- Mẹ!
Thoa quay lại. Bé Hạnh trông thật nhếch nhác, quần áo lấm đầy bùn đất, mồ hôi, mồ kê nhễ nhại. Chị gần như vồ lấy con:
- Sao con lại về? Con đi với ai?
- Con đi một mình!
- Con đi bộ từ ga Vũ Ẻn về đây à?
- Vâng. Mẹ ơi, con đói lắm? Nhà còn gì ăn không mẹ?
- Mẹ dọn bánh sắn cho con ăn nhé? Từ ga về đây con không sợ lạc đường à?
- Con hỏi thăm, mẹ ạ.. Con đói quá!
Nhìn con bé ăn ngấu nghiến. Chị rất thương con. Tại sao lại xảy ra cơ sự này? Chị nhớ hôm tiễn con, con bé khóc không muốn xa mẹ, xa em và sắp được ở chung với bà ngoại. Hạnh rất yêu bà. Từ 1 đến 4 tuổi, Hạnh sống chung với bà nên hai bà cháu quấn quýt không chịu rời nhau. Chị và bác chủ tịch nông trường Nguyễn Thắng phải động viên mãi, Hạnh mới vui vẻ lên đường. Bác Nguyễn Thắng gửi cháu nhờ một cô cấp dưỡng trong nhà khách của bộ trông nom giúp và thông báo với chị:
- Tôi ở Hà Nội một tuần nhưng bận họp nên ít có thời gian rảnh rỗi để lo cho cháu. Cháu đã có danh sách ở Bộ Giáo dục nhưng còn thiếu thủ tục gì đó. Cô nên thu xếp về Hà Nội để lo cho cháu.
Chị gật đầu chấp thuận nửa vui lòng, nửa miễn cưỡng. Từ ngày lên nông trường, chị không bị ốm và các con chị cũng thuộc loại hay ăn, chóng lớn nhưng chị vẫn lo phòng xa: "Vốn liếng" của chị có 10 ngày phép mỗi năm. Chị thường dùng từ 6 đến 8 ngày phép để đưa hai con về thăm quê ngoại, quê nội, và dành ra vài ngày để trừ vào ngày mẹ ốm, con đau. Nếu chị bỏ ra một tuần lo cho Hạnh, chị sẽ phải hủy bỏ kế hoạch đi phép của năm nay. Chị tặc lưỡi:
- Chắc ông nội, bà ngoại sẽ thông cảm cho mẹ con chị vì chuyện đặc biệt, đột xuất của cháu Hạnh.
Về Hà Nội, chị không biết bấu víu vào đâu ngoài cái số điện thoại của cô Tuyết Mai. Chị đưa con đến trạm khách của Bộ Quốc phòng. Không ai tiếp mẹ, con cô nuôi trẻ của nông trường chè Vân Lĩnh vì cô chả liên quan gì đến quân đội cả. Viên sĩ quan trực ban hỏi chị:
- Cô Tuyết Mai ở đơn vị nào? Cấp bậc gì?
- Tôi không biết.
- Chị bắt chúng tôi tìm một người mà chính chị không rõ cô ấy là ai, ở đâu thì làm sao chúng tôi giúp chị được? Xin lỗi anh ấy tên là gì?
- Là Nguyễn Thanh Bình.
- Anh ấy có đi bộ đội không? Nhập ngũ năm nào? Ở đâu?
Làm sao chị trả lời nổi những câu hỏi này? Chị không biết anh đại úy đang ngồi trước mắt chị là ai nên chị không thể hé lộ điều bí mật về anh. Chị đành tuôn ra những câu nói dối đã trở nên quá quen thuộc với chị:
- Thưa anh! Nhà em bị địch bắt cuối năm 1953. Anh làm ơn gọi số điện thoại này giúp em.
Đại úy trực ban mở danh bạ điện thoại. Anh giật mình vì đây là số điện thoại riêng, "Tối mật" của Cục Tình báo. Anh quay số và đã trả lời với chị vẻ dịu dàng pha chút kính nể:
- Thưa chị. Chị Tuyết Mai đi công tác xa không bàn giao việc của chị cho người khác. Bốn hôm nữa chị Tuyết Mai sẽ có mặt tại Hà Nội.
Đành phải chờ đợi vậy thôi. Ngày hôm sau chị đưa con gái về làng Phượng Vũ. Ngày tiếp theo, hai mẹ con về thăm ông Hòa và họ hàng bên nội. Bố chồng chị dặn:
- Chuyện cháu Hạnh đang gặp trục trặc nên con không cần nói với ai cả. Nếu hết phép, con cứ trở lại nông trường. Thầy sẽ lo cho cháu.
Ngày thứ ba chị đưa con gái về thăm vợ chồng bác Loan. Chị Loan vui lắm, nói với "mợ" Thoa đủ chuyện. Chị rỉ tai “cô em dâu”:
- Có cán bộ tổ chức của nhà máy in Tiến Bộ và cô cán bộ từ nông trường Vân Lĩnh đến gặp anh chị để hỏi về vợ chồng em.
