côdét ngả đầu sát mặt Mariuytx thỏ thẻ bên tai chàng lời nói thần tiên: “Có phải thật thế không? Tên em là Mariuytx à? Em là phu nhân anh à?”
Hai con người ấy rỡ ràng ánh sáng. Họ đang sống cái giây phút không gì thay đổi được, không sao tìm lại được, cái giây phút gặp gỡ huy hoàng của hạnh phúc và tuổi xuân. Họ đã thực hiện lời thơ của Giăng Pơruve. Cả hai người cộng lại chưa đầy bốn mươi tuổi. Đây là cuộc hôn nhân tính chất. Đôi trẻ ấy là hai bông huệ trắng. Họ không nhìn nhau, họ chiêm ngưỡng nhau. Côdét nhìn thấy Mariuytx giữa một vùng hào quang, Mariuytx thấy Côdét ngồi trên một cái điện thờ. Trên cái điện thờ ấy, và trong cái vùng hào quang lồng nhau ấy, không biết thế nào hai người cùng nhìn thấy, Côdét thì như sau một đám mây, Mariuytx thì như giữa một nguồn ánh sáng chói lọi, một vật như mơ tưởng vừa có thực! Đó là chiếc gối tân hôn, nơi hẹn hò của những cái hôn và những giấc mơ tình.
Cả bao nhiêu đau khổ trước đây đã hiện về thành say sưa. Buồn thương, thao thức, nước mắt, lo âu, sợ hãi, tuyệt vọng, tất cả hình như đã hòa thành ánh sáng, thành vuốt ve, làm cho giờ phút say mê sắp tới càng thêm say mê. Tất cả những nỗi đau khổ trước kia hình như có nhiệm vụ trang sức cho ngày vui tới. Chịu đau khổ thế mà tốt biết bao. Đau khổ đã hiện thành cái vành hào quang hạnh phúc của họ. Mối tình hấp hối một thời gian nay bay vụt lên tận trời.
Cả hai tâm hồn ngây ngất một niềm vui sướng nhuộm màu khoái lạc đối với Mariuytx và e lệ ở nơi Côdét. Họ bảo thầm nhau: “Chúng mình sẽ trở lại với cái vườn xinh của mình ở phố Pơluymê”. Những nếp áo của chàng phủ lên Mariuytx.
Ở phố Xanh Ăngtoan, trước nhà thờ Xanh Pôn, người qua đường đứng lại để nhìn qua khung kính vành hoa cam rung rinh trên đầu Côdét.
Rồi họ trở về phố Phiơ đuy Canve, về nhà. Mariuytx đi song song cùng Côdét, hiên ngang, rạng rỡ, bước lên cái cầu thang mà trước đây người ta khiêng chàng về ngắc ngoải. Người nghèo xúm nhau trước cửa, chia nhau tiền của họ cho và cầu phúc cho họ. Hoa tràn ngập mọi nơi. Nhà ở cũng sực nức mùi hương chẳng kém gì nhà thờ. Hết mùi hương trầm đến mùi hương hồng. Họ tưởng như vẳng nghe tiếng hát ca trong không gian vô tận. Chúa Trời như đang ngự trong lòng họ.
Họ nhìn thấy số mệnh chói lòa muôn vì sao, họ tưởng thấy ánh bình minh bừng sáng trên đầu họ.
Bỗng nhiên chuông đồng hồ đánh: Mariuytx nhìn cánh tay xinh đẹp của Côdét và thoáng thấy lờ mờ hai núm hồng dưới làn áo ren trước ngực; Côdét, bắt gặp mắt của Mariuytx, đỏ bừng mặt vì xấu hổ.
Nhiều bạn cũ quen thuộc của gia đình Gilơnócmăng được mời tới dự đám cưới, họ xoắn xuýt quanh Côdét, tranh nhau chào mừng nam tước phu nhân.
Viên sĩ quan Têôđuyn Gilơnócmăng mới được thăng chức đại úy, từ thành phố Sactơrơ là nơi hắn đóng quân, đến dự đám cưới của ông chú họ Pôngmécxi, Côdét không nhận ra anh chàng ấy. Còn anh chàng xưa nay vẫn quen được phụ nữ ưa thích, cũng đã quên Côdét như chàng quên các phụ nữ khác.
Lão Gilơnócmăng thì thầm một mình:
- Câu chuyện anh chàng kỵ binh, mình không tin cũng phải.
Về phần Côdét thì chưa bao giờ nàng tỏ ra dịu dàng âu yếm đối với Giăng Vangiăng như bây giờ. Nàng hòa cùng một nhịp điệu vui sướng với lão Gilơnócmăng. Đối với lão, lòng vui sướng biểu hiện ra bằng những câu ngạn ngữ, châm ngôn. Ở Côdét tình yêu và tính nhân hậu tỏa ra như hương thơm. Hạnh phúc muốn cho tất cả mọi người đều sung sướng.
Nàng trở lại có cái giọng âu yếm nũng nịu hồi còn là cô gái nhỏ khi nói chuyện với Giăng Vangiăng, nụ cười của nàng như mơn trớn Giăng Vangiăng.
Tiệc trà bày sẵn trong phòng ăn. Phòng ăn thắp đèn sáng rực. Đèn sáng cần thiết cho việc vui mừng, ở giữa phòng, ngay trên chiếc bàn trắng toát, một cái đèn treo Vơnidơ, có đủ mọi thứ hình chim màu da trời, màu tím, đỏ, xanh, đậu giữa những cây nến; xung quanh giá đèn treo nhiều dãy đèn khác, xung quanh tường có gương treo ba mặt, năm mặt. Mặt gương, pha lê, thủy tinh, bát đĩa, đồ sứ, đồ sành, đồ gốm, đồ bạc, sáng ngời lên và rạng rỡ. Ở khoảng trống giữa các cây nến, có những bó hoa cho nên chỗ nào không có đèn sáng là có hoa tươi.
Chái ngoài, ba cây vĩ cầm, một chiếc áo nhè nhẹ cử những bản nhạc Aiđin.
Giăng Vangiăng ngồi trên một chiếc ghế ở phòng khách, ở cạnh cửa, cánh cửa mở ra gần như che khuất ông. Vài phút trước khi bắt đầu bữa tiệc, Côdét vụt nảy ý đến trước mặt Giăng Vangiăng, hai tay xòe chiếc áo cưới trịnh trọng cúi chào ông, rồi nhìn Giăng Vangiăng với đôi mắt vừa âu yếm vừa tinh nghịch, nàng hỏi:
- Cha ơi! Lòng cha có thấy vui không?
- Có! Cha vui lắm. Giăng Vangiăng đáp.
- Thế thì cha cười đi.
Giăng Vangiăng cười.
Vài phút sau, Bátxcơ báo tiệc đã bày xong. Tân khách lần lượt vào phòng ăn, lão Gilơnócmăng đi trước khoác tay Côdét.
Mọi người tản về ngồi chỗ đã xếp đặt trước xung quanh bàn ăn. Hai chiếc ghế bành lớn đã được đặt sẵn hai bên ghế của cô dâu, một chiếc cho lão Gilơnócmăng, một chiếc cho Giăng Vangiăng. Lão Gilơnócmăng ngồi vào ghế dành cho lão, chiếc ghế kia vẫn bỏ trống.
Mọi người liếc mắt tìm “ông Phôsơlơvăng”. Ông không có trong phòng ăn.
Lão Gilơnócmăng gọi Bátxcơ hỏi:
- Mày có biết ông Phôsơlơvăng đâu không?
- Thưa ông, biết ạ. Bátxcơ trả lời. Ông Phôsơlơvăng vừa bảo con trình với ông rằng ông ấy hơi khó chịu vì cái bàn tay bị thương nên không dự tiệc với ngài nam tước và nam tước phu nhân được, ông xin thứ lỗi cho ông. Sáng mai ông sẽ đến. Ông vừa ra về.
Chiếc ghế trống làm cho bầu không khí hân hoan của bữa tiệc cưới lạnh lùng đi một lát. Nhưng vắng ông Phôsơlơvăng đã có lão Gilơnócmăng, ông già ấy hớn hở kiêm cho hai người. Lão cả quyết rằng ông Phôsơlơvăng cũng chỉ là “đau xoàng” thôi. Thế là không ai băn khoăn nữa. Vả lại có làm sao một xó tối trong gian phòng tràn ngập hân hoan! Côdét và Mariuytx mải sống những giờ phút vị kỷ đáng quý, trong ấy họ chỉ có mỗi khả năng là khả năng hưởng hạnh phúc. Lão Gilơnócmăng lại có sáng kiến bảo: - À phải, cái ghế này trống, Mariuytx, con đến ngồi đây. Dì con chắc cũng vui lòng tuy dì con có quyền được ngồi với con. Chỗ này là của con, vừa hợp pháp, vừa lịch sự. Cậu hạnh phúc bên mợ hạnh phúc, cả bàn tiệc vỗ tay hoan nghênh. Mariuytx đến ngồi vào ghế của Giăng Vangiăng bên cạnh Côdét. Côdét trước buồn vì vắng Giăng Vangiăng lại hóa ra vui vì Giăng Vangiăng vắng mặt. Có Mariuytx thay thì dù người vắng là Chúa Trời, Côdét cũng không tiếc. Nàng để bàn chân nhỏ nhẹ trong chiếc giầy xa-tanh trắng trên bàn chân Mariuytx.
Chiếc ghế có người ngồi thì hình ảnh ông Phôsơlơvăng vắng bị xóa mờ đi. Không ai thấy thiếu gì cả. Và năm phút sau từ đầu bàn đến cuối bàn vang lên những chuỗi cười say sưa quên lãng.
Khi ăn tráng miệng, lão Gilơnócmăng đứng dậy lấy cốc rượu sâm banh chỉ rót đến lưng cốc cho khỏi sóng trong bàn tay run lẩy bẩy của ông già chín mươi hai; lão nâng cốc lên chúc sức khỏe của cô dâu và chú rể. Lão hét:
- Các con không tránh được hai bài thuyết giáo. Buổi sáng các con đã được nghe cha xứ; tối nay các con sẽ được nghe ông ngoại. Các con nghe ông, ông có một lời khuyên các con: các con hãy yêu nhau say sưa đi. Ông không nói dông dài, ông nhắm ngay tới đích; các con hãy sướng đi. Trong vũ trụ không ai khôn ngoan bằng những con chim gáy. Bọn hiền triết bảo: hạn chế sự vui sướng, ông bảo: thả lỏng dây cương cho hạnh phúc, hãy yêu say mê đi, yêu điên dại đi, như quỷ ấy. Bọn hiền triết chỉ nói bẻm, lão muốn tống cái triết lý ấy trở vào họng họ. Có khi nào lại thừa hương thơm bay ngát, thừa nụ hồng hé nở, thừa họa mi véo von, thừa cành lá xanh tươi, thừa ánh sáng bình minh trong cuộc đời? Và có khi nào yêu nhau quá nhiều, ưa nhau quá lắm hay không? Coi chừng đó, Exten ạ, em xinh quá! Coi chừng đó, anh Nênmôranh ơi, anh điển trai quá ạ! Rõ ngốc chưa? Mê nhau, nựng nhau, say nhau mà có thể quá à! Sống mà cũng có thể thái quá, sung sướng mà cũng có thể thái quá ư? Phải vui có điều độ à? Ối dào! Dẹp bọn triết gia của các anh đi! Vui chơi là triết lý đó. Các bạn vui chơi đi, chúng ta vui chơi đi. Chúng ta sung sướng vì chúng ta tốt hay là chúng ta tốt vì chúng ta sung sướng nào? Ngọc Xăngxi có tên là Xăngxi vì nó là sở hữu của Háclê đơ Xăngxi[355] hay là vì nó nặng một trăm linh sáu ca-ra, tôi chẳng biết. Cuộc đời đầy những bài toán như thế đó. Điều quan trọng là có ngọc Xăngxi và có hạnh phúc.
[355] Harlay de Saney: một nhà chính trị Pháp thế kỷ XVI, chủ nhân của một viên kim cương nổi tiếng (nặng 106 ca-ra tức là 21,1 gram) được gọi là ngọc sancy.
