Sau giỗ bốn mươi chín ngày, tôi mở chiếc hòm gian gỗ lim sau lưng tủ. Hòm nặng khủng khiếp. Bốn góc được bịt đồng lá, tán đinh. Nắp hòm dày ước tới bảy ly. Bên trong, có lượt nhung kẻ Trung Quốc lót. Lật lớp nhung kẻ đã lấm chấm vết nhạy, lại tới lần vải láng hoa đỏ. Bỏ lớp vai láng đi, tôi sững sờ: Cả một bộ đồ cô dâu trong đó. Một chiếc váy đầm liền thân hàng voan trẳng mỏng, chiếc mũ đội đầu gắn ngọc giả. Đôi găng trắng đeo tay. Bông hồng trắng cài tóc. Dây vạn thọ xâu chuỗi để gài vào bó hoa chú rể tặng cô dâu... Xếp bộ đồ cưới tân kỳ ấy sang một bên, tôi thấy một bộ đồ cưới của những năm về trước: Áo dài trắng thêu kim tuyến, quần sa tanh ống rộng, trâm nạm ngọc giả cài đầu. Dưới nữa, là một sấp áo dài. Thứ hàng gấm, thứ hàng sa tanh, thứ hàng lụa. Đủ màu, đủ hình thêu: thêu hoa, thêu công phượng, thêu chữ Thọ, thêu đục mặt vải... vài hộp son đã khô két, hai lọ nước hoa, một hộp phấn con Én Thái Lan, một hộp phấn Coly đã mục, thứ hàng từ trên ba mươi năm trước...
Cuối cùng, là chiếc hộp gỗ bề ngang chừng gang rưỡi bề dọc hơn hai gang. Tôi mở hộp: Một gói lụa đỏ. Mở gói, lại gói nữa bên trong. Hết ba lượt lụa bọc, có một nắm bông, lấp lánh ánh kim loại: một chiếc dây chuyền mặt trái tim đúc. Một cặp hoa tai, chính cặp hoa tai cô đã đòi lại mẹ tôi. Dưới món đồ tư trang, có tờ giấy gấp tư. Thứ giấy kẻ dòng của học trò. Trong đó, cô tôi viết nắn nót:
Của cô để cho Hằng: cách tường bếp bên trái ba bước chân, cách cây cau đầu tiên (kể từ bể nước) hai bước chân rưỡi. Đào sâu một mét tây sẽ thấy. Nhớ đào đêm sáng trăng, sẽ có bóng che của cây cam.
Dưới những dòng chữ, là sơ đồ vẽ nguệch ngoạc. Một ngôi sao vẹo vọ, với các khoảng cách được ước định tới vật chuẩn: nào bể nước, nào tường bếp, nào cây cau... Nét bút vụng dại, nhưng quyết liệt... Có lẽ, khi cô đào hố chôn của trong một đêm mù mịt, hay khi viết những dòng chữ này, cũng giống hệt như mấy chục năm trước – đặt con dao dưới đầu, hai tay chắp trước bụng ngủ giấc ngủ giữa màn sương để nuôi chí phục thù... Cô tôi, người đàn bà xinh đẹp có đôi mắt nhung huyền, lẽ ra...
Tôi nhìn ngắm, lần nữa rồi lần nữa, những bộ đồ cưới, những tấm áo dài rực rỡ, những phấn son đã được sắm sanh thầm lén và thầm lén nhốt trong bóng tối của chiếc hòm. Và tôi hiểu, khi tôi đưa chiếc quan tài chở xác cô ra bãi tha ma, thì tôi lại bật mở một chiếc quan tài khác, chiếc quan tài quấn xác chết của tuổi xuân, xác chết của những giấc mơ son trẻ, của cô...
Tôi sập nắp hòm, chạy khỏi căn phòng. Tôi khóc. Khóc đớn đau....
Ngày hôm ấy, tôi không thể làm được gì. Chiều, ăn cơm xong, tôi bảo bà Đũa trong nhà. Một mình tôi lững thững ra đồng. Trời còn sáng. Lũ trẻ chăn trâu đuổi nhau dọc bờ mương. Người đi làm từng tốp hối hả về. Chỉ các cô gái là vừa đi vừa chọc ghẹo nhau, cười như bị thọc vào nách. Tôi đến bãi tha ma, thắp hương mới cho cô. Hoa xưa đã tàn, gió bay tứ tung. Tôi đặt trên mộ vài chùm mẫu đơn vừa hái. Rồi ngồi đó, tôi ngắm khoảng đồng mênh mông vàng thẫm ánh chiều... Những ngày còn sống bên Nga, đã bao lần tôi hình dung tới cảnh này, như một hồi niệm, như ước mơ. Sao giờ đây nó đè nặng tim tôi với vẻ đẹp huy hoàng không suy suyển?... Giờ phút êm đềm sau những oi ả, nồng nực. Ánh chiều thếp vàng lên ngọn cỏ, bờ cây. Cánh chim ảo giác vụt lướt qua. Lớp hơi nước bồng bềnh, uốn lượn, đan xuyên trong ánh tà dương như khói... Đã bao lần bên đó, sau cánh cửa, nhìn tuyết trắng xóa, tôi mơ tưởng tới khoảng đồng xanh thắm này, bồi hồi nghĩ tới lúc nó trở thành một tấm thảm vàng dạt dào trong gió. Nhớ tiếng chim kêu lúc rạng đông, nhớ bóng cô lặn lội soi mình đáy nước, nhớ âm điệu xào xạc của bờ tre.. những vẻ đẹp đã vĩnh định trong hồn ta, trong thẳm sâu ký ức...
