sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 24

Đã vào mùa thu năm 1971. Chị Phạm Thị Thoa, hay nói đúng ra là ông Hòa đã giúp cô con dâu, giải quyết được hai việc hệ trọng. Trong những ngày quá vui mừng vì các con trưởng thành, chị Phạm Thị Thoa quên hẳn mình. Tiễn "bé" Thanh vào làm thợ tiện trong nhà máy quân giới X10, chị sung sướng lắm. Ở nước ta, vào những năm chiến tranh, việc tuyển lựa công nhân nhà máy chuyên sản xuất vũ khí rất cẩn thận. Thằng Thanh của chị khó có hy vọng lọt qua mọi thủ tục kiểm tra lý lịch, nếu bố chồng chị không đứng ra bảo lãnh cho cháu đích tôn.

Tiễn con trai đi rồi, chị Thoa lại tiễn con gái về nhà chồng. Băn khoăn duy nhất của chị là anh không có mặt để dự đám cưới con gái và dù rất muốn, người sắp trở thành cô dâu không có cách gì báo tin mừng cho bố, vì không ai biết địa chỉ của bố. Ông Hòa an ủi cô cháu gái.

- Cháu muốn ông hay mẹ cháu thay mặt họ hàng nhà gái?

- Ông ạ!

Ông cười khà khà.

- Ông thay mặt cho cả bố cháu nữa. Chẳng qua là ông muốn có khăn vàng.

Hạnh hỏi lại, vẻ ngớ ngẩn:

- Sao ông lại thích khăn vàng?

Chị Thoa cốc nhẹ lên đầu con, mắng yêu:

- Chị đã hai mươi tuổi, đã về làm dâu nhà người ta sao còn ngốc nghếch thế? Ông nội đang mong có chắt. Chắt sẽ chít khăn vàng để tang cụ.

Hạnh cười, hỏi luôn:

- Nếu con của chắt...

Hạnh lấy tay che miệng vì cho rằng mình đã nói điều gở. Ông nội gật gù:

- Mong sao ông sống tới ngày đó để ông lên chức kỵ và chít của ông sẽ dùng khăn đỏ cho ông.

Tiễn con gái, con trai đi rồi, chị bỗng thấy túp lều trở nên quá rộng, quá trống trải. Vắng hai con, cuộc sống của chị thay đổi hẳn. Chị ăn uống thất thường hơn vì ngại đi chợ, ngại đỏ lửa, chị nấu một bữa ăn hai bữa. Giờ nghỉ, chị dành để chăm vườn rau, chăn nuôi đàn gà. Chị dồn trứng gà để gửi cho vợ chồng con gái hoặc cho Thanh. Hạnh, Thanh rất ái ngại cho mẹ. Hạnh bàn với chồng và em trai về số phận của mẹ. Làm sao cho mẹ khỏi buồn? Đón mẹ lên Đông Anh ở với vợ chồng Hạnh ư? Chắc mẹ không đồng ý bỏ công tác. Mẹ không có nhà ở Hà Nội và mẹ không có ý định về sống chung với ông ở quê nội. Phương án hay nhất là Thanh cưới vợ, lấy cô gái là nông trường viên nhưng cậu ta mới mười tám tuổi. Trước mắt, vợ chồng Hạnh và Thanh phải thay nhau về với mẹ ít nhất mỗi tuần một lần.

Đầu tháng 8 - 1971, chị Thoa được gọi lên phòng tố chức của nông trường. Ông trưởng phòng, mặt lạnh như tiền, trao cho chị quyết định:

- Lãnh đạo nông trường đã quyết định chị nghỉ mất sức lao động. Chị về trạm xá bàn giao công tác.

Chị Thoa đứng lặng. Mất một phút chị không có phản ứng gì, không nói được lời nào. Thời đó, tuy có thói quen phục tùng tuyệt đối mọi đòi hỏi của tổ chức song chị Thoa vẫn đưa ra câu hỏi:

- Tôi bảo đảm đủ ngày công. Tôi không ốm sao lại về mất sức?

- Đợt này nông trường ta giải quyết chế độ không phải cho một mình chị mà cho nhiều người khác. Bác sĩ kết luận là chị bị sút cân, luôn mất ngủ.

Điều này thì chị Thoa không chối cãi. Từ ngày vắng hai con, chị gầy tới ba kí-lô-gam, da chị xanh hơn, ăn kém ngon, ngủ không đẫy giấc nhưng chị chưa bỏ buổi nào. Chị đề nghị:

- Sang năm tôi tròn năm mươi tuổi, đúng tuổi về hưu của nữ. Tôi muốn ở lại công tác mấy tháng nữa để nhận chế độ hưu.

Ông trưởng phòng lắc đầu, giọng cương quyết:

- Xin chịu. Chúng tôi không dám chống lại ý kiến của chuyên môn.