Chúng ta hãy sung sướng đi, không kêu ca lôi thôi gì, chúng ta hãy mù quáng phục tùng mặt trời. Mặt trời là gì? Là tình yêu. Tình yêu là gì? Là phụ nữ. Phụ nữ mà, phụ nữ là uy lực tuyệt đối. Thử hỏi anh chàng nịnh dân Mariuytx kia, có phải anh là nô lệ của nàng bạo chúa Côdét bé nhỏ này không? Nô lệ tự nguyện nữa kia chứ, đồ hèn nhát! Phụ nữ!
Chẳng có Rôbétspie[356]nào cưỡng nổi; phụ nữ thống trị. Lão chỉ còn bảo hoàng vì cái vương quốc đó thôi. Ađam là gì? Là vương quốc của Evơ. Đối với nàng, không thể có Cách mạng 89 nào. Nhà vua có quyền trượng đính bông hoa huệ, hoàng đế có quyền trượng đính trái địa cầu, quyền trượng của Sáclơmanhơ bằng sắt, quyền trượng của Luy vĩ đại bằng vàng. Cách mạng đã bóp méo tất cả những quyền trượng ấy như những cọng rơm giữa ngón trỏ và ngón cái. Đã mất cả, đã gãy cả, đã rơi cả xuống đất, không còn vướng trượng nào nữa. Thế mà lão đố ai làm được cách mạng đối với chiếc khăn tay thêu nhỏ, sực mùi hương thơm kia? Lão xem các người làm thử đi nào? Tại sao lại vững bền thế? Bởi vì chỉ là một mụn giẻ. À! Các người tự hào các người là thế kỷ mười chín. Thế rồi sao nữa? Chúng tôi, chúng tôi là thế kỷ mười tám đây. Nhưng tất cả chúng ta đều ngốc như nhau. Bởi vì các anh đã gọi dịch tả là côlêra, nhảy múa là khiêu vũ, các anh tưởng đã thay đổi được nhiều lắm trong vũ trụ. Không đâu. Chung quy vẫn phải yêu phụ nữ. Tôi thách các anh thoát khỏi cái luật đó. Những con quỷ cái ấy cũng là thiên thần của chúng ta. Vâng, tình yêu, phụ nữ, hôn hít, đó là vòng mà tôi đố các anh bước ra thoát. Còn về phần tôi thì tôi lại thích nhảy trở vào. Trong các anh ai đã thấy sao hôm mọc trong khoảng mênh mông? Nó nhìn mặt biển như một thiếu phụ, làm cho vạn vật phía dưới dịu lại, đó là cô làm đỏm của vực thẳm, nàng Xêlimen[357] của đại dương. Đại dương là một chàng Anxextơ rất khó chơi. Hắn càu nhàu ầm ĩ, vậy mà khi sao hôm xuất hiện, thì hắn trở nên tươi cười. Cái con thú ấy hóa thuần. Chúng ta đều như thế cả. Giận dữ, bão tố, sấm sét, tung bọt đến tận trần. Một phụ nữ bước ra, một ngôi sao mọc: thế là quỳ mọp. Sáu tháng trước đây, Mariuytx chiến đấu. Ngày nay Mariuytx lấy vợ. Làm thế là phải. Phải, Mariuytx, phải, Côdét, các con làm thế là phải lắm. Hãy mạnh dạn sống vì nhau, hãy nựng nhau, hãy làm cho chúng ta tức vỡ bụng, vì không thể làm được như vậy, hãy tôn thờ nhau. Hãy lấy hai mỏ của các con tha tất cả các cọng hạnh phúc trong thiên hạ đem về nhà mà làm một cái tổ uyên ương cho các con.
[356] Lãnh tụ chuyên chính của cách mạng Pháp 1789.
[357] Célimène: nhân vật nữ trong vở kịch “Người yếm thế” nổi tiếng của Môlie, Célimène là một cô gái đỏm dáng, không yêu quí ai nhưng thích làm cho mọi người yêu quí mình. Alceste là một người ngay thẳng luôn luôn bất bình với những sự giả dối ở đời, nhưng mê Célimène.
Chao! Yêu và được yêu, đó là điều màu nhiệm của tuổi trẻ! Đừng tưởng là các con phát minh điều đó. Ông cũng vậy, ngày trước ông đã mơ mộng, đã nghĩ ngợi, đã thở ngắn than dài. Ông cũng đã từng có một tâm hồn sáng trăng. Tình yêu là một chú bé sáu nghìn tuổi. Tình yêu có quyền có bộ râu dài bạc trắng. Cụ Bành tổ chỉ là một chú bé bên cạnh thần Quy Piđông. Từ sáu mươi thế kỷ nay nam nữ đã tự cứu bằng cách yêu nhau. Quỷ sứ ranh mãnh đã thù ghét người; người đàn ông, ranh mãnh hơn, đã yêu người đàn bà. Nhờ vậy, nó đã làm lợi cho nó nhiều hơn là quỷ sứ đã làm hại cho nó. Nó đã làm được điều tinh khôn sâu sắc ấy ngay từ hồi còn địa đàng. Các bạn ạ, điều phát minh cũ mà lại mới toanh. Hãy sử dụng nó. Hãy làm Đápnitx và Clôê trong khi chờ thành Philêông và Bôxít. Hãy làm thế nào cho khi các con đã ở bên nhau thì không thấy thiếu cái gì nữa và Côdét sẽ là thái dương đối với Mariuytx, còn Mariuytx là vũ trụ đối với Côdét, trời đẹp tức là nụ cười của chồng; với Mariuytx trời mưa tức là khi vợ tuôn nước mắt. Mà đừng để cho có mưa trong nhà đấy nhé! Hai anh chị đã vớ được một số tốt trong cuộc xổ số: đó là số lấy nhau vì tình. Số độc đắc thì phải cố giữ, phải bỏ hòm khóa lại, đừng xài phí. Hãy say mê nhau đi và mặc kệ những gì khác. Hãy tin điều ông nói. Đó là tiếng của lương tri, mà lương tri thì không biết nói dối. Chị phải coi anh, anh phải coi chị như là một tôn giáo. Mỗi người có cách thờ chúa riêng của mình. Cốc-rác họ! Cách thờ Chúa tốt nhất là yêu vợ mình. Anh yêu em! Đó là sách kinh của ta. Yêu là nắm được chính giáo. Tiếng văng tục quen thuộc của vua Hăngri IV đặt thánh đức giữa cái no và cái say. Vua kêu: bụng-thánh-say ôi.[358] Tôi không theo tôn giáo của tiếng văng tục đó. Nó quên nói đến người phụ nữ.
[358] Nguyên văn: Ventre-saint-gris, dịch nghĩa là bụng-thánh-say. Tiếng văng tục thường chẳng có nghĩa gì cho nên tạm dịch như vậy.
Hăngri IV[359] mà văng tục như vậy thì cũng lạ đó. Phụ nữ vạn tuế, các bạn ạ! Tôi già, người ta bảo vậy; thế mà lạ thay tôi cảm thấy đang hồi xuân dữ dội. Tôi ước vọng vào rừng nghe kèn mục đồng. Hai đứa trẻ này nó đã đạt được cái đẹp kèm cái thích thú làm cho tôi say sưa. Tôi sẽ cưới vợ thực sự đấy nếu không ai trở ngại.
[359] Hăngri IV cũng có tiếng là ham gái.
Không thể tưởng tượng Chúa nặn chúng ta ra với mục đích nào khác là để cho chúng ta say mê nhau, gù nhau, quyến rũ nhau, làm con bồ câu, làm con gà trống, cục cục yêu đương từ sớm đến chiều soi gương trên mặt vợ, kiêu hãnh, chiến thắng, ưỡn ngực ra. Mục đích cuộc đời là như vậy đó. Xin lỗi các bạn, đó là ý kiến của chúng tôi ở thời đại chúng tôi, khi chúng tôi là thanh niên. Chao ôi! Đạo đức con nỡm! Làm sao mà thời đại đó lại lắm đàn bà đáng mê đến thế và những gương mặt kháu khỉnh măng tơ! Ta tha hồ phá hại.
Vậy nên các con hãy yêu nhau đi. Không yêu nhau thì trời sinh mùa xuân để làm gì? Còn ta, ta sẽ cầu xin Chúa hãy cất hết những gì đẹp mà Người ta bày ra, lấy lại hết, bỏ hết vào hòm những hoa, những chim, những gái đẹp. Các con ạ, hãy nhận lời ban phúc của lão già này.
Buổi tối hôm ấy nhộn nhàng, vui vẻ, lý thú. Sự vui nhộn tột độ của người ông kích thích buổi lễ và mọi người hòa theo sự vui vẻ thân mật hầu như bách tuế ấy. Cũng có khiêu vũ chút ít, và cười đùa nhiều hơn. Một hôn lễ thân tình dễ dãi. Có mời cụ cố lão thời xưa thì cũng chả sao. Thực ra cụ đã dự ở hiện thân lão Gilơnócmăng.
Ồn ào một lúc rồi sau yên lặng.
Thế rồi đôi vợ chồng mới cưới biến mất.
Quá nửa đêm ngôi nhà Gilơnócmăng trở thành ngôi đền.
Chúng tôi dừng lại ở đây. Trên ngưỡng cửa các động phòng, có một thiên thần đứng gác, tươi cười, một ngón tay đặt lên môi.
Tâm hồn phải chiêm ngưỡng trước chính điện, nơi đang diễn lễ yêu đương.
Chắc là có những tia sáng ở trên các ngôi nhà đó. Niềm vui chứa trong đó thế nào cũng thoát ra qua các kẽ đá thành ánh sáng và rọi lờ mờ vào cảnh đêm. Cuộc lễ thiêng liêng và tất yếu đó không thể không phóng một tia sáng thần tiên vào cõi vô tận. Tình yêu là cái khuôn siêu việt hòa đúc người đàn ông và người đàn bà với nhau. Vật thể hợp một, vật thể bộ ba, vật thể cuối cùng, cái tam thể nhất vị của người từ đó mà ra. Hai tâm hồn cộng sinh nên một, cuộc hoàn sinh đó gây xúc động cả cho bóng tối. Tân lang là vị cố đạo, trinh nữ thích thú mà hoảng sợ. Một cái gì trong cảnh vui thú đó bay lên với Chúa, ở đâu thực sự có hôn nhân, nghĩa là có tình yêu, thì ở đó có lý tưởng. Giường cưới làm nên một vùng bình minh trong bóng tối. Giá con mắt trần của chúng ta mà có phép thu nhận những hình ảnh ghê gớm và đáng yêu của cuộc sống thượng thặng thì chắc chúng ta sẽ thấy những hình bóng của đêm tối, những dị nhân có cánh, những khách bộ hành sinh trong cõi vô hình, nghiêng đầu quanh ngôi nhà có hào quang. Cái đám đầu mặt lờ mờ ấy sẽ hân hoan ban phúc, sẽ chỉ cho nhau thấy cô dâu trinh nữ, dáng họ có phần ngơ ngác nhưng tươi vui và các gương mặt thần ấy đượm ánh sáng hạnh phúc nhân gian. Ở giờ phút tuyệt đỉnh ấy, đôi nhân tình choáng váng khoái lạc tưởng chỉ có họ ở trong buồng mà thôi, nhưng nếu họ lắng tai, họ sẽ nghe thấy lào xào tiếng cánh. Hạnh phúc toàn vẹn là hạnh phúc được thiên thần đồng tình. Cái buồng nhỏ tối tăm ấy lấy vòm trời làm trần. Khi hai cái miệng đã trở nên thiêng liêng vì tình yêu mà dịch lại gần nhau để sáng tạo, thì ở bên cái hôn khó diễn tả đó, không thể không có một sự rung động trong cõi mênh mông huyền bí của tinh cầu.
Những lạc thú đó mới là lạc thú thật sự. Không có niềm vui nào khác. Chỉ có sự ngây ngất thần thánh ở tình yêu. Tất cả những cái khác chỉ là khóc.
Yêu hoặc đã từng yêu, thế là đủ. Không nên đòi hỏi thêm gì. Không còn viên ngọc nào khác ở trong các nếp tối tăm của cuộc sống đâu. Yêu đã là một sự hoàn tất.
@by txiuqw4