-Cú..ú...ú..
Một con cú mèo thét lên bên tai. Tôi giật mình đứng lên. Phải về làng. Không bóng người, chỉ có đôi chim đêm bay mải trên khoảng đồng quạnh quẽ. Tôi đi dọc con đường mòn lách giữa các hàng mộ chí. Chừng trăm thước sau, tới đường làng. Hai bên đường, tiếng ếch nhái, chẫu chuộc ì ọp vang lên. Vài nhà đã lên đèn. Những con nghé gọi mẹ trong chuồng. Tiếng bính boong của chuông chùa làng bên văng vẳng.
Bà Đũa đón tôi ở cổng:
-Có người chờ cô.
Tự dưng, tôi gắt vô cớ với bà:
-Mua đồ chứ gì?... Tôi không bán.
Trong bóng tối, một người đàn ông tiến lên, mặt dài ngoẵng như ống bơm:
-Thưa cô.
-Tôi không bán gì hết. Đồ đạc nhà này giữ nguyên tớt lượt giỗ trăm ngày.
-Tôi không mua đồ gỗ.
-Vậy ông cần gì?
-Tôi biết cô cần tiền làm giỗ trăm ngày cho bà Tâm.
-Việc ấy chẳng liên quan gì tới ông.
-Có ạ...
Ông ta cười, răng trắng nhởn như xương lợn khô trên khuôn mặt đen xì:
-Không bán đồ gỗ, cô phải bán vàng. Tôi biết vàng bà Tâm mua toàn vàng Kim Thành ngày xưa. Cô bán cho tôi. Tôi trả giá cao so với mọi người.
Gã đàn ông này là phù thủy chăng?... Tôi đứng đần mặt, không biết nói năng sao. Sau một lát, tôi tìm được cách từ chối:
-Lúc khác... Giờ tối tăm, tôi không thể đưa ông thử vàng.
Ông ta điềm nhiên đáp:
-Vàng bà Tâm không cần thử. Tôi mua ngay bây giờ.
Rồi, sau chút đắn đo, ông ta nói thêm:
-Cô đừng sợ, tôi không phải kẻ trộm cắp, tôi cần mua cho con gái tôi ít của hồi môn...
Nói xong, ông ta bước lên bậc tam cấp, vào nhà. Tôi bất lực, đành bước theo. Mua bán xong, ông ta ra về, đem theo mùi hôi khét của cái đầu lâu ngày không gội. Tôi ra hiên, nhìn theo. Bà Đũa đã đóng cửa, quay vào, tôi vẫn thấy ông ta còn đứng đấy, giữa khuôn cổng hình bán nguyệt tối om. Nỗi ám ảnh màu đen. Bóng ma của diệp lục. Những chiếc chiếc ao tù đọng, thối rữa, ảnh chiều loang đỏ như máu con vật tế lễ. Những quân bài tổ tôm cáu ghét quật xuống mảnh chiếu làng. Hang hốc của dục vọng. Tiếng cười và tiếng khóc sau lũy tre. Hình ảnh người đàn bà tím đen, đung đưa dưới sợi dây thòng lọng, giữa bốn bề lửa cháy...
Nhờ gã đàn ông ấy, tôi hiểu được những gì bóp nghẹt tim tôi. Gã vô tội, nhưng gã là cái cớ khai tổ những ý nghĩ mù mờ trong cõi vô thức. Tôi hình dung lại khuôn mặt dài như ống bơm, chẳng rõ đường nét, chẳng rõ màu mắt, khuôn miệng... Cần cảm ơn gã... Tôi ngồi xuống hiên. Trong nhà, bà Đũa vừa ngáp vừa nói vọng ra:
-Sương xuống, dễ cảm hàn lắm cô ạ... Các cô ở thành phố bấy như cua lột...
Tôi đáp:
-Cháu vào bây giờ, bà ngủ đi...
Trăng thượng tuần chập chờn trên vòm lá đen huyền bí của vườn cam. Rải rác quanh vành trăng, vài ngôi sao lớn. Tôi đăm đăm nhìn chúng. Hơn bao giờ hết, tôi thấy rõ đường đi của thời gian đang lướt qua khung trời. Như vệt đuôi sao chổi. Chúng xóa đi từng thời khắc của cuộc đời. Chúng xóa đi... mà trí nhớ con người lại không xóa nổi. Nhưng dĩ vãng chỉ là dĩ vãng. Những đồng tiền âm phủ không tiêu được trong phiên chợ trần ai. Tôi sẽ xin với vong linh cô tôi cho tôi bán nhà. Tôi phải đi. Ý muốn của những người quá cố chỉ có giá trị như vòng hoa trang trí trên các nấm mồ. Không thể tiêu phí cuộc sống bởi những cánh hoa tàn héo, những tối tăm, lầm lạc của quá khứ, mà phải hướng tới ngày mai.
Vành trăng thượng tuần lên cao hơn, tách khỏi vòm lá đen. Những ngôi sao không còn im lìm mà tỏa ánh lấp lánh. Chúng làm bắn tóe ra xung quanh từng chùm kim bạc. Tôi kéo vạt áo, tì cằm vào lòng bàn tay. Phút ấy, tôi mơ tới bóng mát của giảng đường. Tôi mơ tới phi trường xa xôi, nơi những chuyến bay cất cánh và hạ cánh.
~~~Hà Nội 10-6-1988
@by txiuqw4