Chị Thoa chăm chú lắng nghe và đã nhận ra cái lý do chị được điều động vào chân nuôi dạy trẻ. Thì ra, nông trường đã có trong tay bằng chứng về chồng chị là Việt gian, làm việc cho nhà binh Pháp, đã tình nguyện theo địch vào Sài Gòn. Chị bị đẩy khỏi nông trường bộ. Nếu không vì hai suất học bổng do Bộ Giáo dục cấp, chắc chắn chị không được đề bạt, lên lương; Chủ tịch nông trường không bao giờ đặt chân tới nhà chị và chị đâu có chỗ ở khang trang như hiện nay.
Chị quay lại trạm khách của Bộ Quốc phòng. Cô Tuyết Mai vẫn chưa về. Không một ai có thể thay thế cô để ra tiếp chị. Chị sốt ruột nhưng không thắc mắc. Chị đã là trinh sát viên, chị hiểu thế nào là hoạt động đơn tuyến. Tuy chị biết chắc cô Tuyết Mai ở Cục Tình báo, cô đã từng là chiến sĩ tình báo hoạt động tại Hà Nội, song chị chưa hề nói với ai điều này. Vắng cô Tuyết Mai, không ai ở Cục Tình báo dám tiếp chị vì đó là nguyên tắc bảo mật, đó là kỷ luật, là nội quy nhằm bảo đảm an toàn tuyệt đối cho đầu mối đang hoạt động trong lòng địch. Chị nắn nót viết lá thư:
"Cô Tuyết Mai!
Chị hết phép nên phải trở lại nông trường. Ông nội sẽ thay chị lo việc cháu Hạnh. Em giúp chị.
Phạm Thị Thoa"
Chị trao thư cho bố chồng:
- Thưa thầy. Cô Tuyết Mai biết rất rõ là chỉ có con, mẹ con và thầy nắm vững điều bí mật về anh Bình. Thầy đến nhà khách của Bộ Quốc phòng nhờ gọi điện thoại cho cô Mai.
Ông Hòa hứa hẹn:
- Con cứ yên tâm về công tác. Đây, thầy gửi cho thằng Thanh quả bóng. Đừng cho nó dang nắng nhiều quá.
Chị Thoa mới về nông trường được năm ngày, tại sao bé Hạnh cũng trở về, lại đi có một mình? Bố chồng chị đã gặp Tuyết Mai chưa? Sao ông nội không đưa cháu gái về với chị? Chị hỏi con gái:
- Ông nội có gửi thư cho mẹ không?
- Không, mẹ ạ! Con trốn ông nội để về với mẹ. Con không học nữa.
Cu Thanh mặc quần đùi, cởi trần, người đẫm mồ hôi, ôm quả bóng tròn, sà đến bên chị:
- Chị về với em à! Hoan hô.
Chị Thoa nạt con trai:
- Thanh! Con đi tắm để mẹ nói chuyện chị Hạnh.
Bé Hạnh kể chuyện khá mạch lạc. Ba ngày liền, ông nội đưa cháu đến nhà khách Bộ Quốc phòng nhưng không gặp được ai. Trong lúc chờ đợi, ông khuyên cháu gái về sống chung với ông, ông sẽ xin cho cháu vào học lớp 4 ở trường cấp I tại quê nội. Hạnh không muốn về với ông. Nếu không được vào trường miền Nam, Hạnh sẽ về nông trường. Hạnh nhớ mẹ, nhớ em Thanh và mơ ước được sống chung với bà ngoại.
Sáng hôm nay, ông gặp cô Tuyết Mai. Nghe cô Mai nói với ông là Hạnh không được nhận vào học, Hạnh tìm đường ra ga Hàng Cỏ mua vé lên tàu về ga Vũ Ẻn. Chị giận con mà cũng thương con. Con chị vì không muốn xa mẹ đã làm một việc quá ư liều lĩnh. Nếu bé Hạnh bị lạc trên tàu hoặc trên đường từ ga Vũ Ẻn về nông trường thì sao?
Chị phân tích cho con:
- Con hư lắm. Con còn trẻ con, con làm cho ông nội, các cô các bác đều lo lắng vì con.
Hạnh cãi:
- Con đã viết thư để lại cho ông rồi.
- Không được! Con phải xin phép ông. Con phải nghe lời ông.
Hạnh sụt sùi:
- Nếu vậy ông sẽ bắt con ở lại Hà Nội. Con phải về mới kịp vào học lớp 4 ở nông trường.
Chị nhớ là sáng mai sẽ khai giảng năm học mới. Chị đấu dịu với con:
- Con đi tắm rửa, thay quần áo để mẹ giặt cho. Con hỏi các bạn cùng lớp xem còn thiếu sách vở gì để mẹ mua.
Đêm hôm đó chị trằn trọc không sao ngủ nổi. Chị nhớ anh quá chừng. Giờ này anh ở đâu, anh đang làm gì? Canh một, canh hai, rồi canh ba trôi qua. Trời! Nếu có anh bên cạnh, chị đâu đến nông nỗi này? Chị không chợp mắt được. Chị lại nghĩ đến làm thơ. Bài thơ "Năm canh" chị tả rất sinh động, nói lên nỗi lòng mình từng giờ, từng phút. Làm sao chị gặp được anh. Chị viết:
Canh tư rồi canh năm trôi qua. Chị ngồi quạt cho hai con; nằm xuống cạnh các con, nghe nhịp thở của từng đứa, rồi lại ngồi tựa cửa ngắm bầu trời, đếm từng ngôi sao, nghe tiếng gà gáy; tiếng các bà gọi nhau đi chợ; các anh trong đội sản xuất rủ nhau ra bãi trồng chè... Lại một đêm chị thức trắng. Cũng may mà cái chu kỳ thao thức trọn đêm chỉ đến với chị mỗi quý một lần, thường là khi nào có suy nghĩ dằn vặt chị. Chị thương bé Hạnh quá! Từ Hà Nội đến nông trường có biết bao chuyện bất trắc sẽ đến với con chị? Nếu cháu bị lạc, gặp tai nạn hoặc có mệnh hệ gì, chị sẽ ăn nói với anh ra sao? Chị phải về Hà Nội gặp cô Tuyết Mai để hỏi cho ra nhẽ. Đang yên, đang lành, sao cô ấy lại bày vẽ ra chuyện này để làm khổ chị. Chị chưa kịp gọi các con dậy, đã nghe tiếng gọi:
- Chị Thoa! Thoa!
Chị sững sờ:
- Thầy! Thầy vào nhà đi.
- Cái Hạnh đâu?
- Cháu đang ngủ ạ?
Ông Hòa thở phào như trút được gánh nặng. Ông trao cho chị tờ giấy đã gập nhỏ:
- Đọc thư cháu, thầy lo quá. Tại sao con bé dám bỏ về một mình? Thầy phải đi tàu đêm lên đây để tìm cháu.
Hạnh - Thanh choàng dậy, chạy ào ra đón ông nội. Ông cốc yêu lên đầu Hạnh:
- Mày bướng bỉnh giống hệt thằng bố mày. Mày làm ông lo cuống cuồng.
Hạnh hôn vào má ông:
- Cháu xin lỗi ông. Cháu đền ông. Ông ơi, hôm nay trường cháu khai giảng, ông ra dự với chúng cháu nhé!
- Ông ơi! Cháu sẽ khao ông bữa canh cua. Cháu bắt cua giỏi lắm.
Thanh khoe:
- Cháu biết câu cá rồi. Ông ơi, các bạn phân công cháu bắt gôn nhưng cháu chỉ thích làm tiền đạo thôi. Ông có thích đá bóng không, ông?
Chị Thoa gạt các con:
- Thôi, để ông nghỉ. Thanh, múc nước để ông rửa mặt.
Hạnh phụ với mẹ làm bánh sắn mời ông. Ông cười khà khà:
- Chiều nay ông bận họp chi bộ.
Ba mẹ con tặng ông một yến sắn để ông đưa về Hà Nội làm quà. Chị Thoa biết là không thể giữ được bố chồng. Chị đề nghị:
- Thầy ngả lưng nghỉ tạm cho đỡ mệt. Con nhờ cậu Nam đèo thầy ra ga.
Ông Hòa tươi cười:
- Cứ có "hai con chó” này ở cạnh là ông hết mệt rồi. Nào, Hạnh hướng dẫn ông làm bánh sắn nhé? Tiếc rằng ông không dự khai giảng với các cháu được và cũng không được ăn canh cua nữa. Thanh này! Cháu cứ chơi tiền đạo tấn công, ông ủng hộ.
Một giờ sau, khi tiễn hai cháu Hạnh, Thanh đi học, ông Hòa kể với con dâu về ý kiến Tuyết Mai. Thì ra, Cục trưởng Cục tình báo bác bỏ chủ trương gửi bé Hạnh vào trường miền Nam. Ông rất có lý khi phân tích:
- Trường miền Nam dành cho con em quê ở miền Nam vào học. Cháu Hạnh quê ở miền Bắc. Cháu vào học là hiện tượng đột xuất. Những ai tò mò chỉ cần tìm lý lịch của cháu là sẽ phát hiện ra bố cháu.
Ông Hòa và chị Thoa đều công nhận lý do không cho cháu Hạnh học trường miền Nam là rất đúng, nhưng biết nói với người ngoài cuộc như thế nào? Lại phải nghĩ ra cách nói dối sao cho hợp lý nhất. Ông Hòa đưa ra gợi ý:
- Ở quê ta không ai biết việc này nên thầy chả cần giải thích. Ở đây, con cứ báo cáo là thiếu thủ tục, giấy tờ.
- Vâng ạ! - Chị Thoa đáp nhưng không tin ở chính mình. Liệu có tai họa nào ập đến với chị nữa không? Chị chợt nhớ đến chuyện khủng khiếp mà chị Loan đã kể cho chị.
@by txiuqw4