sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Phía sau cánh cửa - Chương 05 phần 1

Chương 5 - CUỘC SĂN CỦA BÁ TƯỚC ZAROFF

Richard Connell

Đ ằng kia, đâu đó bên hướng phải, có hòn đảo lớn, Whitney nói. Đảo khá bí ẩn...

- Đảo gì vậy? Rainsford hỏi.

- Trên bản đồ cũ, đảo mang tên: Bẫy Tàu, - Whitney trả lời. Một cái tên đầy ý nghĩa, đúng không? Thủy thủ sợ đảo này một cách lạ lùng. Tôi không biết lý do. Chắc là mê tín dị đoan gì đó...

- Tôi không thấy đảo, Rainsford nhận xét và cố nhìn qua màn đêm nhiệt đới.

Không khí ẩm bao trùm cái bóng dày ấm lên tàu khiến màn đêm như chạm vào được.

- Mắt anh tinh lắm mà, Whitney cười nói. Tôi từng chứng kiến anh thấy được một con nai sừng tấm đang di chuyển sau bụi rậm cách đớ hơn ba trăm mét. Nhưng tầm nhìn ta không thể vượt được sáu cây số vào một đêm không trăng ở biển Caraibes.

- Sáu mét còn không nổi nữa, - Rainsford thừa nhận. Gớm! Y như nhung lụa bị ướt.

- Ở Rio sẽ sáng hơn, Whitney hứa. Vài ngày nữa là ta đến. Hy vọng súng săn beo đã đến nhà Purdey rồi. Chắc là ta sẽ có vài cuộc săn thú vị khi đi ngược dòng sông Amazone. Săn bắn là môn thể thao tuyệt vời.

- Đó là môn thể thao tuyệt nhất thế giới, Rainsford đồng tình.

- Đối với người săn thôi, Whitney chỉnh. Chứ không hay đối với con beo.

- Whitney, anh đừng như thế, Rainsford nói. Anh săn thú to, chứ đâu phải làm triết lý. Ai thèm quan tâm đến cảm xúc con beo làm gì?

- Có thể chính nó, Whitney nhận xét.

- Ôi! Nó đâu đủ thông minh.

- Tôi nghĩ beo hiểu được ít nhất một điều: nỗi sợ hãi. Sợ đau và sợ chết.

- Vớ vẩn! Rainsford cười nói. Trời nóng làm lòng anh yếu mềm đi, Whitney à. Anh hãy thực tế lên đi chứ. Thế giới này chia làm hai loại: kẻ săn và kẻ bị săn. May mắn thay, anh và tôi thuộc nhóm kẻ săn. Anh nghĩ ta đã vượt qua đảo chưa?

- Tôi cũng không biết nữa, trời tối quá. Hy vọng là qua rồi.

- Tại sao? Rainsford hỏi.

- Nơi đó có tiếng... có tiếng xấu.

- Thổ dân ăn thịt người hả? Rainsford gợi ý.

- Không hẳn vậy. Cả dân ăn thịt người cũng không chịu ở một nơi đã bị các thần linh lãng quên như thế này. Nhưng không hiểu tại sao, đám thủy thủ lại biết đảo này. Anh có để ý thấy hôm nay họ hết sức căng thẳng không?

- Có, bây giờ nghe anh nói, thì đúng là tôi thấy đám thủy thủ hơi lạ. Chính thuyền trưởng Nielsen...

- Đúng, ông già Thụy Điển chai dạn kia, dám đi xin quỷ châm lửa giùm điếu thuốc, mà cũng sợ. Cặp mắt xanh lạnh lẽo của ông có một ánh nhìn mà tôi chưa bao giờ thấy trước kia. Tôi chỉ moi được ông mỗi câu: “Thưa ông, chỗ này có tiếng xấu trong giới đi biển.” Rồi ông còn nghiêm trang nói với tôi: “Ông không cảm thấy gì sao? Như thể không khí xung quanh ta thật sự hôi thối.” Vậy mà anh đừng cười tôi nếu tôi thú thật với anh điều này: đột nhiên tôi cảm nhận một cái gì đó khiến tôi lạnh người. Trời đứng gió. Biển phẳng lặng như tấm gương. Khi đó ta đang đến gần đảo. Khi đó, điều mà tôi cảm nhận, cái lạnh giá ấy, trong đầu tôi là một nỗi kinh hoàng đột ngột.

- Trí tưởng tượng thuần túy! Rainsford nói. Nỗi sợ hãi của một thủy thủ cũng đủ lây cho mọi người trên tàu.

- Có thể. Nhưng đôi khi, tôi tin rằng dân thủy thủ có một giác quan đặc biệt báo động cho họ về mối nguy hiểm. Có lúc tôi nghĩ rằng sự nguy hiểm là một cái gì đó hữu hình, có tần số, giống như ánh sáng và âm thanh vậy đó. Có thể nó là một nơi bị nguyền rủa có khả năng toả những rung động tinh quái. Nói gì thì nói, tôi lấy làm mừng rằng ta đang xa dần khỏi khu vực xấu xa này. Chắc là tôi về phòng thôi, Rainsford à.

- Tôi không buồn ngủ, Rainsford nói. Tôi sẽ ra boong sau hút thêm một ống điều nữa.

- Vậy thì chào nhé. Sáng mai gặp lại tại bàn ăn sáng.

- Chào. Chúc anh ngủ ngon, Whitney à.

Trong khi Rainsford ngồi đó, không có một tiếng động nào làm xáo động đêm khuya, ngoại trừ tiếng động khẽ của máy tàu và tiếng vỗ bập bềnh nhẹ của sóng biển.

Rainsford nằm trên chiếc ghế dài kéo vài ngụm thuốc từ ống điếu bằng rễ thạch thảo. Sự đờ đẫn thú vị của đêm khuya đè nặng lên Rainsford.

“Trời tối đen đến nỗi tôi có thể ngủ mà không nhắm mắt, Rainsford nghĩ. Màn đêm sẽ là mí mắt của tôi.”

Tiếng động đột ngột khiến Rainsford giật mình. Anh nghe thấy thứ tiếng đó ở xa đằng kia, phía bên tay phải. Đôi tai sành sỏi của anh không thể lầm được. Anh nghe lại cũng âm thanh đó, thêm một lần, rồi một lần nữa. Ở một nơi nào đó đằng xa, trong bóng tối, có người đã bắn ba phát súng.

Rainsford tò mò đứng phắt dậy, chạy ra bờ thành tàu. Anh ra sức nhìn về hướng nghe mấy phát súng, nhưng cứ như cố nhìn xuyên qua một tấm chăn. Anh nhảy lên bờ thành tàu, đứng cân bằng trên đó để có thêm độ cao. Ống điếu của anh va vào sợi dây, văng ra khỏi miệng anh. Anh nhào ra phía trước để toan chụp ống điếu lại. Anh kêu lên một tiếng ngắn và khàn khi nhận ra mình đã ra quá nhiều và bị mất thăng bằng. Tiếng kêu bị ngắt hẳn bởi làn nước biển Caraibes, ấm nóng như máu, khép lại trên đầu anh.

Rainsford vùng vẫy để trở lên mặt nước và cố la thật to, nhưng những ngọn sóng tạo ra do chiếc tàu chạy nhanh quật vào mặt anh, rồi khi anh há miệng ra, nước mặn trào vào làm anh ngộp. Rainsford ra sức bơi về hướng đèn tàu đang chạy xa dần, nhưng dừng lại khi đã đi được khoảng năm mươi mét. Anh đã lấy lại được bình tĩnh: đây không phải là lần đầu tiên anh rơi vào một tình huống khó khăn. Có cơ may trên tàu nghe tiếng la của anh, nhưng cơ may này rất nhỏ và đang giảm dần khi tàu chạy tiếp con đường của nó. Rainsford cực nhọc cởi hết quần áo và hét thật to. Ánh đèn tàu chỉ còn là những vệt mờ nhạt. Rồi màn đêm xoá hẳn đèn tàu.