Chị Thoa tủi thân quá! "Sao người ta lại đẩy chị về vào thời điểm này?" Chị thiệt thòi quá! Sau mười bảy năm công tác liên tục, chị lên được một bậc lương, chị có nên phát biểu về vấn đề này không? Liệu bạn bè, lãnh đạo có lên án chị là cá nhân chủ nghĩa, là đòi hỏi hưởng thụ không? Gần đây, chị được xem văn bản quy định chính sách của Nhà nước ta. Nếu chị ở lại công tác khoảng nửa năm nữa, chị sẽ được hưởng chế độ hưu với mức thu nhập hàng tháng bằng 70% mức lương mà chị đang nhận.

- Các anh đã quyết định, tôi xin chấp hành. Tôi muốn xin lại hồ sơ của mình.

Ông trưởng phòng dễ dãi.

- Có ngay. Xin đáp ứng yêu cầu của chị.

Về nhà, chị nằm vật ra giường, trăn trở. Chị mở tập hồ sơ ra xem. Bất ngờ, chị đọc lại lá đơn xin vào Đảng của chị, có kèm theo lý lịch, nhận xét của chi bộ, ý kiến người giới thiệu thứ nhất; thứ hai. Chị thực sự đau xót, tới mức không tin ở mắt mình khi đọc ở góc tờ đơn có vẻn vẹn ba chữ: "Gác lại - Yếu". Ai đã viết nhận xét này? Chị chưa từng nghe phổ biến là chị còn yếu về lập trường quan điểm; về tinh thần công tác; về lý lịch hay về sức khỏe? Có lẽ chị yếu toàn thân. Vấn đề đó lúc này không cần thiết nữa mà quan trọng nhất là cuộc sống tương lai của chị. Chị có nên về Hà Nội không? Cái "hợp đồng bằng miệng" giữa chị và cô Tuyết Mai vẫn còn giá trị vì anh vẫn công tác trong lòng địch, cái nguy cơ địch phát hiện ra anh vẫn còn và cái lý do mẹ con chị không nên ở Hà Nội vẫn chưa thay đổi. Không một ai giúp chị điều nhỏ bé đó. Cô Tuyết Mai không còn giữ mối liên hệ với chị và thật tiếc là chị không lần nào thấy anh trong mơ: Anh ở đâu, anh còn chung sống với Cẩm Nhung không? Anh đang giữ trọng trách hay bị địch bắt? Chao ôi, giá có ai làm phúc, làm đức bịa ra chút tin tức gì về anh cho chị, chị sẽ hạnh phúc biết bao! Như người đang sắp chết đuối, chị muốn có cái phao hoặc tối thiểu là một cọng rơm để nuôi hy vọng sống nhưng chuyện lạ đó không đến với chị. Chị phải sống ở nông trường, phải gạt bỏ sang bên ý định quay về Hà Nội vì cần phải bảo vệ an toàn tuyệt đối cho anh.

Đã sang năm 1972. Vợ chồng Hạnh cùng với Thanh cố thuyết phục mẹ rời về Đông Anh. Chị từ chối:

- Mẹ không muốn rời nông trường. Ở đây mẹ có nhiều bạn đã chung sống gần hai chục năm. Mẹ tiếc nương sắn, vườn rau, đàn gà lắm. Cái Hạnh cứ lên đây mà đẻ, mẹ sẽ chăm sóc cả hai mẹ con.

Hạnh đưa mắt cho em trai. Cái lý do chủ yếu mà ba "nhà thuyết khách" dựa vào để thuyết phục mẹ là "ngày sinh con của Hạnh, vợ chồng Hạnh cần được bà trông nom cháu ngoại" đã bị bà đề cập đến trước. Đón được ý định của chị, Thanh lên tiếng:

- Mẹ! Nhà máy X10 của con ở gần Phủ Lỗ. Nếu mẹ về sống chung với chị Hạnh, ngày nào con cũng về thăm mẹ được.

Mẹ hỏi lại:

- Nếu nhà máy con được lệnh sơ tán thì sao?

Mẹ gợi ý:

- Giặc Mỹ chưa ngừng ném bom. Đông Anh và nhà máy quân giới của Thanh đều là trọng điểm. Mẹ cứ giữ chỗ ở tại nông trường làm hậu cứ cho gia đình chúng ta.

Ý kiến mẹ khá chính xác. Trước ngày Mỹ ném bom B52 xuống Hà Nội, Hạnh sinh con đầu lòng. Chị Thoa mừng đón cháu ngoại song từ trong thâm tâm cộm lên điều gì đó khá trớ trêu. Chị không góa chồng, vợ chồng chị không ly hôn, tại sao chồng chị không có mặt ở đám cưới con và cũng không được bế ẵm cháu ngoại? Đâu phải chồng chị đã chết hay hai vợ chồng có điều gì giận dỗi nhau? Anh và chị rất yêu nhau; anh và chị đang sống trên cùng một đất nước ở cách xa nhau chưa đến hai ngàn km mà chị không sao gặp được anh hoặc có chút tin tức gì về anh. Anh và chị đã xa nhau mười tám năm đằng đẵng. Chị là người. Chị có trái tim, khối óc và đôi chân khỏe mạnh nên chị dư sức cuốc bộ ngày hai lăm ki-lô-mét. Tại sao chị dại dột không tìm đến với anh? Anh còn nhớ hay đã quên mẹ con chị? Ngày nào chia tay, Hạnh chưa tròn bốn tuổi, tóc chị còn đen. Giờ đây, chị đã về mất sức, mái tóc có nhiều sợi bạc và bé Hạnh năm nay đã lên chức mẹ, sao anh vẫn chưa về? Anh ở đâu? Anh có biết là đã lên chức ông ngoại rồi không?

Cuối năm 1972, cụ Hòa lên Đông Anh thăm chắt nội. Cụ bàn với con dâu:

- Thầy quen với mấy ông cấp tá, cấp tướng bên quân đội tham gia ban Liên hợp quân sự bốn bên. Các ông ấy vào Sài Gòn. Thầy định đề nghị họ chú ý tìm chồng con.

Chị nên đồng tình hay phản đối bố chồng? Ông Hòa đã sang tuổi bảy mươi rồi. Ông đã xa con trai cả, người con sẽ kế vị ông già ngôi trưởng tộc từ sau ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946). Ông đã gần đất, xa trời rồi. Sau hai mươi bảy năm không gặp mặt con trai, ông nôn nóng nhận được chút tin tức gì đó của con nên ông không bỏ qua cơ hội mà ông đã nắm được. Chị Thoa từ tốn:

- Thưa thầy. Anh Bình con trèo cây đã gần ngày ăn quả rồi, nếu con và thầy nôn nóng sẽ ảnh hưởng tới anh. Con nghĩ là thầy chỉ nên chọn một đầu mối, một người tin cậy nhất để nhờ vả. Hay là thầy gọi điện thoại cho Tuyết Mai, nhờ cô ấy giúp.

Ông Hòa trầm ngâm:

- Có lẽ con đúng. Thầy thương con lắm! Vợ chồng con cách biệt tới mười tám năm rồi. Thầy cũng già yếu hơn trước nên mong gặp được chồng con trước ngày thầy nhắm mắt, xuôi tay. Thầy không nghĩ sâu xa được như con. Thầy muốn con rời bỏ nông trường để về quê ta hoặc về Đông Anh với vợ chồng cháu Hạnh. Con cũng có tuổi rồi. Ở nông trường, con không có ai là họ hàng thân thích để nhờ vả lúc tắt lửa, tối đèn.

- Con xin nghe lời thầy.

Chị Thoa đã tính toán kỹ. Chị chưa định chia tay với nông trường. Chị kiểm kê tài sản của mình. Cái chum đựng nước bị vỡ một miếng chắc chả ai thèm rước đi. Chị đẩy cái thùng đựng gạo đã vét đến hạt cuối cùng vào gầm giường. Chị đưa đôi chiếu, bát, đĩa, hai cái nồi gửi bên hàng xóm. Chị xếp cái chăn bông, ba lô quần áo vào một bên, bên kia là cái lồng gà có bảy con gà mái, đôi gà trống thiến. Chị sẽ gánh bộ ra ga Vũ Ẻn rồi xuôi tàu về Đông Anh. Cũng như nhiều cán bộ khác, thời đó không ai nghĩ tới giầu, nghèo và chả ai lo đói.

Đầu tháng 4 năm 1973, Phạm Thị Thoa về ngoại thành Hà Nội thăm bố chồng và họ hàng bên nội. Ông Hòa buồn bã báo tin:

- Không ai biết tin chồng con cả. Chả nhẽ...

Từ nhiều năm qua, ông Hòa thường lởn vởn ý nghĩ là con ông đã hy sinh. Không dưới một lần, ông định khuyên con dâu đi bước nữa nhưng có cái gì cứ chẹn ngang cổ họng ông, khiến ông không thốt nên lời. Lần này, ông buột miệng nói đến cái điều mà ông không bao giờ mong là sẽ xảy ra. Đón được ý bố chồng, chị Thoa gượng cười:

- Con tin là nhà con rất an toàn. Nếu anh ấy có mệnh hệ gì, cô Tuyết Mai phải tìm đến con rồi.

- Thầy rất mong ngày vợ chồng con đoàn tụ. Từ ngày con về làm dâu đến ngày con lên chức bà ngoại, thầy chưa thấy vợ chồng con gần nhau hạnh phúc phút nào. Thầy cám ơn con.

- Xin thầy tha lỗi cho con. Con về làm dâu nhưng phụng dưỡng thầy được ít quá. Con rất áy náy.

- Ơn trời, thầy còn khỏe mạnh. Thầy vui vì có các em gái, em trai của chồng con săn sóc chu đáo. Thầy luôn nghĩ đến con. Con thật là tội nghiệp, đáng thương. Con hy sinh tuổi thanh xuân của con để chờ đợi chồng con.

Giọng ông Hòa trầm trầm song toát lên tình thương và niềm thông cảm đặc biệt với hoàn cảnh con dâu. Phạm Thị Thoa xúc động lắm. Đây là phần thưởng vô giá đối với chị. Chị nói với bố chồng:

- Thưa thầy, con tự nguyện hy sinh vì nhiệm vụ của chồng con. Con tự hào và không chút ân hận về việc con đã làm.

- Cám ơn con!


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx