Những quan điểm khác về tâm lí đám đông
Chúng tôi dùng cuốn sách của Le Bon làm phần đề dẫn vì ông nhấn mạnh đến vai trò của hoạt động vô thức trùng hợp với quan niệm về tâm lí của chính chúng tôi. Tuy nhiên chúng tôi phải nói rằng không có luận điểm nào của ông là mới mẻ cả. Tất cả những biểu hiện vô trách nhiệm và nhục nhã của tâm lí đám đông mà ông nói tới cũng đã được các tác giả khác trước ông nói với cùng một mức xác quyết và thù địch như vậy; tất cả những điều đó đã được các nhà văn, nhà thơ, các nhà tư tưởng, các chính trị gia từ thời cổ đại nói đến nhiều lần. Hai luận điểm quan trọng nhất của Le Bon là luận điểm về sự ức chế tập thể trong hoạt động trí tuệ và phóng đại cảm xúc của đám đông cũng đã được Sighele đưa ra gần đây. Cái đặc sắc của Le Bon chỉ còn là hai ý kiến về vô thức và so sánh với đời sống tinh thần của người tiền sử. Tuy nhiên hai điểm này cũng đã được nói đến trước ông rồi.
Hơn thế nữa: việc mô tả và đánh giá tâm lí đám đông như ta thấy trong tác phẩm của Le Bon và của những người khác không phải là hoàn toàn vững chắc. Không nghi ngờ gì rằng tất cả những hiện tượng của tâm lí đám đông đã được mô tả trước đây là đúng, nhưng có thể nói rằng một số biểu hiện khác ngược lại hoàn toàn cho phép ta đánh giá tâm lí quần chúng cao hơn rất nhiều.
Ngay Le Bon cũng sẵn sàng nhận rằng trong một số hoàn cảnh đạo đức của đám đông có thể cao hơn đạo đức của từng cá nhân hợp thành và chỉ có đám đông mới có khả năng làm những hành động bất vụ lợi và hy sinh cao cả. “Lợi ích cá nhân hiếm khi là động lực mạnh mẽ của đám đông, trong khi nó chiếm vị thế quan trọng nhất đối với từng cá nhân riêng rẽ.” (trang 193).
Một số người khác thì cho rằng nói chung chỉ có xã hôi mới có thể đặt ra các qui phạm đạo đức cho cá nhân theo, trong khi trong một số lĩnh vực từng cá nhân riêng lẻ không thể vươn tới những đòi hỏi cao đó hay trong một vài trường hợp đặc biệt trong đám đông có thể bùng lên những hiện tượng hứng khởi nhờ đó quần chúng có thể làm được những hành vi cao thượng nhất.
Đúng là trong lĩnh vực hoạt động trí tuệ thì ta phải nhận rằng những kết quả quan trọng nhất của hoạt động tư tưởng, những phát minh kéo theo hệ quả to lớn, việc giải quyết các vấn đề phức tạp chỉ dành cho các cá nhân làm việc trong môi trường đơn độc. Nhưng linh hồn quần chúng cũng có sức sáng tạo tinh thần to lớn mà minh chứng trước hết là ngôn ngữ, sau nữa là dân ca, folklore… Ngoài ra chúng ta không thể biết có bao nhiêu nhà tư tưởng hay nhà thơ đã từng lấy cảm hứng từ chính đám quần chúng mà họ là thành viên; mà có thể họ chỉ là những người thực hiện cái sự nghiệp mà trong đó đồng thời có cả những người khác tham dự nữa.
Do những mâu thuẫn rõ ràng như vậy ta dễ có cảm tưởng rằng môn tâm lí đám đông là môn học vô bổ. Nhưng chúng ta có thể tìm được một lối ra cho phép hy vọng tìm được giải đáp khả quan. Danh từ đám đông được nhiều người gán cho những tập hợp khác nhau mà đúng ra cần phải tách biệt. Tác phẩm của Sighele, Le Bon và nhiều người khác liên quan đến những đám đông không bền vững, được tạo ra một cách nhanh chóng từ những cá nhân khác hẳn nhau, chỉ liên kết với nhau bởi những mối quan tâm nhất thời. Không nghi ngờ gì rằng đặc điểm của các đám đông quần chúng cách mạng mà cụ thể là cuộc Cách mạng Pháp (1789 – 1799, ND) đã có ảnh hưởng đến các tác phẩm của họ. Những khẳng định ngược lại dựa trên cơ sở đánh giá các khối quần chúng ổn định hay những cộng đồng mà ở đó con người sống suốt đời, những cộng đồng đã thể hiện thành các định chế xã hội. Đám đông loại thứ nhất đối với đám đông loại thứ hai cũng như các đợt sóng ngắn nhưng cao đối với các con sóng dài trong những vùng nước nông vậy.
Mc Dougal trong tác phẩm The Group Mind [6], xuất phát từ mâu thuẫn nêu trên đã tìm được lời giải cho nó bằng cách đưa thêm vào yếu tố tổ chức. Ông nói rằng trong trường hợp đơn giản nhất, đám đông (group) hoàn toàn vô tổ chức hoặc là có tổ chức sơ sài không đáng kể. Ông gọi khối quần chúng ấy là đám đông (crowd). Nhưng ông công nhận rằng thật khó tập hợp được một đám đông như vậy nếu như trong đó không hình thành ít nhất là những cơ sở ban đầu của một tổ chức, và chính trong cái khối quần chúng đơn giản ấy đặc biệt dễ dàng nhận ra một số sự kiện chủ yếu của tâm lí đám đông. Nhóm người tụ họp một cách tình cờ chỉ có thể trở thành khối quần chúng về mặt tâm lí với điều kiện là họ có cùng một điểm chung nào đó: cùng quan tâm đến một đối tượng, cảm xúc như nhau trong một hoàn cảnh nhất định và (nếu là tôi thì tôi nói là: vì vậy mà) có khả năng ảnh hưởng lẫn nhau giữa các thành viên trong nhóm (trang 23). Điểm chung mà càng mạnh thì họ càng dễ họp thành đám đông tâm lí và biểu hiện của tâm lí đám đông càng rõ rệt. Hiện tượng đặc biệt hơn cả đồng thời cũng quan trọng hơn cả của đám đông là sự phóng đại xúc cảm của từng cá nhân (trang 24).
[6] Mc Dougall trong tạp chí “Journal of Neurology and Psychopathology”. Vol.1, No 1, May 1920. “A note on suggestion”.
Theo ý kiến của Mc Dougall thì khó có điều kiện nào mà cảm xúc của người ta lại đạt đến mức như khi nằm trong đám đông và như thế từng người một đều cảm thấy khoan khoái, không còn cảm giác cô đơn, họ để cho dục vọng vô giới hạn của mình dẫn dắt và cùng với nó tan vào đám đông. Mc Dougall giải thích cái nhiệt huyết đó của cá nhân bằng nguyên tắc cảm ứng trực tiếp thông qua giao cảm nguyên thủy, nghĩa là hiện tượng truyền nhiễm tình cảm mà ta đã biết (trang 25). Thực chất là những dấu hiệu rõ ràng của trạng thái phấn khích có khả năng tự động tạo ra những phấn khích như thế ở người quan sát. Càng có nhiều người cùng phấn khích một lúc thì cái cơ chế tự động ấy càng mạnh mẽ thêm. Cá nhân mất khả năng phê phán, anh ta bị lôi kéo vào tình trạng phấn khích. Khi đã phấn khích thì anh ta lại gia tăng phấn khích ở những người từng có ảnh hưởng đến anh ta và như vậy là bằng hỗ tương cảm ứng mà mức độ phấn khích của từng cá nhân gia tăng thêm lên. Không nghi ngờ gì rằng có một cái gì đó như là tư tưởng thi đua với những người khác, cùng hành động như những người khác thúc đẩy. Trong đám đông, xúc động càng thô lậu và đơn sơ càng có nhiều khả năng lan truyền (trang 39).
Một số ảnh hưởng có nguồn gốc từ đám đông cũng tạo điều kiện thuận lợi cho cơ chế gia tăng phấn khích. Đám đông tạo cho cá nhân cảm giác sức mạnh vô hạn và mối nguy không cùng. Phút chốc đám đông thế chỗ cho toàn thể xã hội loài người, vốn là đại diện cho uy quyền mà hình phạt của nó thì người ta sợ và để chiều theo nó mà người ta buộc phải tự kiềm chế. Đôi khi thật là nguy hiểm nếu ta phản đối nó, ngược lại ta sẽ được an toàn nếu làm theo như những người khác và nếu cần thì “tru lên như chó sói”. Khi đã tuân phục uy quyền mới này rồi thì cần phải dẹp yên tiếng nói “lương tâm” của mình đi, phải ngả theo viễn cảnh có được khoái lạc do đã loại bỏ được mọi kiềm chế. Bởi vậy, nói chung không có gì lạ khi có người nói với ta rằng một cá nhân trong đám đông có thể làm những việc mà trong những điều kiện bình thường hắn sẽ quay mặt đi và bằng cách đó chúng ta có hy vọng rằng đã soi tỏ được một lĩnh vực còn mờ mịt vẫn được người ta gọi dưới cái tên “ám thị”.
Mc Dougall cũng không phản đối luận điểm về sự đình trệ tập thể trong hoạt động trí tuệ của đám đông (trang 41). Ông bảo rằng kẻ ngu kéo người khôn hơn xuống ngang tầm với mình, người thông minh trở nên trì trệ vì sự khích động cao không tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động trí tuệ, vì họ bị đám đông đe dọa, và vì nhận thức trách nhiệm của từng cá nhân đã giảm đi.
Ý kiến chung của Mc Dougall về hoạt động tâm thần của đám đông đơn giản “vô tổ chức” nghe cũng không thân thiện gì hơn ý kiến của Gustave Le Bon (trang 45): dễ khích động, bồng bột, đam mê, thiếu kiên định, bất nhất, thiếu kiên quyết và rất dễ cực đoan; đám đông chỉ có thể lãnh hội những dục vọng thô lậu và những cảm xúc đơn sơ; nó dễ bị ám thị, nông nổi trong suy nghĩ, dễ thay đổi ý kiến; nó chỉ chấp nhận những lí lẽ và kết luận đơn giản nhất. Đám đông dễ bị điều khiển và đe dọa, đám đông không có nhận thức về tội lỗi, về lòng tự trọng và trách nhiệm; nhưng do ý thức được sức mạnh của mình, nó sẵn sàng thực hiện mọi tội ác mà chỉ có những lực lượng tuyệt đối vô trách nhiệm cũng như có sức mạnh tuyệt đối mới dám làm. Nghĩa là nó hành động giống như một đứa trẻ thiếu giáo dục hoặc như một tên mọi mê muội được để xổng ra môi trường xa lạ với nó; trong những trường hợp tồi tệ nhất hành động của đám đông giống với hành động của bầy thú hoang chứ không còn là của đám người nữa.
Vì Mc Dougall so sánh hành vi của đám đông có tổ chức với hành vi vừa được mô tả nên chúng ta sẽ đặc biệt thú vị khi tìm hiểu xem đám đông có tổ chức là thế nào, cái gì tạo ra tổ chức ấy. Ông đưa ra năm “điều kiện cơ bản” để đưa hoạt động tinh thần của đám đông lên một mức cao hơn.
Điều kiện căn bản thứ nhất: một mức độ ổn định nhất định trong thành phần đám đông. Sự ổn định này có thể mang tính vật chất hay hình thức; loại thứ nhất là khi có một số người nhất định tham gia vào đám đông trong một thời gian tương đối dài, loại thứ hai là khi trong đám đông có một số vai trò do một số người luân phiên nắm giữ.
Điều kiện thứ hai: cá nhân tham gia có một số hiểu biết nhất định về bản chất, chức năng, họat động và đòi hỏi của đám đông và vì vậy mà họ có tình cảm với toàn thể đám đông đó.
Điều kiện thứ ba: đám đông có liên hệ với những đám đông tương tự, nhưng vẫn khác với nó ở một số điểm để tạo ra sự cạnh tranh.
Điều kiện thứ tư: đám đông có một số truyền thống, phong tục, định chế áp dụng cho quan hệ giữa các thành viên cấu thành.
Điều kiện thứ năm: trong đám đông có sự phân công, thể hiện trong việc phân thành nhóm và chia công việc cho từng người.
Khi hội đủ những điều kiện đó thì theo Mc Dougall sẽ tránh được các khiếm khuyết tâm lí của đám đông. Những hạn chế trong hoạt động trí tuệ của đám đông có thể tránh được bằng cách không cho nó giải quyết các vấn đề đòi hỏi trí năng mà sẽ giao việc ấy cho một số cá nhân thành viên.
Chúng tôi có cảm tưởng rằng những điều kiện mà Mc Dougall gọi là “tổ chức” của đám đông hoàn toàn có thể mô tả theo một cách khác. Vấn đề là tạo cho đám đông chính những phẩm chất đặc trưng của cá nhân, những phẩm chất đã bị san bằng khi ở trong đám đông. Khi ở bên ngoài đám đông mông muội, cá nhân đã từng có những đức tính như sự nhất quán, tự tri, những truyền thống và thói quen của mình, khả năng làm việc, phong cách sống của mình; hắn từng cách biệt với những cá nhân khác cạnh tranh với hắn. Hắn đánh mất tính đặc thù của mình khi tham gia vào đám đông “vô tổ chức”. Nếu mục đích là tạo cho đám đông những phẩm chất của cá nhân thì cần phải nhớ lại nhận xét rất chính xác của W. Trotter [9], người đã phát hiện ra trong xu hướng thành lập đám đông cái sự tiếp tục tạo ra cơ thể đa bào của mọi sinh vật cấp cao.
Ám thị và Libido
Chúng tôi bắt đầu từ sự kiện chủ yếu là trong đám đông, do ảnh hưởng của nó, cá nhân đã phải chịu những thay đổi thường khi rất sâu sắc trong đời sống tinh thần của mình. Sự khích động bị phóng đại quá mức, hoạt động trí tuệ giảm thiểu đáng kể, rõ ràng là cả hai quá trình đó xảy ra theo hướng đánh đồng mình với những thành viên khác của đám đông, các quá trình ấy chỉ có thể thực hiện được bằng cách loại bỏ sự tự kiềm chế, vốn là đặc trưng của từng cá thể và từ bỏ những dục vọng đặc thù của nó.
Chúng ta cũng đã được nghe nói rằng có thể tránh được (ít ra là một phần) những ảnh hưởng không tốt ấy bằng cách tạo ra đám đông “có tổ chức”, nhưng điều đó cũng không hề mâu thuẫn với sự kiện chủ yếu, với hai luận điểm về khích động phóng đại và giảm thiểu trí tuệ của đám đông. Ở đây chúng tôi cố gắng tìm cách giải thích về mặt tâm lí sự thay đổi đó của cá nhân.
Yếu tố thực dụng đại loại như sự sợ hãi của cá nhân và do đó biểu hiện của bản năng tự bảo tồn rõ ràng là không thể giải thích được toàn bộ hiện tượng quan sát được. Các tác giả, các nhà xã hội học hay nhà tâm lí học, nghiên cứu đám đông đều đưa ra cho chúng ta một lời giải thích dù bằng những thuật ngữ khác nhau: đấy là từ ám thị đầy ma lực. Tarde gọi đấy là bắt chước, nhưng chúng tôi phải nói rằng tác giả có lí khi chỉ ra rằng bắt chước cũng là ám thị, rằng nó là kết quả của ám thị. Le Bon thì qui mọi sự bất thường trong hiện tượng xã hội đó vào hai yếu tố: hỗ tương ám thị và uy tín của lãnh tụ. Nhưng uy tín cũng chỉ là biểu hiện của khả năng tạo ra ảnh hưởng. Đối với Mc Dougall thì có một lúc chúng tôi có cảm tưởng rằng trong nguyên tắc cảm ứng trực tiếp của ông không còn chỗ cho ám thị. Nhưng sau khi nghiên cứu kĩ thì chúng tôi buộc lòng phải công nhận rằng nguyên tắc này cũng chỉ thể hiện cái luận điểm đã biết là “bắt chước” hay “lây nhiễm”, ông chỉ nhấn mạnh thêm yếu tố khích động mà thôi. Không nghi ngờ gì rằng chúng ta có xu hướng rơi vào trạng thái khích động khi thấy dấu hiệu khích động như thế ở một người khác, nhưng chúng ta cũng thường thắng được xu hướng đó, chúng ta đè nén khích động và thường phản ứng hoàn toàn ngược lại để đối phó. Thế thì tại sao trong đám đông ta lại luôn luôn bị nhiễm khích động? Một lần nữa cần phải nói rằng ảnh hưởng có tính ám thị của đám đông buộc ta tuân theo xu hướng bắt chước và tạo trong ta sự khích động. Trước đây chúng ta cũng đã thấy rằng Mc Dougall phải sử dụng khái niệm ám thị, chúng ta được ông, cũng như những tác giả khác bảo cho biết rằng: đám đông rất dễ bị ám thị.
Như vậy là chúng ta đã được chuẩn bị để chấp nhận rằng ám thị (đúng hơn: khả năng bị ám thị) là hiện tượng khởi thủy, sự kiện nền tảng, không còn phân tích nhỏ ra được nữa, của đời sống tinh thần. Đấy cũng là ý kiến của Bernheim, tôi từng chứng kiến tài nghệ đặc biệt của ông vào năm 1889. Nhưng tôi cũng từng âm thầm chống đối sự ám thị cưỡng ép. Khi người ta gắt với một con bệnh cứng đầu cứng cổ, không bị thôi miên: “Ông làm cái gì vậy? Ông chống cự hả?”, thì tôi tự nhủ rằng đấy là sự bất công, sự cưỡng ép. Dĩ nhiên khi có kẻ định thôi miên người ta, định khuất phục người ta bằng cách đó thì người ta phải có quyền chống lại chứ. Sự chống đối của tôi sau này đi theo xu hướng chống lại việc dùng ám thị để giải thích mọi sự trong khi chính nó lại không được giải thích. Nói đến ám thị tôi thường đọc đoạn thơ hài hước sau đây [7]: “Thánh Christophe đứng đỡ Christ và chúa Christ đứng đỡ thế gian, vậy tôi xin hỏi ông thánh Christophe biết để chân vào đâu mà đứng.”
[7]Christoph trug Christum. Christum trug die ganze Welt. Sag wo hat Christoph hin den Fuss gestellt? Christophorus Christum, sed Chistus sustulit orbem: Constiterit pedibus die ubi Christophorus?
Ngày nay, ba mươi năm đã qua, tôi lại quay về với câu đố của ám thị thì thấy vẫn chưa có gì thay đổi cả. Tôi có thể khẳng định điều đó, ngoại trừ một việc duy nhất là ảnh hưởng của phân tâm học. Tôi thấy rằng tất cả mọi cố gắng đều nhằm để định nghĩa đúng khái niệm ám thị nghĩa là xác định điều kiện sử dụng thuật ngữ, việc đó dĩ nhiên không thừa vì từ đó càng ngày càng bị sử dụng một cách sai lạc và chẳng bao lâu nữa người ta sẽ dùng để chỉ bất kì ảnh hưởng nào cũng được. Nhưng một sự giải thích thực chất hiện tượng ám thị, nghĩa là những điều kiện trong đó ảnh hưởng có thể xảy ra mà không cần lí lẽ hữu lí cần thiết thì chưa có. Tôi sẵn sàng khẳng định điều đó bằng việc phân tích các tài liệu trong vòng ba mươi năm qua, nhưng tôi không làm vì biết rằng hiện nay đã có một công trình nghiên cứu kĩ lưỡng về vấn đề này đang được tiến hành rồi. Thay vào đó tôi sẽ cố gắng áp dụng khái niệm libido, một khái niệm đã giúp chúng tôi rất nhiều trong quá trình nghiên cứu bệnh tâm thần (Psychoneurose), để giải thích tâm lí đám đông.
Libido là danh từ mượn của lí thuyết về tình cảm. Chúng tôi dùng danh từ ấy (libido) để chỉ năng lượng của tất cả những dục vọng mà từ tình yêu bao hàm. Năng lượng ấy có thể được xem như thuộc loại định tính mặc dù hiện tại thì chưa đo lường được. Cốt lõi của khái niệm mà chúng ta gọi là tình yêu là cái nói chung vẫn được người ta gọi là tình yêu, là cái được các nhà thơ ca ngợi nghĩa là tình yêu nam nữ, có mục đích là sự liên kết giới tính. Nhưng chúng tôi không tách khỏi khái niệm đó tất cả những gì liên quan đến từ yêu: một đằng là yêu chính mình, một đằng là tình yêu cha mẹ, con cái, tình bạn và tình yêu nhân loại nói chung cũng như lòng trung thành với một đồ vật cụ thể hay một lý tưởng trừu tượng nào đó. Biện minh cho cách làm như vậy là những kết quả của môn nghiên cứu phân tâm học, nghiên cứu chỉ rõ rằng tất cả những ái lực đó đều là biểu hiện của một loại dục vọng hướng đến liên kết giới tính giữa các giới khác nhau, mặc dù trong một số trường hợp dục vọng này có thể không nhằm mục đích là giao hợp hay là người ta có thể kiềm chế chuyện đó, nhưng những ái lực đó vẫn luôn luôn giữ được một phần thực chất nguyên thủy đủ để bảo tồn tính tương đồng (sự hy sinh, ước muốn gần gũi).
Như vậy là chúng tôi cho rằng ngôn ngữ đã thiết lập được trong những ứng dụng cực kì đa dạng của từ “yêu” một mối liên hệ hoàn toàn đúng và rằng không gì tốt hơn là lấy mối liên hệ đó làm cơ sở cho những cuộc thảo luận khoa học và mô tả của chúng tôi. Làm như thế phân tâm học đã tạo ra nhiều bất bình, tuồng như nó là tội nhân của một sáng kiến đầy tội lỗi vậy. Phân tâm học gán cho cách hiểu từ yêu “rộng” như vậy, không có nghĩa là nó đã tạo ra một cái gì đó độc đáo. Từ Eros của nhà triết học Platon hoàn toàn trùng hợp cả về mặt nguồn gốc, tác động và quan hệ với hành vi giao hợp, với năng lượng tình yêu, với libido của phân tâm học, như hai ông Nachmansohn và Pfister đã chỉ rõ [8], và trong bức thư nổi tiếng “Thư gửi người xứ Corinth” [9] Thánh Paul đã ca ngợi tình yêu và đặt tình yêu lên trên hết thì hẳn rằng Ngài đã hiểu từ đó theo nghĩa “rộng”. Từ đó có thể kết luận rằng người đời không phải lúc nào cũng thực sự hiểu những nhà tư tưởng vĩ đại của mình ngay cả khi họ làm ra vẻ tôn sùng các bậc vĩ nhân ấy.
[8] Nachmansohn, “Freuds Libidotheorie verglichen mit der Eroslehre Platos”. Intern. Zeitschr. f. Psychoanalyse III, 1915; Pfister ebd. VII. 1921.
[9] Xem Thơ thứ nhất của Phao Lô gửi cho người Cô-Rin-Tô, bản dịch của Hội Ghi-Đê-Ôn. (Ghi chú của người dịch.)
Những ham muốn tình ái đó trong phân tâm học gọi là a potiori và về mặt nguồn gốc thì chính là ham muốn nhục dục. Nhiều “nhà trí thức” cho rằng gọi như vậy là một sự thóa mạ và để báo thù, họ trách cứ môn phân tâm học là “loạn dâm”. Người nào cho rằng dục tính là một cái gì đó xấu xa, đê tiện đối với con người thì người đó hoàn toàn có quyền dùng những từ thanh nhã hơn như Eros chẳng hạn. Tôi cũng có thể làm như thế ngay từ đầu và như vậy tôi có thể tránh được nhiều sự phản bác, nhưng tôi không làm thế vì tôi không phải là kẻ nhu nhược. Không thể biết được điều đó sẽ đưa đến đâu: đầu tiên là nhượng bộ về ngôn từ, sau đó sẽ dần dần nhượng bộ trong thực tế. Tôi cho rằng chẳng có gì phải xấu hổ chuyện dục tính, người ta cho rằng dùng từ Eros trong tiếng Hy lạp thì bớt ngượng, nhưng từ ấy có khác gì từ yêu của ta và cuối cùng người nào có thể chờ đợi thì người đó không cần phải nhượng bộ.
Như vậy là chúng tôi giả định rằng các mối liên hệ tình ái (diễn đạt một cách trung tính: những liên hệ tình cảm) là bản chất của linh hồn tập thể. Xin nhớ rằng các tác giả mà chúng tôi nói đến ở trên không đả động gì đến khái niệm ấy cả. Có lẽ những điều phù hợp với quan hệ tình ái đã bị che dấu sau bức bình phong là ám thị. Hai suy nghĩ sau đây củng cố thêm giả thuyết của chúng tôi: thứ nhất, đám đông được liên kết bằng một lực nào đó. Nhưng ngoài cái Eros ấy thì còn lực nào có cái sức mạnh liên kết mọi người trên thế gian? Thứ hai có cảm tưởng rằng trong đám đông cá nhân từ bỏ cá tính độc đáo của mình và ngả theo ám thị của đám đông là do anh ta có nhu cầu đồng thuận với đám đông chứ không phải là mâu thuẫn với họ, anh ta làm thế là để “chiều lòng họ”.
@by txiuqw4