Rainsford nhớ lại tiếng súng, xuất phát từ phía bên phải. Thế là anh cương quyết bơi về hướng đó, bơi những sải dài và đều đặn để giữ gìn sức lực. Suốt một thời gian như bất tận, Rainsford chống chọi lại với biển cả. Anh bắt đầu tuyệt vọng đếm từng sải bơi; có thể anh sẽ bơi thêm được mười sải nữa, rồi...

Rainsford nghe một tiếng động như chui ra từ bóng đêm; một tiếng hét cao thé, tiếng thét của một con thú đang khiếp sợ ở mức tột đỉnh.

Rainsford không nhận dạng được con thú thốt ra âm thanh đó; anh không cố gắng nhận ra. Như có thêm nguồn sinh lực, anh bơi về hướng tiếng la đó. Một lần nữa, tiếng hét vang lên, rồi bị cắt ngang bởi một tiếng khác, đứt đoạn và sẵng.

- Khẩu súng lục, Rainsford nói khẽ rồi bơi tiếp.

Sau mười phút nỗ lực bơi, tai Rainsford lại nghe được một tiếng động khác, dễ chịu vô cùng: tiếng rì rào khẽ và tiếng sóng gầm gừ vỗ vào đá trên bờ. Rainsford rơi vào đá hầu như trước khi kịp nhìn thấy chúng; nếu đêm tối hơn, thì anh đã bị dập nát rồi. Rainsford dùng hết sức lực còn lại để thoát khỏi dòng nước. Những tảng đá gồ ghề nhọn như hiện lên trong bóng đêm mờ ảo; Rainsford mệt nhọc leo lên trên đỉnh. Anh đứt hơi lên đến một chỗ bằng phẳng, hai bàn tay rát đau. Rừng rậm dày đặc trải dài theo bờ vách đá. Những bụi cây chằng chịt kia chứa đựng nguy hiểm gì dây? Hiện Rainsford không thèm để ý đến. Anh chỉ biết mình đã thoát được kẻ thù biển cả và đang kiệt sức. Rainsford thả mình nằm bên rìa rừng rậm rồi chìm vào một giấc ngủ say nhất chưa từng biết.

Khi mở mắt ra, xét theo vị trí mặt trời, Rainsford nhận thấy đang là đầu giờ chiều. Giấc ngủ đã giúp anh được hồi sức; anh đang cảm thấy đói bụng dữ dội. Anh nhìn xung quanh, với một niềm vui sướng nào đó.

- Ở chỗ có tiếng súng lục, thì có người. Ở chỗ có người, thì có thức ăn, Rainsford nghĩ bụng. Nhưng loại người như thế nào, Rainsford tự hỏi, ở một nơi rùng rợn như thế này ?

Dãy rừng chằng chịt liên tục viền dọc theo bờ biển.

Rainsford không thấy đâu đường mòn nào trong mớ cây và cỏ đó. Đi dọc theo bờ biển dễ hơn; Rainsford lội bì bõm trong nước. Anh dừng lại không xa chỗ anh đã lên bờ.

Một sinh thể bị thương, có lẽ là một con thú to xét theo dấu vết, đã xông vào bụi cây. Cây cỏ bị đè nát và lớp rêu bị rách. Tại một điểm, có một vệt đỏ sậm trên cỏ. Một vật sáng sáng thu hút sự chú ý của Rainsford. Đó là một vỏ đạn trống không.

- Đạn hai mươi hai ly, Rainsford nhận xét. Lạ thật. Bởi vì chắc con thú to lắm. Chắc người săn phải gan dạ lắm mới dám tấn công nó bằng súng cỡ nhỏ như thế. Rõ ràng con thú đã tự vệ. Có lẽ ba phát súng mà mình nghe đã được bắn trong khi người săn đuổi theo con thú cho đến đây rồi kết liễu nó.

Rainsford xem xét thật kỹ nền đất và phát hiện cái mình muốn tìm: dấu vết ủng săn. Dấu chân quay về hướng vách đá và đi theo hướng mà Rainsford đã đi. Rainsford nóng lòng háo hức bước đi nhanh, đôi khi bị trượt trên một cành cây mục hay một cục đá rung rinh, nhưng anh vẫn tiến tới. Màn đêm bắt đầu rơi xuống đảo.

Bóng tối buồn tẻ bao trùm lên biển và rừng khi Rainsford nhìn thấy ánh đèn. Rainsford tìm ra ánh sáng ở một khúc quẹo bờ biển. Thoạt đầu anh nghĩ mình đang đứng trước một ngôi làng, bởi vì có rất nhiều ánh sáng. Nhưng khi tiến tới, Rainsford sửng sốt thấy rằng tất cả mọi điểm sáng đó xuất phát từ một tòa nhà to tướng và cao lớn, có những tháp nhà đâm sâu lên cao vào bóng đêm. Mắt Rainsford nhìn ra đường nét mơ hồ của một tòa lâu đài vĩ đại sừng sững trên một vách đá cao. Ba mặt lâu đài đều có đá đâm sâu đến tận chỗ sóng biển vỗ vào.

- Ảo ảnh, Rainsford tự nhủ.

Nhưng khi mở cổng có song sắt to lớn, anh nhận ra đó không phải ảo ảnh. Các bậc thềm bằng đá là thật; cánh cửa đồ sộ có cái búa gõ hình quỷ cười khẩy cũng là thật, tuy nhiên bao trùm trên mọi thứ vẫn có một cái gì đó không thực.

Rainsford nhấc búa gõ cửa lên, nó hơi gắt và kêu cọt kẹt như thể chưa bao giờ được dùng cho đến nay. Rainsford thả nó rơi xuống và giật mình khi nghe gầm vang lên. Một lần nữa, Rainsford nhấc búa gõ lên, rồi thả rơi xuống. Khi đó cánh cửa mở ra, mở ra đột ngột như có lò xo, và Rainsford đứng yên hấp háy mắt trước ánh sáng vàng mạnh tràn ra. Điều đầu tiên Rainsford nhìn thấy là một người đàn ông, một người to lớn, rắn chắc, có bộ râu đen dài đến tận thắt lưng. Người đàn ông cầm trong tay một khẩu súng lục nòng dài chỉ thẳng vào tim Rainsford.

Trong mớ lông rậm phủ mặt ông, có hai con mắt nhỏ đang nhìn Rainsford.

- Xin anh đừng sợ, Rainsford nói với một nụ cười thật dễ thương. Tôi không phải là kẻ trộm; tôi bị rơi từ một chiếc tàu. Tên tôi là Sanger Rainsford, đến từ New York City.

Ánh nhìn người đàn ông vẫn hung hăng.

Khẩu súng vẫn chĩa đến cứng đờ như thể tên khổng lồ này là một pho tượng. Không có gì để lộ rằng ông hiểu lời nói của Rainsford, hay thậm chí rằng ông nghe thấy lời anh nói. Ông mặc bộ đồng phục màu đen có lông xám.

- Tôi là Sanger Rainsford, từ New York, Rainsford nhắc lại. Tôi bị rơi xuống biển từ một chiếc tàu. Tôi đói bụng.

Thay vì trả lời, người đàn ông dùng ngón tay kéo cái bậc búa súng lên. Rainsford thấy ông đưa bàn tay không cầm súng lên trán để chào theo kiểu quân đội. Ông chập hai gót chân lại với nhau kêu đánh cách, rồi đứng nghiêm. Một người đàn ông khác đang bước xuống cầu thang rộng lớn bằng đá hoa cương. Ông nói bằng một giọng kiểu cách, có lai giọng nước ngoài nhẹ làm nổi bật cách nói chậm rãi và chính xác cố tình của ông:

- Thật là vinh hạnh và thích thú khi được đón tiếp tại nhà ông Sanger Rainsford, nhà săn bắn lừng danh.

Theo bản năng, Rainsford bắt tay ông.

- Tôi đã đọc quyển sách của ông về chuyện săn beo tuyết ở Tây Tạng, người đàn ông giải thích. Tôi là đại tá Zaroff.

Điều đập vào mắt Rainsford trước tiên là cái đẹp rất đặc biệt của người đàn ông này, sau đó là nét độc đáo, gần như lạ lùng của gương mặt ông ta. Đó là một người đàn ông cao lớn, chắc đã nhiều tuổi, vì mái tóc ông bạc trắng. Nhưng chân mày rậm, cũng như bộ ria nhọn của ông lại đen thui như màn đêm mà Rainsford vừa mới thoát ra được. Mắt ông cũng đen, hai gò má cao, mũi thẳng, gương mặt gầy, nước da không trắng lắm, diện mạo của một người quen chỉ huy: gương mặt của một nhà quý tộc. Đại tá quay sang con người khổng lồ mặc đồng phục ra hiệu. Tên khổng lồ cất súng, chào kiểu quân đội rồi rút lui.

- Ivan là một người có sức mạnh phi thường, đại tá nhận xét, nhưng rất xui là anh ấy bị câm và điếc. E rằng anh hơi khờ, nhưng rất hung dữ như người thuộc chủng tộc đó.

- Anh ấy là người Nga à?

- Lính Cô dắc, đại tá cười để lộ môi đỏ và răng nhọn. Tôi cũng vậy. Nhưng, - ông nói, ta không nên đứng ở đây nói chuyện. Ta sẽ có dịp nói chuyện sau. Hiện anh cần quần áo, thức ăn và nghỉ ngơi. Anh sẽ có tất cả. Chỗ này nghỉ ngơi rất tốt.

Ivan đã xuất hiện lại, và đại tá nói chuyện với Ivan bằng cách nhấp nháy môi mà không thốt ra âm thanh nào.

- Ông Rainsford à, xin mời ông cứ đi theo Ivan, đại tá nói. Tôi sắp ăn cơm tối, thì ông đến. Tôi sẽ chờ ông. Tôi nghĩ ông sẽ mặc vừa quần áo của tôi.

Rainsford bước theo tên khổng lồ im lặng vào một gian phòng rộng mênh mông có xà lộ rõ trên trần và có một cái giường có thể chứa sáu người. Ivan soạn một bộ complê mặc buổi tối. Khi mặc vào, Rainsford thấy bộ đồ xuất xứ từ một nhà may ở Luân Đôn, mà nhà may này chỉ dùng kéo và kim may để phục vụ những người tối thiểu phải có chức công tước.

Phòng ăn, nơi Ivan dẫn Rainsford vào, đáng chú ý ở nhiều mặt. Nó lộng lẫy theo kiểu trung cổ và làm ta nghĩ đến phòng lớn của một vị nam tước thời phong kiến, với tường lát gỗ sồi, trần nhà rất cao, cái bàn rộng có thể cho bốn chục người ngồi. Xung quanh phòng ăn, nhìn thấy đầu nhồi rơm của đủ loại thú: sư tử, cọp, voi, tuần lộc, gấu, loại lớn nhất, hoàn hảo nhất mà Rainsford từng thấy. Đại tá ngồi ở cái bàn lớn, một mình.

- Uống một ly cốc tai, ông Rainsford nhé, đại tá gợi ý.

Ly cốc tai tuyệt hảo, và Rainsford để ý rằng toàn bộ đồ dùng: náp bàn, khăn ăn, muỗng nĩa bạc, đồ sứ đều hết sức tinh xảo.

Rainsford và đại tá ăn món súp yêu thích của người Nga, món súp đậm đà, đỏ, có kem hơi chát. Đại tá Zaroff nói như để xin lỗi:

- Chúng tôi đã cố gắng hết sức để lưu giữ được những tiện nghi của nền văn minh. Tôi xin ông bỏ qua những điều không phải. Chúng tôi ở quá xa đường xá mà! Ông có cho rằng rượu sâm banh bị dở đi do vận chuyển xa không?

- Hoàn toàn không, Rainsford tuyên bố.

Rainsford thấy đại tá là một chủ nhà nhã nhặn, chăm lo cho khách. Tuy nhiên có một cái gì đó khiến Rainsford thấy khó chịu. Mỗi khi ngước mắt lên khỏi dĩa, Rainsford thấy đại tá đang quan sát mình, ước chừng giá trị của mình.

- Có thể ông ngạc nhiên rằng tôi biết tên ông, đại tá Zaroff nói. Đó là vì tôi đã đọc mọi quyển sách đã xuất bản về đề tài săn bắn, bằng tiếng Anh, Pháp, Nga. Tôi chỉ có một niềm đam mê trong đời: săn bắn!

- Đại tá có những con thú tuyệt đẹp, Rainsford vừa ăn món thịt bò nấu rất khéo vừa nói. Con trâu ở Cap kia là con lớn nhất tôi từng được thấy.

- Ô! con này, thưa ông, là con quái vật...

- Tôi luôn cho rằng, Rainsford nói, trong số thú săn to, con trâu ở Cap là loại nguy hiểm nhất.

Đại tá không trả lời ngay. Đại tá mỉm cười với nụ cười kỳ lạ trên cặp môi đỏ.

- Không phải, thưa ông, ông lầm rồi; trâu ở Cap không phải là loại thú săn nguy hiểm nhất đâu.

Đại tá uống rượu vang từng hớp nhỏ.

- Tại đây, trong khu bảo tồn của tôi, tôi săn một loại thú nguy hiểm hơn nhiều.

Rainsford tỏ ra ngạc nhiên.

- Trên đảo này có thú săn to à?

Đại tá gật đầu.

- Thứ to nhất.

- Thế à?

- Ồ, dĩ nhiên, nó không sống tự nhiên. Tôi phải đưa nó lên đảo.

- Thưa đại tá, vậy đại tá đã du nhập loại thú săn nào vậy? Rainsford hỏi. Cọp à?

Đại tá mỉm cười.

- Không, đại tá nói. Từ nhiều năm tôi đã chán săn cọp rồi. Tôi đã khai thác hết khả năng của loài này. Cọp không còn làm tôi rùng mình nữa. Tôi không phải chịu mối nguy hiểm nào cả. Ông Rainsford à, tôi sống vì nguy hiểm.

- Nhưng loại thú săn nào...? - Rainsford định nói.

- Tôi sẽ nói cho ông biết, đại tá nói. Ông sẽ thấy thích thú, tôi biết, nhưng tôi khiêm nhường thừa nhận rằng có lẽ tôi đã thành công một thứ rất hiếm lạ. Tôi đã phát minh một cảm giác mới mẻ. Tôi rót cho ông một ly rượu khác, ông Rainsford nhé?

- Cám ơn đại tá.

Đại tá rót đầy hai ly rồi nói:

- Chúa đã tạo ra một số người là nhà thơ. Chúa cho một số khác làm vua, số kia làm kẻ hành khất. Còn tôi, Chúa đã cho tôi sinh ra làm kẻ đi săn. Cha tôi từng nói, bàn tay tôi được chế tạo để bóp cò. Cha tôi rất giàu có, sở hữu nửa triệu hécta ở Crimée và là người say mê săn bắn. Tôi chưa đầy năm tuổi, thì cha tặng cho tôi một cây súng nhỏ, chế tạo tại Moskva riêng cho tôi, để tôi bắn chim sẻ. Tôi dùng súng để bắn vài con gà tây được giải của cha; nhưng cha không hề phạt tôi; cha tôi khen tôi bắn chính xác. Tôi giết được con gấu Caucase đầu tiên khi mười tuổi. Cả cuộc đời tôi chỉ là một cuộc săn dài. Tôi gia nhập quân đội; đó là điều mà các con trai gia đình quý tộc phải làm. Suốt một thời gian, tôi chỉ huy một sư đoàn kỵ binh Cô dắc, nhưng việc mà tôi thật sự quan tâm đến vẫn là săn bắn. Tôi đã săn đủ loại thú tại tất cả các nước. Tôi không thể nào nói cho ông tôi đã giết bao nhiêu con thú.

Đại tá hít vào một ngụm thuốc lá.

- Sau khi Sa hoàng sụp đổ, tôi rời bỏ đất nước này. Sĩ quan Sa hoàng không nên ở lại làm gì. Nhiều dòng họ quý tộc đã mất hết gia tài của cải. Còn tôi, cũng may mắn là tôi đầu tư những khoản tiền lớn vào trái phiếu Mỹ, nhờ vậy tôi không phải mở phòng trà ở Monte-Carlo hay làm tài xế taxi ở Paris. Dĩ nhiên là tôi tiếp tục săn: gấu grizzli ở vùng Rocky Mountains nước Mỹ của ông, cá sấu sông Hằng, tê giác Đông Phi. Chính tại châu Phi mà tôi đã bị con trâu ở Cap hành hung, buộc tôi phải nằm liệt giường suốt sáu tháng. Ngay khi lành vết thương, tôi đi săn beo ở vùng Amazone, vì nghe nói chúng đặc biệt tinh khôn. Điều này không đúng lắm. - Đại tá thở dài. - Chúng không hề ngang tầm với trình độ một người săn bình tĩnh có cây súng cỡ to. Tôi bị thất vọng cay đắng. Tôi nằm cả một đêm dưới tấm lều với một cơn nhức đầu dữ dội, thì một suy nghĩ kinh khủng hiện trong đầu tôi. Tôi bắt đầu thấy chán săn bắn! Mà ông hãy nhớ rằng săn bắn là cả cuộc đời tôi. Tôi nghe nói rằng ở Mỹ các doanh nhân suy sụp khi buộc phải từ bỏ công việc từng là cả cuộc đời mình.

- Đúng, chính xác như vậy, Rainsford nói.

Đại tá mỉm cười.

- Tôi không muốn bị suy sụp, đại tá nói cần phải làm một điều gì đó. Mà, ông Rainsford à, tôi có đầu óc phân tích. Có lẽ vì thế mà tôi thấy thích thú các vấn đề trong cuộc săn.

- Có lẽ thế, đại tá Zaroff à.

- Thế là tôi tự hỏi, đại tá Zaroff nói tiếp, tại sao săn bắn không còn làm tôi say mê nữa. Ông Rainsford à, ông nhỏ tuổi hơn tôi nhiều, và ông chưa đi săn nhiều như tôi, nhưng ông có thể đoán ra câu trả lời.

- Câu trả lời là?

- Đơn giản thế này: cuộc săn không thể gọi là thú giải trí nữa. Săn bắn đã trở nên quá dễ. Tôi chưa bao giờ hụt con mồi của tôi. Không có gì buồn chán bằng sự hoàn hảo.

Đại tá châm thêm một điếu thuốc nữa.

- Từ nay không có con thú nào có cơ may sống sót với tôi. Đây không phải là lời nói khoác. Mà là một xác thực toán học. Con thú chỉ có mấy cái chân và bản năng của nó. Bản năng không làm gì được lý trí. Khi ý nghĩ này đến với tôi, tôi xin thề với anh rằng đó là một giây phút bi kịch.

Rainsford say sưa nghe những gì ông chủ nhà nói và cúi qua bàn.

- Tôi đột nhiên hiểu ra mình phải làm gì, đại tá nói tiếp.

- Và đó là gì?

Đại tá mỉm cười, một nụ cười bình thản của một người đã đấu tranh với một chướng ngại vật và đã vượt qua.

- Tôi đã chế ra một loài mồi săn khác.

- Mồi săn khác à? Đại tá nói đùa chứ.

- Không hề, đại tá Zaroff nói. Tôi không bao giờ đùa khi nói về săn bắn. Tôi cần một con thú mới. Tôi tìm ra một con. Thế là tôi mua hòn đảo này, xây ngôi nhà này và săn bắn tại đây. Hòn đảo hoàn toàn phù hợp với ý đồ của tôi. Có rừng rậm là chỗ chứa mê cung, đồi, đầm lầy...

- Nhưng còn con thú, thưa đại tá Zaroff?

- Ồ! Đại tá kêu. Nhờ con thú này mà tôi có những cuộc săn hấp dẫn nhất thế giới. Không có cuộc săn nào so sánh nổi. Mỗi ngày tôi đi săn và tôi không bao giờ thấy buồn chán, bởi vì tôi phải đối phó một loài thú săn mà tôi có thể vận dụng trí thông minh của mình với nó.

Sự chưng hửng hiện rõ trên nét mặt của Rainsford.

- Tôi muốn một con thú săn lý tưởng, đại tá giải thích. Thế là tôi tự hỏi: “Đặc điểm của của một mồi săn lý tưởng là gì?” Và dĩ nhiên câu trả lời là nó phải dũng cảm, mưu trí và trên hết là có khả năng suy luận.

- Nhưng không có con thú nào có khả năng suy luận, Rainsford bắt bẻ.

- Ông Rainsford à, có một con, đại tá nói.

- Nhưng đại tá không định nói đến...

- Rainsford không dám nói tiếp.

- Tại sao không?

- Tôi không thể tin ông nói nghiêm túc, đại tá Zaroff à. Đây là một trò đùa rùng rợn.

- Tại sao tôi không thể nghiêm túc? Tôi đang nói về săn bắn mà.

- Săn bắn à? Chúa ơi, đại tá Zaroff, ông đang nói về chuyện sát nhân thì đúng hơn.

Đại tá Zaroff cười hết sức vô tư và ranh mãnh liếc nhìn Rainsford.

- Tôi không thể tin rằng một chàng trai trẻ hiện đại và văn minh như ông lại có thể nuôi giữ những suy nghĩ lãng mạn như thế về nhân mạng. Chắc chắn kinh nghiệm về chiến tranh...

Đại tá dừng lại.

- ... đã không khiến tôi có thái độ khoan dung đôi với chuyện sát nhân có cân nhắc, Rainsford khó chịu nói hết câu.

Đại tá rung lên vì cười.

- Ông thật là kỳ cục buồn cười! đại tá nói. Đâu phải ngày nào cũng có thể gặp, cả ở nước Mỹ, một người từ một giới gọi là trí thức mà lại có những suy nghĩ ngây thơ như thế, tôi xin mạn phép có sự đánh giá này, mang nặng dấu ấn của tư tưởng thời Victoria. Cũng y như tìm thấy một cái bao thuốc hút trong chiếc xe limousine. À! chắc là tổ tiên ông là tín đồ Thanh giáo. Giống như bao nhiêu người Mỹ. Tôi bảo đảm ông sẽ quên hết tư tưởng của ông khi đi săn với tôi. Những cảm xúc thật và chưa từng có đang chờ đợi ông, ông Rainsford à.

- Cám ơn, tôi là người săn bắn, chứ không phải kẻ sát nhân.

- Chúa ơi, viên đại tá bình thản nói, lại cái từ xấu xa kia. Nhưng tôi xin hứa sẽ chứng minh được rằng ông ngại ngùng như vậy là không có cơ sở.

- Vậy sao?

- Sự sống dành cho kẻ mạnh, và khi cần thì được tước bỏ bởi kẻ mạnh. Kẻ yếu được sinh ra để giúp vui cho kẻ mạnh. Tôi mạnh. Tại sao tôi lại không sử dụng lợi thế này? Nếu tôi thích săn bắn, thì tại sao tôi không được làm thế? Tôi săn cặn bã của thế giới này, thủy thủ tàu hàng, bọn vô lại, bọn Đen, bọn Tàu, bọn da trắng, bọn lai. Một con ngựa thuần giống hay một con chó giống trị giá gấp hai chục lần bọn chúng.

- Nhưng họ là người, Rainsford nhanh miệng nói.

- Chính vì thế, đại tá nói. Chính vì thế mà tôi sử dụng chúng. Làm như vậy tôi thấy thích thú. Chúng có khả năng suy luận ít nhiều. Nên chúng nguy hiểm hơn.

- Nhưng ông lấy họ từ đâu?

Mí mắt trái của đại tá sụp xuống thành cái nháy mắt.

- Hòn đảo này tên là: Bẫy Tàu, đại tá trả lời. Đôi khi, trong cơn thịnh nộ, một vị thần biển cả gởi chúng đến cho tôi. Đôi khi, khi ý trời không khoan dung, thì tôi giúp ý trời một chút. Mời ông ra cửa sổ với tôi.

Rainsford tuân lệnh và nhìn ra biển.

- Nhìn kỹ đi, kia, ngoài khơi, đại tá thốt lên, ngón tay chỉ vào bóng đêm.

Mắt Rainsford chỉ thấy màn đêm. Đại tá ấn một nút; ngoài khơi, Rainsford thấy ánh sáng bắn ra.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx