sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

10. Mưu Mô Giữa Lãnh Đạo Xmers Và Nkvd, Số Phận Bi Thảm Của Llin, Cục Trưởng Cục Chính Trị Mật Nkvd

Sau đó bắt đầu những mưu mô quan liêu giữa phản gián quân đội (XMERS), NKVD và lãnh đạo tình báo quân đội. Abakumov đứng đầu XMERS bất ngờ xuất hiện trong văn phòng tôi và tuyên bố rằng, theo sắc lệnh của Tổng hành dinh tôi phải chuyển cho ông ta toàn bộ sự lãnh đạo về các trò chơi điện đài: phản gián quân đội chịu sự điều hành của bộ trưởng Quốc phòng, chứ không phải NKVD làm công việc này. Tôi đồng ý nhưng với điều kiện nếu có mệnh lệnh của cấp trên. Sau một ngày một lệnh như thế xuất hiện, chúng tôi được giữ lại hai: chiến dịch Tu viện và Những trợ tế. Abakumov rất không hài lòng, bởi biết rằng các kết quả của những chiến dịch này được báo cáo trực tiếp cho Stalin.

Chiến dịch Những trợ tế được tiến hành dưới vỏ bọc của một tổ chức tôn giáo bí mật chống Xô viết tồn tại ở Quybưsev được sự ủng hộ của nhà thờ chính thống Nga ở Moskva. Theo huyền thoại, lãnh đạo tổ chức bí mật này là giám mục Ratmirov. Ông ta làm việc dưới sự kiểm soát của Zoia Rưbkina ở Kalinin khi thành phố ở trong tay bọn Đức. Với sự cộng tác của giám mục Ratmirov và tổng giám mục Xergi chúng tôi đã cài được hai sĩ quan trẻ NKVD vào giới nhà thờ hợp tác với Đức tại các vùng bị chiếm. Sau khi giải phóng thành phố, giám mục chuyển đến Quybưsev. Nhân danh ông chúng tôi cử họ từ Quybưsev đi tu viện Pxkov với tư cách trợ tế với thông tin cho tu viện trưởng, kẻ hợp tác với bọn chiếm đóng Đức. Bọn Đức biết rõ cả hai viên trợ tế.

Quân Đức phái đến Quybưsev các điện báo viên từ số tù binh mà chúng tôi nhanh chóng chiêu mộ được. Trong khi đó hai trợ tế- sĩ quan chúng ta đã triển khai hoạt động sôi nổi ở tu viện.

Trong số những người phụng sự nhà thờ có không ít điệp viên NKVD. Bọn Đức tin chắc ở Quybưsev có cơ sở gián điệp. Giữ liên lạc điện đài thường xuyên với phòng tình báo của mình ở Pxkov, chúng luôn luôn nhận được từ chúng tôi tin giả về sự vận chuyển nhiên liệu và trang bị quân sự từ Xibir ra mặt trận. Có thông tin đáng tin cậy từ các điệp viên của mình, chúng tôi đã đối chọi thành công với các mưu toan của các tu sĩ Pxkov hợp tác với Đức, giành quyền lãnh đạo nhà thờ chính thống tại lãnh thổ bị chiếm đóng.

Những tài liệu chúng tôi chuẩn bị về lòng yêu nước của nhà thờ chính thống Nga và vai trò liên kết của nó trong phong trào đấu tranh đang tăng ở vùng Balkan và những đề nghị thăm dò của Roosevelt cải thiện tình hình chính trị và pháp quyền của nhà thờ chính thống được chuyển qua Harriman tới Stalin, rõ ràng đã thuyết phục được ông theo chiều đồng minh, và có đường lối đỡ cứng rắn hơn đối với nhà thờ chính thống. Stalin đã làm một bước bất ngờ: cho phép tiến hành bầu giáo chủ nhà thờ chính thống Nga.

Chức giáo chủ đã bị bãi bỏ từ thời Pie Đại đế ngay khi những người đứng đầu nhà thờ chống lại các cải cách của Sa hoàng. Tình trạng này kéo dài đến tận năm 1917. Sau khi nền quân chủ bị lật đổ chính phủ lâm thời cho phép nhà thờ bầu giáo chủ. Và ngài Tikhon được bầu. Sau khi ngài mất, chính phủ không cho phép bầu giáo chủ mới, và chỉ trong thời gian chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, khi Stalin nhận thức được ý nghĩa của nhà thờ để đoàn kết lòng dân, năm 1943 giáo chủ toàn Nga mới được bầu. Tôi và vợ cùng có mặt trong lễ nghi nhậm chức.

Theo lệnh Stalin, giám mục Ratmirov sau chiến tranh được tặng đồng hồ bằng vàng và huy chương. Hai sĩ quan Ivanov và Mikheev trực tiếp lãnh đạo công việc và cùng ở hậu phương địch với ông dưới dạng những kẻ phụng sự nhà thờ được nhận các huân chương chiến công.

Sau khi Abakumov không được giao chỉ đạo chiến dịch Tu viện và Những trợ tế, ông ta cảnh cáo tôi vẻ đe dọa:

- Hãy lưu ý, tôi sẽ không quên chuyện này đâu. Tôi sẽ có quyết định không có việc gì với các anh nữa!

Thời gian ấy sự đối đầu của Abakumov với Beria là phức tạp. Trong suốt chiến tranh bộ trưởng Quốc phòng là Stalin. NKVD chuyển phản gián quân đội cho Bộ Quốc phòng điều hành, và theo giới thiệu của Beria, Abakumov trở thành nhà lãnh đạo XMERS. Như thế, khi giữ chức này Abakumov trở thành phó của Stalin như bộ trưởng quốc phòng, điều nâng cao địa vị ông ta lên nhiều và cho ông ta tiếp xúc trực tiếp với Ông chủ. Giờ đây thực tế ông ta không phụ thuộc Beria và biến từ kẻ thuộc cấp thành đối thủ cạnh tranh. Năm 1943 - thiếu sự phê chuẩn của Beria, Abakumov bắt chính uỷ an ninh quốc gia Ilin, nhà lãnh đạo đầy kinh nghiệm của Cục 3 Tổng cục chính trị mật NKVD phụ trách các vấn đề trí thức. Phù hợp với nguyên tắc mà chỉ đến thời Gorbachov mới thay đổi, không ai có quyền bắt giữ nhân vật đương chức cao cấp thiếu sự đồng ý của thủ trưởng. Thật ra cũng có ngoại lệ, nhưng lần nào chúng cũng được xem như trường hợp khẩn cấp đặc biệt. Lệnh bắt giữ được công tố viên ký, nhưng trên đó ở góc trái nhất thiết có phê chuẩn của thủ trưởng trực tiếp của người bị bắt: “Đã thống nhất” - và chữ ký. Như tôi đã nói, trong trường hợp này không có sự phê chuẩn của Beria.

Ilin nhẹ nhàng với phong thái trí thức rất được quý mến trong NKVD. Suốt 5 năm, trước khi bắt đầu chiến dịch Tu viện, ông dẫn dắt Demianov cũng như tham gia vào trò chơi này với bọn Đức vào giai đoạn đầu. Những năm 1937- 1938 ông thoát được sự bắt bớ, dù là một cán bộ tác chiến, bởi nhẽ hồi đó ông chịu trách nhiệm về công tác với bọn mensevich, vốn không còn làm Stalin quan tâm. Cuối năm 1938 Beria phái ông đi Roxtov và Oriol để điều tra vụ phá hoại của bọn mensevich trên đường tàu hoả. Người ta cho là những kẻ âm mưu đã chui vào hàng ngũ lãnh đạo địa phương của các cơ quan đảng và chính quyền. Ông quay về Moskva, kinh ngạc bởi sự ấu trĩ của những lời buộc tội dối trá mà ông đã va phải, và báo với lãnh đạo: Sở công an Roxtov và Oriol đơn giản là sắp đặt vụ việc nhằm củng cố địa vị và tăng uy danh của mình. Sau đó vụ việc của ông được xem xét, Ilin được cất nhắc giữ chức trưởng Cục 3 Tổng cục chính trị mật của NKVD, vị trí cho phép ông bắt giữ hai kẻ chỉ điểm quan trọng vẫn cung cấp cho chúng tôi thông tin giả về cái được gọi là tinh thần chống Xô viết trong số những cán bộ có trách nhiệm.

Ilin gọi bọn chỉ điểm về Moskva và ra lệnh cho chúng đưa ra cứ liệu cụ thể về vụ hai kẻ bị tình nghi. Nhận được thông tin của chúng, ông tin chắc rằng qua những năm thanh trừng chúng đã học được nghệ thuật vu khống đối với những ai đã bị chỉ định. Bọn chỉ điểm vu khống bị bắt và kết án 10 năm tù giam, còn Ilin nhận phần thưởng - huy hiệu “Chiến sĩ Treka danh dự”. Tính đến các tiếp xúc cá nhân của Ilin với những nhà văn như A. Tolstoi, các nhạc sĩ và nghệ sĩ lừng danh, Beria thường tiếp ông ở nhà. Ilin cũng có quan hệ thân hữu với Merkulov.

Và thế là công tác của Ilin trong an ninh kết thúc vào năm 1943 vì mâu thuẫn với Abakumov. Từ thời nội chiến Ilin đã kết thân với Teplinxky cũng phục vụ trong đơn vị kỵ binh. Muộn hơn Ilin làm việc tại OGPU, còn Teplinxky chuyển sang không quân và thăng tiến không tồi: năm 1943 ông là thiếu tướng và được đề cử chức vụ thanh tra trưởng lực lượng không quân.

Sự thăng tiến của Teplinxkv bất ngờ bị phanh lại: hoá ra, cơ quan an ninh phản đối sự thăng chức của ông. Lúc ấy ông nhờ Ilin cố gắng làm rõ sự thể. Ilin nhanh chóng biết được: lý do duy nhất buộc cơ quan an ninh không tin tưởng Teplinxky chỉ là sự có mặt của ông ta trong buổi dạ hội tại học viện quân sự năm 1936, trước khi Tukhatrevxky bị bắt, nơi ông ta tự cho phép khen ngợi các sĩ quan và tướng lĩnh sau đó trở thành vật hy sinh của các vụ thanh trừng. Bất hạnh cho Teplinxky là ông lại quen với tướng Trukhin bỏ chạy sang với Vlaxov. Ilin cảnh báo Teplinxky giữ lời ăn tiếng nói và trong quan hệ, nhưng sự cảnh báo ông lại nói qua điện thoại.

Abakumov lập tức biết về cuộc trò chuyện của họ và, giận dữ, đòi hỏi Beria để ông loại Ilin khỏi công việc. Thay vào đó Beria giao cho Merkulov chỉ hạn chế bằng một sự phê bình đơn giản, mà lại theo kiểu thân tình. Đến thời gian này quan hệ giữa Abakumov và Beria đã tồi tệ. Abakumov quyết định lợi.dụng câu chuyện này để bôi xấu Beria và Merkulov. Ông ta báo cáo với Stalin, rằng chính uỷ an ninh quốc gia Ilin làm đổ vỡ chiến dịch của XMERS kiểm tra thành phần chỉ huy không quân của Hồng quân nhân việc thăng cấp mới. Tất cả điều đó có tính quan trọng đặc biệt, vì một trong những nguyên nhân khiến cho Stalin chuyển XMERS vào dưới sự kiểm soát riêng là ở chỗ ông ta muốn loại trừ bất cứ sự can thiệp nào của NKVD và Beria trong các vấn đề chuyển dịch công vụ trong quân đội. Stalin lệnh cho Abakumov bắt giữ ngay Teplinxky. Thậm chí trong những năm chiến tranh Stalin vẫn tìm mọi cách tự kiểm soát công việc tại các cơ quan mà ông ta đứng đầu. Đặc biệt là cơ quan Bộ Quốc phòng.

Tại cuộc hỏi cung được tiến hành với sự thù hằn (ngay đêm đầu Abakumov đã đánh gãy hai răng cửa của ông ta), Teplinxky thừa nhận rằng Ilin khuyên ông xử sự sao cho tốt hơn để không bị buộc tội có cảm tình đối với kẻ thù của nhân dân. Ngoài ra, cũng thừa nhận là đã chia sẻ với Ilin cảm tình của mình đối với một loạt sĩ quan cao cấp bị bắt năm 1938. Một tuần sau Abakumov báo cáo về các thú nhận của kẻ bị bắt trực tiếp với Stalin và nhận được phê chuẩn bắt giữ Ilin.

Xuất hiện ở Lubianka, gặp Merkulov, Abakumov đòi gọi Ilin đến: tôi nhắc lại, đây là một cán bộ lãnh đạo Bộ, chính uỷ an ninh quốc gia. Và thế là con người này bị tước vũ khí và bị giam vào nhà tù của Lubianka. Dù là nhà tù của NKVD, các cán bộ Treka bị tước quyền hỏi cung Ilin, bởi ông đang nằm trong sự xử lý của XMERS. Sang ngày hôm sau Abakumov bố trí Teplinxky và Ilin đối chất. Teplinxky, bị đánh tả tơi đêm trước, nhắc lại “những thú nhận” của mình, Ilin nổi giận, cho ông ta một cái tát và gọi ông ta là đồ đàn bà.

Không tìm ra nhân chứng để khẳng định lời khai của Teplinxky, Abakumov rơi vào tình trạng rắc rối: vì cần thiết có hai nhân chứng đảm bảo cho lời khai. Bởi không ai trong giới gần gũi Teplinxky ở chóp bu quân đội biết về sự tồn tại của Ilin và không thể khai chống lại ông, tìm được nhân chứng thứ hai để buộc tội là một vấn để, mà thiếu điều đó thì không thể chuyển vụ án sang công tố quân sự được. Ilin bị đánh đập, người ta không cho ngủ, thế nhưng ông không chỉ từ chối thú nhận mình có tội mà còn không ký các biên bản hỏi cung. Để cấu thành vụ án chúng nhất thiết phải được trình lên Stalin, để ông quyết định số phận của kẻ bị điều tra, và Abakumov sợ xuất hiện trước Stalin thiếu kết luận buộc tội đủ thuyết phục. Dù Abakumov không thể chứng minh tội lỗi của Ilin, ông vẫn phải ở trong tù như cũ.

Suốt bốn năm từ năm 1943 đến 1947 người ta kéo Ilin đi hỏi cung. Ông bị giam trong xà lim và đánh đập nhằm lấy được sự thú nhận. Sau bốn năm người ta phẩy tay bỏ qua Ilin, nhưng ông còn ngồi tù thêm 5 năm nữa và vào những thời gian khác nhau người chung xà lim với ông là bộ trưởng Hàng không Sakhurin, nguyên soái Không quân Novikov và bộ trưởng Ngoại giao Rumani. Ilin không nói với ai rằng ông là sĩ quan Treka. Theo lời của ông, ông làm việc ở phòng kỹ thuật xưởng phim tài liệu. Hiểu rằng ông là nạn nhân của cuộc tranh giành quyền lực, Ilin đã tự hứa không thú nhận điều gì và chết còn tốt hơn là vấy bẩn danh dự của mình. Thậm chí ông vẫn giữ được tính hài hước. Có lần ông hỏi điều tra viên đang hỏi cung ông:

- Cái huân chương trên ngực anh có nghĩa là gì vậy? Viên sĩ quan đáp đó là huân chương Lenin. Ilin nhận xét:

- Tôi có vinh dự thế nào cơ chứ - vụ án được giao cho người được tặng huân chương Lenin. Nghĩa là vụ án của tôi rất quan trọng!

Tháng 7- 1951 Ilin được chuyển sang Matroxkaia Tisyna và bị giam vào một hầm, đặc biệt của nhà tù BCHTƯ Đảng. Chuyên trách những người bị điều tra ở đây là uỷ ban kiểm tra Đảng vẫn điều tra các vụ án những uỷ viên BCHTƯ và sĩ quan an ninh quốc gia. Phụ trách nhà tù cảnh báo ông về những hậu quả nghiêm trọng nếu ông không thừa nhận tội của mình trước đảng. Điều tra viên mới, xuất hiện tại buổi hỏi cung tiếp theo trong quân phục thiếu tướng tư pháp là Kitaev, phó công tố quân sự Liên Xô. Thực kinh ngạc vô hạn đối với Ilin, Kitaev đòi hỏi từ ông những lời khai về hoạt động phản bội của Abakumov, đáp lại Ilin hỏi chứng cứ, chứng minh đó không phải là sự khiêu khích, cảnh vệ dẫn ông ra hành lang và đẩy đến lỗ nhìn của hầm giam nơi Abakumov kẻ thù không đội trời chung của Ilin đang ngồi.

Thế nhưng Ilin từ chối chứng nhận chống lại Abakumov, suy xét một cách xa rộng rằng vào thời của mình Abakumov đã báo cáo tất cả với Stalin và nếu ông, Ilin, bây giờ kể về những vụ việc Abakumov ngụy tạo, thì ông có thể bị buộc tội đồng lõa với những tội ác đó. Ilin khai rằng trong công tác sau 1933 ông không tiếp xúc với Abakumov, chỉ hiếm hoi mới gặp ông ta ở Lubianka, và cả trong thời gian chuyên đi thanh tra về Roxtov năm 1938. Kitaev không thoả mãn với lời khai của ông và chuyển Ilin ngược lại Lubianka, nơi các buổi hỏi cung được lặp lại tức khắc. Thế nhưng giọng điệu họ đã hoàn toàn khác hẳn. Giờ đây người ta buộc tội ông đã không hiểu đúng trách nhiệm công tác của mình, khi giữ các tiếp xúc và quan hệ thân mật với những kẻ khả nghi. Sau nửa năm Phụ trách ban quản trị Bộ an ninh quốc gia (MGB) thiếu tướng Blokhin tuyên báo với Ilin: vì những thiếu sót trong công tác Toà án đặc biệt kết án Ilin 9 năm tù giam.

Thời hạn giam giữ đã hết - Ilin đã ngồi tù 9 năm. Trước khi thả, người ta đề nghị ông đi vào văn phòng để làm những giấy tờ cần thiết. Ilin kể với tôi rằng Blokhin không chỉ là quản trị trưởng, mà còn chịu trách nhiệm hành quyết các án tử hình (trong hàng loạt trường hợp ông ta tự mình thi hành), vì thế khi ông bị gọi đến chỗ Blokhin, cả cuộc đời thoáng qua trước ông trong một, hai giây. Ông tin chắc rằng bây giờ, ngay phút này, người ta dẫn ông đi xử bắn. Thế nhưng ông được dẫn vào một căn phòng bình thường, nơi ông ký cam kết không hé lộ tình hình vụ án và điều kiện giam giữ. Ông lấy giấy chứng nhận được trả tự do, hộ chiếu tạm thời và trang phục cũ chính uỷ an ninh quốc gia, giờ là thiếu tướng, không cầu vai, qua những năm này đã sờn mòn hết.

Được tha vào lúc đêm tối, không tiền, Ilin quyết định tìm chỗ trú tại phòng tiếp khách của MGB trên cầu Kuznetski. ông biết chiến tranh đã qua, nhưng không biết nó đã làm thay đổi cuộc sống con người như thế nào: ông không rõ là trong nước đã có cải cách tiền tệ và người ta đã dùng đồng tiền khác. Ông cũng không biết gia đình ông ở đâu và chuyện gì đã xảy ra với thân quyến. Sáng hôm sau ông biết vợ ông đã ly dị với ông bởi không có tin tức gì và nghĩ ông đã chết. Bà đã lấy chồng và con gái sống với bà.

Ilin cố liên lạc với Merkulov giờ đã là bộ trưởng Uỷ ban kiểm tra quốc gia. Ông đến Bộ, thư ký báo cáo với Merkulov, và sau đó nói rằng thủ trưởng không biết gì về Ilin cả. Ông chẳng biết đi đâu. Ông lại quay về phòng tiếp khách của MGB và cố gọi cho Subniakov, phó cũ của ông.

Ông không biết số điện thoại của ông kia và ông không có tiền xu để gọi từ điện thoại tự động, vì thế ông gọi số điện thoại cũ của mình, lợi dụng điện thoại nội bộ trong phòng tiếp khách của MGB. Trả lời là sĩ quan trực ban, người đã nhận ra ông và trò chuyện với ông đầy vẻ cảm tình: danh tiếng của Ilin vẫn còn cao trong các cựu binh NKVD. Hoá ra, Subniakov bị bắt năm 1951 ngay sau Abakumov. Viên sĩ quan ở phòng tiếp khách MGB cho Ilin vay 500 rúp (lúc ấy đó là một món tiền khá lớn) và khuyên ông rời nhanh khỏi Moskva.

Ilin đi về Riazan nơi có anh họ của ông đang sống. Ở đấy làm phu khuân vác trên ga tàu hoả. Ông báo với phòng an ninh đường sắt địa phương việc ông đến thành phố, và sau hai tháng họ đã giúp ông nhận được chức đội trướng đội khuân vác. Thực ra. người ta đòi hỏi ông nói với các đồng chí cùng làm việc là ông bị xử không phải theo điều luật về chính trị, mà vì sự phung phí tiền và những tội phạm khác theo chức vụ, và họ hứa ghi vào sổ lao động. Nhưng Ilin từ chối, sợ rằng người ta có thể buộc ông vào tội che giấu quá khứ. Vậy là vào tuổi 48 ông bắt đầu cuộc đời mới.

Sau khi Stalin chết ông đệ đơn xin minh oan. Đơn đầu tiên bị từ chối, nhưng người ta cho phép ông quay về Moskva. Ilin xin vào làm ở phòng giao thông Xô viết Moskva. Năm 1954 ông được minh oan sau khi Beria bị xử bắn và tôi bị bắt giữ. Trong một năm ông bị từ chối trả lương hưu dành cho các cán bộ an ninh. Xerov chống lại điều đó, tuyên bố rằng thanh danh Ilin bị bôi nhọ bởi quan hệ với Teplinxky vẫn đang trong tù như một kẻ thù của nhân dân.

Ba ngày sau khi tôi được tha khỏi nhà tù, năm 1968 Ilin đã đến thăm tôi. Tôi được biết số phận lại mỉm cười với ông. Năm 1956 người phụ trách cũ của ông trở thành phó ban văn hóa TƯ đảng. Ông ta cần một nhà quản trị có kinh nghiệm và trung thực giữ chức thư ký tổ chức hội nhà văn Moskva. Kinh nghiệm làm việc đã qua của Ilin trong quá khứ là chính uỷ an ninh quốc gia về các vấn đề văn hóa đã làm cho ông hoàn toàn thích hợp. Thêm nữa ông được ủng hộ bởi các nhà văn như Fedin và Ximonov. Lãnh đạo đảng cần một người của mình trong Hội nhà văn, người biết tất cả, kể cả những người cung cấp tin. Ilin phù hợp một cách lý tưởng cho chức vụ mới và đã làm việc tại Hội nhà văn đến năm 1977. Ông mất năm 1990, bị xe nghiến.

Các bước ngoặt trong cuộc đời Ilin, những chuyện bịa do A.Vakberg truyền bá về việc dường như ông, một cụ già 86 tuổi bị KGB “dọn” khi sợ những sự phanh phui nào đó, buộc tôi bình phẩm cả một chuyện khác với những lời đồn đại về số phận Leonid, con trai X.Khrusev, - thượng uý phi công mất tích mùa xuân 1943. Từ lời khai của hàng loạt nhà báo và một số" cựu binh cơ quan an ninh quốc gia tôi được gán cho chiến dịch huyễn hoặc về việc bắt Leonid Khrusev trong hậu phương Đức và thủ tiêu anh ta “vì phản bội Tổ quốc”. Trong thực tế hoàn toàn không có chuyện đó. NKVD và XMERS định tìm kiếm anh ta. Thực sự việc tìm kiếm con trai Khrusev nằm dưới sự kiểm soát đặc biệt. Thế nhưng mọi cuộc tìm kiếm đã không có kết quả gì. Tự Stalin tiếp nhận quyết định xem Leonid Khrusev đã hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ chiến đấu, chứ không phải bị mất tích. Trong những điều kiện ấy điều này là vô cùng quan trọng cho sự thăng tiến chính trị của Khrusev, loại bỏ khả năng bôi nhọ thanh danh của một trong những thành viên ban lãnh đạo Liên Xô. Con trai của Khrusev khác với những người mất tích khác, sau khi chết nhanh chóng được tặng huân chương Chiến tranh Vệ quốc hạng nhất.

Sau chiến tranh Khrusev chú trọng đặc biệt việc làm sáng tỏ số phận của con trai. Không ai trông thấy con ông ta chết như thế nào, kể cả các phi công bay cùng anh ta đi làm nhiệm vụ chiến đấu. Các cơ quan an ninh đã hỏi tất cả những tù binh Liên Xô từng ở trong trại giam biệt lập. Thế nhưng, không phải không thú vị, như người ta kể với tôi, các. biên bản hỏi cung này không được giữ trong lưu trữ. Từ hồ sơ truy tìm sau “thanh lọc” các tài liệu những năm 1953 - 1954 bị lấy đi hơn 100 trang. Không rõ ai lấy mất những trang này. Dù không khó đoán, từ đâu có những chỉ thị về việc thanh lọc hồ sơ lưu trữ và tài liệu về những người mất tích năm 1943 trong cơ quan xử lý hồ sơ của Bộ Quốc phòng. KGB và MVD Liên Xô.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx