sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 453: 458: Loạn Lương Châu (Thượng)

Cao Can đã xuất binh!

Điều này nằm trong dự đoán của Tào Bằng, đồng thời cũng có chút khiến hắn bất ngờ.

Lý Nho quả nhiên không hổ với danh xưng chủ mưu đệ nhất của Lương Châu năm đó, tính toán phản ứng của Viên Thị chuẩn xác như thế.

Như vậy tiếp theo, Mã Đằng chắc sẽ ra tay.

Tào Bằng không vội nói tin này cho những người khác, mà sau một hồi trầm tư, hắn tiếp tục bảo mọi người khai khẩn đất đai.

Đến thì đến đi, lẽ nào lão tử ta còn sợ cha con Mã gia nhà ngươi sao?

Kim Thành quận Giải.

Hàn Toại cũng nhận được tin Cao Can xuất binh, y đi lại loanh quanh trong phòng khách, chần chừ không quyết. Y không biết, có nên xuất binh hay không?

Mã Đằng gửi thư, mời y liên thủ xuất binh.

Thế nhưng trong lòng Hàn Toại lại không muốn cùng Mã Đằng tạo phản.

Sứ giả của Viên Thượng đã vẽ ra một chiếc bánh lớn cho Mã Đằng, khiến Mã Đằng mê mẩn. Nhưng trong mắt Hàn Toại, kế hoạch đó dường như không thể thực hiện. Viên Thiệu còn chưa phải là đối thủ của Tào Tháo, huống chi là huynh đệ Viên Thượng? Nếu chuyện này do một tay Viên Thiệu bày ra thì Hàn Toại nói không chừng sẽ lung lay. Nhưng huynh đệ Viên Thượng chỉ là hạng người chí lớn nhưng tài mọn, tuyệt đối không có khả năng.

Mã Đằng có dã tâm rất lớn, hơn nữa còn cực kỳ kiêu ngạo.

Sau khi cậy thế của tướng quân Mã Viện, gã luôn muốn gây dựng đại nghiệp. Lúc ở Hà Tây, gã đã gặp hạn lớn, dù nguyên khí không bị thương nhưng lại khiến hắn không thể chịu đựng được. Hơn nữa Hà Tây đối với Võ Uy mà nói có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng, Mã Viện đương nhiên sẽ không cam tâm tình nguyện ngồi nhìn Hà Tây bị người khác chiếm mất, bất cứ lúc nào cũng có thể uy hiếp tới Võ Uy.

Gã muốn đoạt lại Võ Uy!

Điều này Hàn Toại rất rõ trong lòng.

Nhưng vấn đề là, gã có thể giành lại được không?

Hàn Toại không hiểu Tào Bằng lắm, nhưng cũng từng nghe nói qua danh tiếng của hắn.

Ở một góc độ nào đó, Hàn Toại và Tào Bằng thuộc cùng một loại người. Tào Bằng là danh sĩ Trung Nguyên, Hàn Toại là danh sĩ Lương Châu. Nói ra thì cả đời này Hàn Toại hy vọng nhất là được gia nhập vào trong vòng tròn sĩ lâm Trung Nguyên. Đáng tiếc, Lương Châu hoang sơ, lại là chỗ ở của người Hồ Hán nên trong mắt người Trung Nguyên luôn không bao giờ được xếp hạng.

Từ khi Tào Bằng vào làm chủ Hà Tây, Hàn Toại luôn quan tâm đến Tào Bằng.

Từ việc âm thầm chịu đựng lúc đầu đến sự bùng nổ bất ngờ sau này, từng hành động đều được Hàn Toại hết sức tán thưởng.

Hiện giờ, Mã Đằng bảo y khởi binh phản Tào, Hàn Toại thực lòng không muốn đồng ý...

Bên ngoài có tiếng bước chân vang lên, Hàn Toại quay người nhìn, thấy một tướng quân trẻ tuổi đang bước nhanh từ ngoài phòng vào.

- Ngạn Minh, ngươi tới đúng lúc lắm.

Hàn Toại đột nhiên nở nụ cười tươi rạng rỡ với chàng trai này.

Người vừa tới tên là Diêm Hành, tự Ngạn Minh, là con rể của Hàn Toại.

Hắn cũng chính là võ tướng hàng đầu Lương Châu thật sự như lời Doãn Phụng đã nói. Trước đây Mã-Hàn không hợp nhau, giao binh Liêu chiến. Diêm Hành từng chiến đấu ba trăm hồi với Mã Siêu, cuối cùng suýt nữa lấy được tính mạng của Mã Siêu. Trong đó có yếu tố may mắn, nhưng cũng là nhờ bản lĩnh cao cường của Diêm Hành. Nếu hắn không có võ nghệ cao như thế, e rằng cũng chẳng thể tranh đấu với Mã Siêu.

Cuộc đại chiến đó xảy ra vào năm Kiến An Nguyên, cách hiện giờ đã tám năm.

Thiếu niên lỗ mãng trước kia đã trở nên chín chắn, phong độ. Mã-Hàn sống yên ổn với nhau, một phần nguyên nhân trong đó chính là võ dũng của Diêm Hành, khiến cha con Mã thị cảm thấy kinh hãi. Hàn Toại không có con trai, chỉ có một con gái đã gả cho Diêm Hành. Trong mắt Hàn Toại, Diêm Hành gần như sẽ là người thừa kế của y, hàng ngày đương nhiên cực kỳ nể trọng. Bất kể việc to hay việc nhỏ, y đều thảo luận và hỏi ý kiến của Diêm Hành.

Lần này Mã Đằng mời y xuất binh, Hàn Toại hẳn muốn tìm Diêm Hành tới để hỏi ý kiến.

Diêm Hành cao hơn tám thước, eo nhỏ lưng hẹp, cực kỳ oai hùng.

- Nhạc phụ, rốt cuộc là chuyện gì khiến nhạc phụ lo lắng như thế?

- Ngạn Minh, ngồi xuống đã.

Hàn Toại ra hiệu cho Diêm Hành ngồi xuống, rồi sau đó đưa phong thư của Mã Đằng cho Diêm Hành.

Diêm Hành xem xong, nhíu mày hỏi:

- Mã Thọ Thành muốn tạo phản sao?

Viên Thượng mời y xuất binh và hứa lấy cái tên Quan Trung Vương. Thêm nữa năm ngoái y đã mất mặt ở Hà Tây, đương nhiên giờ muốn lấy lại.

Nay, Cao Can từ Tịnh Châu xuất trận, tập kích Hà Đông.

Quan phong Vệ Ký đã triệu tập binh mã, chống lại Cao Can... Vệ Ký trước còn mượn binh của ta! Nói cùng nhau hiệp sức. Ta lấy cớ Khương Hồ ở Hà Hoàng, không dám điều động binh mã nên đã thoái thác được. Giờ Mã Đằng cũng muốn ta xuất binh, ta thực sự hơi do dự.

Mã Đằng thắng thì gã là Quan Trung Vương, ta vẫn là Thái Thú Kim Tần.

Nếu Mã Đằng thua thì nhà tan cửa nát, mà ta cũng sẽ đối mặt với sự trả thù của Tào Công. Nhưng nếu ta không đồng ý, chắc chắn sẽ gây bất hòa với Mã Đằng, tới khi đó Kim Thành sẽ phải đối mặt với họa binh đạo, thực sự đó là kết quả ta không muốn thấy.

Hàn Toại không hề giấu diếm điều gì với Diêm Hành.

Mã Đằng đã viết rõ trong thư, nếu chiếm được Quan Trung, muốn chia đều Lương Châu với y.

Nghe thì đúng là một sự mê hoặc lớn!

Nhưng trên thực tế, cái gì gọi là chia đều Lương Châu. Hình thức hiện giờ có gì khác so với chia đều Lương Châu? Y nắm giữ Kim Thành, phía sau có Hà Hoàng Hồ kỵ trợ giúp, ngồi vững với danh xưng chư hầu một phương. Vi Khang gặp y cũng rất cung kính, y có thể ra vào tự do các quận của Lương Châu. Chia đều Lương Châu? Rốt cuộc là chia thế nào? Tốt nhất nên giao Lũng Tây cho y mà thôi.

Thế nhưng vấn đề là, hứng thú của Hàn Toại đối với Lũng Tây đúng là không rõ ràng lắm.

Diêm Hành không trả lời ngay mà chăm chú đọc thư.

Rồi sau đó, Diêm Hành cười nhạt, đưa tay lên xé bức thư kia nát vụn.

- Mã Thọ Thành có chủ ý hay lắm.

- Ngạn Minh, thế là ý gì?

- Nhạc phụ, cha con Mã gia rõ ràng không hề có ý tốt với người.

- Thế là sao?

- Gã bảo chúng ta tấn công Lũng Tây, gã xuất binh từ Võ Uy, sau khi giành lấy Hà Tây sẽ qua sông đánh vào hai quận là An Định và Bắc Địa.

Tuy nhiên người đã nghĩ đến chưa, nếu người tấn công Lũng Tây thì từ đầu đã phải chịu đựng ba quận liên kết giáp công. Lũng Tây là nơi đặt bộ máy cai trị của Lương Châu, đóng quân trú binh. Cha con Tây Bộ giáo úy Vương Mãnh, Nhung Khâu đô úy Vương Mãi đều là những vị tướng dũng mãnh, hàng vạn người cũng không đỡ được. Con từng gặp Vương Mãi, cũng không phải là một nhân vật dễ đối phó. Huống hồ Thạch Thao tại Lâm Thao rất có bản lĩnh, chỉ ở Lâm Thao có một năm nhưng lại khiến dân chúng tin phục; Loại hống hách như Võ Sơn thị còn bị hắn ta thu phục mà không cần binh đao. Người này có mưu lược, cộng thêm cha con Vương Mãnh Vương Mãi, tuyệt đối không thể một đòn mà công phá được. Còn Trương Ký ở An Định, Dương Nghĩa Sơn ở Hán Dương không phải là loại bất tài. Nếu ba quận liên thủ lại, e rằng không đợi Mã Đằng xuất binh, Kim Thành đã nguy rồi.

Dương Nghĩa Sơn mà Diêm Hành nói chính là tham quân, Thái Thú Dương Thụ quận Bắc địa, biệt giá Lương Châu.

Dương Phụ vốn là người Ký huyện quận Thiên Thủy (nay là Cam Cốc Đông thuộc Cam Túc), năm Kiến An thứ tư, gã lấy thân phận làm việc ở Lương Châu, làm sứ giả của Thứ sử Lương Châu Vi Đoan và xuất sứ đi Hứa Đô, được bổ nhiệm làm Trường sử ở An Định. Sau khi Dương Phụ quay lại Lương Châu, chư quân Quan Trung hỏi rằng giữa Viên Thiệu và Tào Tháo ai sẽ thắng, Dương Phụ trả lời: Viên Thiệu rộng lượng nhưng không quyết đoán, giỏi mưu lược nhưng lại thiếu quyết sách. Không quyết đoán sẽ không có uy nghiêm, thiếu quyết sách sẽ hỏng việc. Tuy rằng hiện giờ hùng mạnh nhưng không thể giành được đại nghiệp.

Trong khi đó Tào Công có hùng tài, mưu sâu, quyết đoán, ứng biến không chút do dự. Pháp lệnh thống nhất và quân đội tinh xảo, có thể sử dụng những người không tuân theo thường quy, những người được tin dùng cũng đều tận lực. Tào Công là người gây dựng được đại nghiệp, có thể đi theo.

Cũng chính vì những lời này của gã, cuối cùng làm cho chư tướng Lương Châu không hành động.

Tuy nhiên, Dương Phụ cũng rất kiêu ngạo, không muốn đảm đương phó chức, vì thế liền từ bỏ chức vụ Trường sử An Định.

Năm Kiến An thứ tám, sau khi Trương Ký giữ chức Thái Thú ở An Định, muốn trưng dụng tài năng của Dương Phụ. Thế nhưng Lương Châu Thứ sử Vi Đoan lại bổ nhiệm y làm tham quân, biệt giá Lương Châu, khiến Trương Ký vô cùng tiếc nuối. Trương Ký bèn thông qua Chung Diêu tiến cử Dương Phụ cho Tào Tháo. May mà Tào Tháo có ấn tượng tốt với Dương Phụ, liền nói với Chung Diêu rằng:

- Nếu Nghĩa Sơn đã không muốn làm Trường sử, vậy thì làm Thái Thú đi.

Vì thế, mùa đông năm Kiến An thứ tám, Dương Phụ giữ chức Thái Thú quận Hán Dương.

Đồng thời Vi Đoan lại không muốn buông người này ra, liền để gã tiếp tục kiêm nhiệm làm tham quân, biệt giá Lương Châu...

Diêm Hành nhắc đến hai cái tên là Trương Ký và Diêm Phụ, họ đều rất có uy tín ở Quan Trung. Hàn Toại vừa nghe thấy hai cái tên này đã nhíu chặt mày lại. Dương Phụ và Trương Ký, một người mưu lược hơn người, một người có khả năng cai trị, đều là danh sĩ Quan Trung, có mối liên hệ cực kỳ thân thiết với thế tộc Quan Trung. Hai người này, cộng với Lũng Tây... Hàn Toại cũng cảm thấy đau đầu.

- Nhạc phụ, kể cả nhạc phụ có mời được tinh binh của Hà Hoàng, kể cả cuối cùng có giành được toàn thắng, e rằng cũng sẽ thảm bại nặng nề.

Đến lúc đó, Mã Thọ Thành qua sông đánh, sau khi giành được Bắc Địa và An Định, bước tiếp theo sẽ ra tay với ai? Theo con thấy, chưa chắc gã sẽ ngay lập tức tấn công Quan Trung, mà quay về nắm Kim Thành trong tay. Như thế, gã sẽ thống nhất được Lương Châu, cho dù sau này Tư Không phái binh đến, gã cũng có thể dùng danh nghĩa giết chết phản nghịch để loại bỏ nhạc phụ, rồi sau đó trấn thủ Lương Châu, giữ chức Lương Châu vương. Tư Không có muốn dụng binh với hắn cũng phải suy xét lợi hại được mất trong đó.

Những lời của Diêm Hành khiến Hàn Toại lạnh toát mồ hôi.

Y lớn tiếng nói:

- Nếu không có lời của Ngạn Minh, suýt nữa ta đã trúng kế của Mã Tặc.

Hàn Toại vò đầu, chần chừ đi lại hai vòng:

- Đã như vậy, ta sẽ không xuất binh, Ngạn Minh nghĩ thế nào?

- Không được.

Diêm Hành lại lắc đầu:

- Không xuất binh chắc chắn sẽ chọc giận Mã Tặc, làm không tốt y sẽ lập tức ra quân tấn công. Nhạc phụ chớ quên, lão già Vi Đoan vốn có nghi kỵ với hai nhà chúng ta, nếu không có sự liên thủ của Mã Hàn, lão đã dụng binh với chúng ta từ lâu rồi.

Lúc này, nếu chúng ta công kích lẫn nhau, người cuối cùng được lợi nhất tất nhiên là cha con Vi Đoan kia.

Hàn Toại hít sâu một hơi, gượng cười nói:

- Xuất binh không được, không xuất binh cũng không được... Ta nên làm thế nào đây?

- Kế hiện giờ, là nhạc phụ làm như xuất binh mà như không xuất.

- Xuất binh mà như không xuất?

Hàn Toại nhíu mày lại, chìm trong suy tư.

- Con có một kế, có thể giúp nhạc phụ yên lòng.

Ra lệnh cho hồ kỵ Hà Hoàng đánh chiếm Hà Quan, còn nhạc phụ sau khi dẫn binh cướp lấy Du Trung, Dũng sĩ thì đóng quân tại Mục Uyển, dừng tấn công. Như vậy, Mã Thọ Thành sẽ không còn lời nào để nói. Nếu gã có thể giành được Hà Tây, qua sông công kích An Định thì nhạc phụ hãy tiếp tục tiến công; Nếu Mã Thọ Thành thất bại, nhạc phụ có thể theo đà đó thu binh, xuất binh bình định, theo tình thế chiếm lấy quận Võ Uy

Đến lúc đó, nhạc phụ chiếm giữ Võ Uy ở Kim Thành, vẫn là chư hầu một phương như cũ.

Hơn nữa từ nay về sau cũng không cần lo lắng tới bọn Mã Đằng nữa, lợi ích của Tây Vực được tận thu trong tay nhạc phụ, sao nhạc phụ lại không làm?

Hàn Toại nghe xong, liên tục gật đầu.

Cách này hiện giờ quả thật là biện pháp tốt nhất...

Gã nheo mắt lại, mãi sau mới nở nụ cười tươi:

- Lời Ngạn Minh nói đúng lắm, cứ làm như vậy đi!

Tháng hai năm Kiến An thứ chín, Thứ sửTịnh Châu Cao Can xuất binh từ Tây Hà, vượt qua Thông Thiên Sơn, tấn công vào huyện Bồ Tử của quận Hà Đông.

Thái Thú Tào Nhân của Hà Đông kinh hãi, vội hạ lệnh cho Trung Lang Tướng Cam Ninh xuất binh nghênh địch.

Đồng thời, Tào Nhân khẩn cấp cầu viện binh ở Trường An, Vệ Ký không dám trì hoãn, điều động ba vạn binh mã từ Quan Trung, qua núi Long Môn để vào quận Hà Đông, gấp rút tiếp viện cho Tào Nhân. Trong thời gian ngắn, quận Hà Đông khói lửa liên miên, cục diện càng trở nên đặc biệt khẩn trương, chiến sự vô cùng căng thẳng.

Năm Kiến An thứ bảy, dân chúng Hà Đông vừa trải qua một trận thảm hoạ chiến tranh đều cảm nhận được những áp lực khó hiểu. Đang yên đang lành sao lại muốn khai chiến? Năm trước Cao Can mới bị đuổi đi, sao hôm nay lại phái binh tới, chẳng lẽ lại muốn có một cuộc đại chiến nữa?

Đúng lúc này, từ Hà Tây có tin tức truyền đến: Hà Tây đang chiêu nạp dân chúng di cư...

Khẩu hiệu của quận Hà Tây là: có ruộng, có trâu, có nhà ở!

Đồng thời tuyên bố với bên ngoài, Hà Tây tuyệt đối sẽ không để chiến loạn tập kích. Chúng ta sẽ ngăn chiến sự ở bên ngoài Hà Tây, để dân chúng an cư lạc nghiệp.

Điều này dường như có chút huyễn hoặc!

Quận Hà Tây ở đâu?

Một số người vẫn chưa từng nghe qua tên của quận Hà Tây.

Thế nhưng có ruộng, có trâu, có nhà ở thực sự khiến không ít người cảm thấy dao động. Rất nhiều người bắt đầu dò là xem quận Hà Tây rốt cuộc nằm ở đâu? Nghe ngóng cẩn thận xong mới biết hóa ra Hà Tây nằm ở phía tây của Đại Hà, vùng đồng cỏ chăn nuôi rộng mênh mông ở phía nam Hạ Lan Sơn. Nơi đó vốn nằm dưới quyền cai trị của quận Võ Uy, nhưng hồi đầu năm, triều đình đã hạ lệnh, độc lập xây dựng quận Hà Tây.

Còn Thái Thú của quận Hà Tây lại chính là Tào Tam Thiên danh tiếng lẫy lừng, Tào Bằng.

Rất nhiều người Hà Đông đều nghe qua tên Tào Bằng, dù sao ba ngàn quyển sách vỡ lòng đó đều ra đời từ tay Tào Bằng cả...

- Ta nghe người ta nói, vị Tào công tử kia rất lợi hại.

Nhan Lương, tứ đình trụ của Hà Bắc đã chết trong tay hắn. Nghe nói khi đó hắn từng trợ giúp Thái Thú Đặng Tắc quận Đông, cai trị một nơi hẻo lánh như Hải Tây trở thành vùng rất giàu có và đông đúc. Hắn ở Hà Tây, trong nửa năm đã đánh cho đám Khương Hồ quy thuận, thống nhất địa bàn lớn như vậy... Các ngươi nói xem, tới Hà Tây, có phải thật sự sẽ có ruộng có trâu không?

Rất có khả năng...

Tam Tự Kinh mà Tiểu Tam nhà ta đọc hiện giờ nghe nói do Tào Bằng viết, nóluôn rất kính trọng Tào Thái Thú.

- Có ruộng, còn có cả trâu!

Những năm cuối Đông Hán, chuyện thôn tính đất đai của thế tộc hào môn rất điên cuồng.

Rất nhiều người sau khi mất đi ruộng vườn, đành phải sống bám vào đám môn hạ cường hào đó, làm thuê nhiều đời. Hậu thế thường nói, đất đai có tình, vì thế con người có sức hấp dẫn không thể chối từ với đất đai. Đối với những người dân thường đã mất đi ruộng đất ấy mà nói, đất đai và trâu cày rõ ràng đã khiến bọn họ lung lay... Nếu thật sự có ruộng, có vườn...

Không ít người bắt đầu dao động!

Thời gian lặng lẽ trôi đi trong khủng hoảng và chiến hỏa.

Hà Đông mịt mù khói thuốc súng, còn Hà Tây lại cực kỳ yên bình...

Cày bừa vụ xuân đã được triển khai toàn diện, đợt gieo hạt giống đầu tiên chủ yếu tập trung ở phía đông Hồng Thủy, trên phần đất đai rộng lớn nằm phía tây Đại Hà.

Cùng với những mảnh ruộng sẵn có bắt đầu được gieo trồng, công tác xây dựng của huyện Hồng Thủy đã hoàn thành hơn phân nửa.

Cùng lúc đó, Võ Bảo, Phượng Minh Bảo cũng đều được khởi công. Việc xây dựng ở Hồ Bảo còn đang tiếp tục, dự tính sẽ kết thúc trong năm nay.

Trong ba tháng của năm Kiến An thứ chín, Tào Bằng thông qua các mối quan hệ của Tô Song đã lần lượt mua về hơn một vạn nô lệ từ Mạc Bắc. Trong đó, nô lệ người Hán chiếm hơn sáu mươi phần trăm, người Hồ chưa đến bốn mươi phần trăm. Chất lượng ư, không thật sự tốt lắm, người già yếu chiếm đa số. Tuy nhiên Tào Bằng cũng không cảm thấy bất mãn, trái lại đã ra lệnh cho Tô Song mua nhiều thêm.

Đồng thời, sáu tiểu hành thủ của thương hội quận Hà Tây được thành lập đã làm cho thương hội bắt đầu được vận hành bình thường.

Mối làm ăn đầu tiên là thông qua Trùy Dương, mua về số lượng lớn lương thực để chất đầy tường phủ quận Hà Tây. Đồng thời, Tô Song đã sử dụng các mối quan hệ nhiều năm của mình, bằng nhiều cách, đưa binh khí đóng quân ở Hà Lạc tới Hà Tây. Theo đó những hàng hóa thương phẩm này sẽ cuồn cuộn không ngừng đổ vào Trung Nguyên, hội thương mại đầu tiên do thương hội quận Hà Tây lập ra cũng đã kéo màn. Thủ lĩnh các bộ tộc thông qua việc kết nối với thương hội sẽ được hưởng lợi nhuận đầy đủ. Điều này cũng khiến cho sức mạnh tập trung của quận Hà Tây ngấm ngầm được nâng lên rất nhiều, thúc đẩy nhiều bộ lạc muốn hợp tác với quan phủ hơn.

Còn Tào Bằng lúc này lại lặng lẽ rời khỏi huyện Hồng Thủy, đi tới Võ Bảo...

Bày trước mặt Tào Bằng là một chiếc sa bàn lớn diện tích lên tới một trăm mét vuông.

Đường hành làng của một nửa quận Hà Tây cùng với phía đông huyện Phiên Hòa (nay là Vĩnh Xương) của quận Võ Uy hiển hiện trước mặt hắn không sai chút nào. Đứng trong đại sảnh to lớn của huyện Võ Bảo, dường như có thể nhìn bao quát bộ thế giới. Cái sa bàn này, từ sau khi Bàng Lâm tiếp nhận Võ Bảo, hợp nhất hai huyện, cũng chính là Phượng Minh Bảo đã phải bỏ ra gần bốn tháng mới coi như hoàn thành xong.

Hai bên sa bàn, các tướng ngồi đông đủ.

Ngoại trừ ba người là Phan Chương, Hạ Hầu Lan, Hách Chiêu ra còn có Từ Thứ, Bàng Thống Đặng Phạm, Hàn Đức từ Phượng Minh Bảo tới.

Căn phòng khách ngày thường trông khá rộng rãi nhưng lúc này có vẻ hơi chật hẹp.

Còn ở bên ngoài đại sảnh, Vương Song và Ngưu Cương dẫn theo hắc binh cảnh giới. Phía sau Tào Bằng, Thái Địch và Tào Chương kính cẩn đứng nghiêm.

Nhìn vào sa bàn, Tào Chương chỉ cảm thấy nhiệt huyết sục sôi.

Gã mơ hồ có một cảm giác, đại chiến đã đến gần...

Đến Hà Tây chớp mắt đã sắp nửa năm! Cuộc chiến bãi Phượng Minh thì hắn ta không kịp, mà trận Hồng Thủy Tập căn bản không thể để hắn thi triển võ dũng. Ngoại trừ mấy cuộc tiêu diệt quy mô nhỏ ra, Tào Chương căn bản không gặp nhiều cuộc chiến đấu lắm. Tuy rằng về binh pháp, hắn là thượng chiến mưu phạt! Thế nhưng hắn ta đến Hà Tây là để lập công, nếu cứ thế này, chẳng phải đã lãng phí mất bầu nhiệt huyết trong hắn sao? Cũng may Tào Chương biết, ở Hà Tây không lo không có chỗ đánh. Chỉ có điều hắn ta không ngờ, trận chiến này lại tới nhanh và đột ngột như vậy, khiến hắn không biết làm sao.

- Chuyện ở Hà Đông, chắc hẳn chư vị cũng đều nghe nói.

Tào Bằng nhìn sa bàn, gật đầu rất hài lòng, rồi sau đó nói với mọi người.

Trông sa bàn này, hắn cuối cùng đã xác định được một chuyện. Rốt cuộc đã làm rõ Hồng Trạch đang ở vị trí nào.

Ở hậu thế, do đất màu bị trôi, cộng với đất phù sa bồi do dòng chảy Cổ Hà lưu lại, là thảo nguyên trù phú hiện nay và đã trở thành sa mạc lớn thứ tư, sa mạc Đằng Cách Lý. Còn vị trí của Võ Bảo hiện giờ chính là phía đông của sa mạc Đằng Cách Lý, cách hồ Nguyệt Lượng khoảng hơn ba mươi dặm. Đương nhiên, lúc này hồ Nguyệt Lượng còn chưa hình thành, đồng cỏ và nguồn nước nơi đây đã tốt tươi, dồi dào. Trong đầu Tào Bằng đại khái đã vẽ ra được chỉnh thể đường nét khái quát của quận Hà Tây, dường như là thuộc đất của Ninh Hạ. Có điều, đây chỉ là một chút thói quen xấu của Tào Bằng, không có nhiều ý nghĩa lắm.

Hắn đã bắt đầu trồng trọt, ít nhất trong lúc này, bốn mươi lăm vạn khoảnh rộng không thể biến thành sa mạc được...

- Cao Can cấu kết với Kha Nhất, xuất binh tấn công Hà Đông.

Tuy nhiên có Tào Thái Thú trấn thủ Hà Đông, thêm Hưng Bá lãnh binh, còn có Vệ tướng quân viện trợ, chắc cũng không xảy ra chuyện gì lớn. Khả năng của Hưng Bá, ta rất yên tâm... Chư vị đang ngồi đây có lẽ có người không biết Hưng Bá, nhưng ta tin, những người biết hắn nhất định sẽ không lo lắng. Ha ha, hôm nay ta mời chư vị đến, không phải vì Hà Đông, mà là vì Hà Tây.

Kha Nhất là một đại nhân của Ô Hoàn, có điều sớm đã quy hóa, đóng quân ở Tịnh Châu.

Thật ra Ô Hoàn cũng giống như Tiên Ti và Hung Nô, cũng có rất nhiều bộ tộc. Ví dụ như Liêu Tây Ô Hoàn, Hà Bắc Ô Hoàn, Tịnh Châu Ô Hoàn v.v..., lần lượt thiết lập vị trí của đại nhân bộ tộc. Kha Nhất chính là đại nhân bộ tộc của Ô Hoàn ở Tịnh Châu.

Trước đây, Kha Nhất đã theo Cao Can đánh qua Hà Đông, nhưng do Mã Siêu xuất binh nên cuối cùng đã đuổi bọn họ đi.

Còn lần này, Kha Nhất lại dẫn binh theo Cao Can xâm phạm lãnh thổ. Xét từ một góc độ nào đó, vị Kha Nhất này được coi là người ủng hộ Viên Thị kiên định.

Trong phòng, người biết Cam Ninh quả nhiên là không ít.

Đặng Phạm chắc chắn biết, hơn nữa có mối quân hệ rất thân mật với Cam Ninh. Phan Chương, Hạ Hầu Lan cũng biết Cam Ninh. Đặc biệt Hạ Hầu Lan đã quen từ khi Cam Ninh chưa quy thuận Tào Bằng. Hàn Đức càng không cần phải nói, Trong trận chiến ở Diên Tân, y là bộ khúc của Cam Ninh. Thậm chí ngay cả Tào Chương cũng biết Cam Ninh, bởi vì khi Cam Ninh giữ chức Phó Đô Đốc ở Hổ Báo kỵ binh, Tào Chương đã qua lại với Cam Ninh rất nhiều lần, thậm chí còn theo Cam Ninh tập võ... Hùng bác thuật mà hắn tu luyện chính do Cam Ninh truyền thụ. Nói tóm lại, Tào Chương và Cam Ninh cũng coi như nửa tình thầy trò, cực kỳ thân thiết.

Ngược lại đám Bàng Thống, Từ Thứ, Bàng Lâm lại không rõ lắm về lai lịch của Cam Ninh.

Bàng Thống còn khá hơn vì khi ở Hứa Đô đã từng gặp Cam Ninh. Còn Từ Thứ và Bàng Lâm còn rất xa lạ về Cam Ninh.

Đặc biệt Bàng Lâm, thậm chí không biết Cam Ninh là ai...

Tuy nhiên thấy tất cả mọi người đều không nói gì, Bàng Lâm cũng không mở miệng hỏi.

Nghe Tào Bằng nói xong, Bàng Lâm không kìm nổi bèn hỏi:

- Hà Đông cách Hà Tây còn xa, lẽ nào Hà Tây sẽ xảy ra chiến sự?

Tào Bằng không giải thích mà ngồi xuống ghế Thái sư.

Bàng Thống và Từ Thứ nhìn nhau, Từ Thứ đứng dậy, trầm giọng nói:

- Ngay từ tháng giêng, công tử từng nói chuyện với bọn tại hạ. Lần đó có nhắc tới một khả năng, đó là Viên thị liệu có cấu kết với Mã Đằng hay không... Lúc ấy tại hạ và Sĩ Nguyên đều cho rằng, không thể nào xuất hiện tình huống này. Thế nhưng công tử nhất quyết nói, phải phòng bị nếu chẳng may.

Cho nên, lúc ấy chúng ta đã đưa ra một suy diễn... Chỉ là phỏng đoán.

Nếu Mã - Viên liên kết thì sẽ xuất hiện tình huống gì? Lúc ấy kết quả đưa ra, đó là Mã - Viên liên kết, Viên Thị tất xâm phạm tới Hà Đông.

- Hả?

Đám đông trong phòng đổ dồn ánh mắt nhìn Tào Bằng.

Trong ánh mắt ấy càng thể hiện sự kính trọng vô cùng...

Tào Chương thì nhìn Tào Bằng với ánh mắt cuồng nhiệt.

Tào Bằng cười nói:

- Không phải ta có thể tiên đoán, biết được năm trăm năm trước và hiểu rõ năm trăm năm sau... Ở đây có một số chuyện ta cũng không tiện nói rõ. Đây gọi là đề phòng chu đáo thì sẽ suy diễn được sự phòng bị nhỡ may này. Chư quân đừng nhìn ta như thế.

Có một số chuyện sao?

Đám đông cũng không đặc biệt quan tâm.

Tào Bằng thầm ca ngợi:

“Lý Nho, ngươi đúng là tài giỏi thật!

Nếu không phải được Lý Nho nhắc nhở, nói không chừng cũng không có sự trang bị của Tào Bằng ngày hôm nay.

Thậm chí có khi Hà Đông xảy ra chiến sự, hắn cũng không hề nhận ra... Có điều hiện giờ lại thể hiện được sự sâu hiểm khó lường trong khả năng tiến đoán của hắn.

Từ Thứ nói:

- Năm Kiến An thứ bảy, Mã Đằng hiệp trợ Tư Không chống lại Viên Thị, là vì không có lợi ích để mà xung đột.

Còn nay, công tử trấn thủ Hà Tây, từ Võ Bảo tới Cô Tang cũng chỉ mất mấy ngày đã uy hiếp được lợi ích của Mã Đằng. Cho nên khả năng Mã Đằng hiệp trợ cho Viên thị rất lớn... Vì thế, Sĩ Nguyên và ta lúc ấy đã suy tính, nếu Viên thị tìm đến Mã Đằng, Mã Đằng rất có khả năng đồng ý. Như vậy, làm sao phán định được việc Mã Đằng có câu kết với Viên thị hay không?

Nói đến đây, Từ Thứ dừng lại.

Dưới biết bao đôi mắt đang chăm chú theo dõi như có thể giết được người, Bàng Thống cười ha hả đứng dậy.

- Để phán định Mã Đằng và Viên thị có câu kết hay không chỉ cần nhìn vào hành động của Cao Can như thế nào.

Hắn ho một tiếng rồi lớn tiếng nói:

- Tháng hai Tư Không sẽ phát động tấn công vào Nghiệp Thành. Viên Thượng đến lúc đó tất sẽ phải liều mạng chống đỡ. Lúc này Cao Can hẳn sẽ xuất binh viện trợ cho Viên Thượng. Nếu hắn áp sát Nghiệp Thành thì chứng tỏ Viên thị chưa liên thủ với Mã Đằng, nhưng nếu hắn không tiến sát tới Nghiệp Thành mà xâm phạm biên giới Hà Đông thì có nghĩa là Mã-Viên đã cấu kết với nhau...

Hà Đông gặp thảm họa chiến tranh, ắt sẽ điều động binh mã Quan Trung.

Còn Tư Không chắc chắn khó phân thân ở Đặng Nghiệp. Lúc này nếu Mã Đằng xuất binh, tấn công Hà Tây thì Hà Tây chắc chắn sẽ tứ cố vô thân không chỗ dựa. Cho dù cuối cùng Hà Tây giành thắng lợi nhưng tâm huyết mà công tử bỏ ra trước đây cũng sẽ bị cuốn trôi.

Vì thế, công tử đã ra lệnh cho Giả Hủ bí mật xây dựng doanh trại trinh sát, giám sát chặt chẽ động tĩnh của Mã Đằng.

Sau khi chiến sự Hà Đông nổ ra, binh mã Võ Uy được điều động thường xuyên, chứng tỏ giữa Mã Đằng và Viên Thị đã đạt được thỏa thuận.

Bàng Thống nói xong, ngồi xuống bên Từ Thứ.

Trong phòng, tiếng xì xào khe khẽ vang lên...

Phan Chương tiến lên trước một bước, lớn tiếng nói:

- Công tử, nếu Mã Thị tự chịu diệt vong, Phan Chương xin chờ lệnh đi giao đấu với Mã Thị một trận.

- Hạ Hầu Lan xin chiến.

- Hàn Đức xin chiến!

Bốn đại tướng, chỉ có Đặng Phạm không đứng ra, mà ngồi một bên, trầm tư không nói.

- Ngũ Ca, sao không nói lời nào?

Tào Bằng đột nhiên hỏi.

Đặng Phạm liền mỉm cười:

- Hữu Học đã quyết định, ta đương nhiên vâng theo.

Nếu nói trong những người này, người hiểu Tào Bằng nhất có lẽ là Đặng Phạm! Tào Bằng và Đặng Phạm bên nhau từ bé, hai bên rất hiểu lòng dạ nhau. Một người là Đặng Phạm, còn người kia là Vương Mãi, hai người này rõ ràng là tùy tùng của Tào Bằng. Trong Tiểu Bát Nghĩa, có lẽ cũng chính hai người này có niềm tin tuyệt đối với Tào Bằng. Về điểm này, dù là Hạ Hầu Lan hay Bàng Thống, hoặc như Tào Chân và Điển Mãn đều không thể sánh được.

Tào Bằng nói:

- Ta muốn nghe ý kiến của Ngũ Ca.

Đặng Phạm cười:

- Đánh, đương nhiên phải đánh, hơn nữa phải đánh quyết liệt.

Ánh mắt Tào Bằng sáng lên, liên tục khen ngợi:

- Ngũ Ca mấy năm nay theo Công Minh tướng quân, quả nhiên rất có thu hoạch.

‘Đánh’ mà Đặng Phạm nói không phải là ‘Chiến’ như lời Phan Chương, hai cái này có khác biệt rất lớn.

Trước tiên Tào Chương sửng sốt, ánh mắt chợt lóe sáng hào quang.

Hắn cũng nghe ra thâm ý ẩn chứa bên trong chữ ‘đánh’ của Đặng Phạm.

Tào Bằng đứng dậy, nhìn chung quanh đám đông trong phòng, một lát sau hắn trầm giọng nói:

- Chư quân, giờ nơi chúng ta đang đứng được gọi là Võ Bảo. Sao lại gọi là 'Võ', đây là nơi chiến công hiển hách. Phía sau Võ Bảo chính là vùng dưới quyền cai trị của Hà Tây chúng ta, đó là huyện Hồng Thủy. Ở đây có sáu nghìn bảy trăm ba mươi bốn hộ, tổng cộng hơn ba mươi mốt ngàn bốn trăm người. Bọn họ, có người là người Hà Tây chính gốc; Có người từ xa đến, dân chúng Trung Nguyên lặn lội đường xa tới; Cũng có một số tin tưởng chúng ta, nên quy thuận chịu sự quy hóa người Hán chúng ta. Nhưng cho dù bọn họ từ nơi nào đến thì giờ bọn họ đều sinh sống tại quận Hà Tây, sống trên vùng đất đai này. Bọn họ dựa vào chúng ta và cũng đang quan tâm tới chúng ta...

Ta từng hứa hẹn với bọn họ, sẽ để bọn họ được sống những ngày yên bình.

Cho tới giờ, ta, còn cả chư quân đều đang cố gắng và phấn đấu cho điều này.

Sau này, bọn họ cày cấy, bọn họ khai khẩn đất ruộng, bọn họ xây dựng nhà cửa, bọn họ xây tường thành, lặng lẽ ủng hộ mỗi chính lệnh của chúng ta. Nhưng hiện tại, Hà Tây sắp phải đối diện với cục diện ác liệt nhất từ khi thành lập tới nay!

Tào Bằng bước lên, dùng ngón tay cái nắm lấy cây cột chỉ vào Võ Bảo, đồng thời vẽ một đường thẳng ở trước Võ Bảo.

- Nếu Mã Đằng vượt qua được đường thẳng này, toàn bộ Hà Tây sẽ bị hủy diệt sinh linh.

Còn tất cả sự nỗ lực mà ngươi, ta, chư quân ngồi đây và cả hai mươi tám vạn dân chúng Hà Tây đã làm đều sẽ bị nước cuốn trôi.

Khi đó, dân chúng sẽ nói: Tào Bằng là tên chỉ biết nói mạnh miệng mà thôi!

Hắn không thể bảo đảm cho chúng ta, ngươi xem Mã Đằng dẫn binh mã đánh tới, hắn lại bó tay không có cách nào... Còn những người quy hoá kia còn đang do dự không quyết, những người Hồ chưa quy phục cũng sẽ vì thế mà tạo phản, khiến Hà Tây biến động...

Chư quân, chúng ta phải phải chiến, vì chúng ta không có đường lui!

Chúng ta không chỉ phải chiến, mà còn phải đốt chiến hỏa tới quận Võ Uy... Tiến công luôn là cách phòng ngự tốt nhất. Mã Đằng như hổ rình mồi, sớm muộn gì cũng sẽ có một trận chiến với chúng ta. Đã thế, chúng ta nên xuất kích trước.

Trong phòng, ngoại trừ Hàn Đức có hơi mơ hồ, những người khác đều không ngu ngốc.

Kể cả Thái Địch cũng nghe ra hàm nghĩa trong lời của Tào Bằng. Tào Bằng muốn đánh, hơn nữa muốn đánh đến Võ Uy...

Đám Phan Chương, Hạ Hầu Lan ngơ ngác nhìn nhau.

Trong khi đó Tào Bằng tiếp tục nói:

- Trận chiến này, chúng ta không có viện quân. Binh mã Quan Trung đã bị điều đi Hà Đông tham chiến; Còn An Định, Hán Dương cũng không thể ủng hộ chúng ta quá nhiều. Nguyên nhân ư, rất đơn giản... Bọn họ tương tự cũng phải đối diện với chiến sự. Hà Tây hiện giờ cô lập với bên ngoài, chúng ta chỉ có thể một mình chiến đấu hết sức. Ta không chuẩn bị chiêu mộ binh mã trong dân chúng, bởi vì cái giá những người dân phải trả và những thứ họ dành cho chúng ta đã quá đủ rồi... Chúng ta không thể tiếp tục yêu cầu bọn họ cái gì được nữa.

Huyện Hồng Thủy có tám ngàn binh mã; Phượng Minh Bảo có sáu ngàn binh mã; Còn Võ Bảo cũng có bốn nghìn người...

Chúng ta chỉ có mười tám ngàn người, sẽ phải đối mặt với mấy chục ngàn đại quân của Võ Uy, đồng thời còn có khả năng đối mặt với Khương Hồ thiết kỵ. Chư quân, trận chiến này sẽ rất gian khổ. Nếu thắng, chúng ta có thể được ăn no uống say trong thành Cô Tang; Nếu thua, chúng ta chỉ có thể chết trận trên chiến trường. Ta sẽ không rời khỏi Hà Tây, vì trốn khỏi đây sẽ là nỗi nhục cả đời ta!

Tào Bằng nói xong, giơ tay ra.

Tay Thái Địch nắm một hộp đao dâng lên trước.

Tào Bằng mở hộp đao, lấy ra một cây đoản đao.

- Vinh quang chính là tính mạng ta!

Tào Bằng hít sâu một hơi:

- Năm chữ này là ta nghĩ ra, đã nhờ phụ thân khắc vào bên trên để dâng lên Tư Không.

Cầm đao này tức là vinh quang!

Nếu trận chiến này thất bại, ta sẽ dùng đao này chấm dứt sinh mạng của mình để bảo toàn vinh quang của ta.

Chư quân, điều ta muốn nói với các ngươi là, chúng ta không có đường lui, cũng không có bất kỳ sự lựa chọn nào, chỉ có liều chết một trận!

Trong số những người đang ngồi, người biết đến lai lịch của Thiên Cương đao đều biến sắc mặt.

Tào Bằng lấy Bắc Đẩu đao ra, đủ để chứng tỏ quyết tâm của hắn không thể lung lay...

Đặng Phạm đứng dậy, lớn tiếng nói:

- Vinh quang chính là tính mạng chúng ta!

- Vinh quang chính là tính mạng chúng ta!

Mặt Phan Chương đỏ bừng, ánh mắt lóe lên sự cuồng nhiệt.

Vinh quang chính là tính mạng chúng ta!

Hạ Hầu Lan, Hàn Đức, cũng không khỏi nhiệt huyết sôi trào.

Tiếp đó mấy thư sinh nho nhã như Bàng Thống, Từ Thứ, Bàng Lâm đều cắn răng, giơ cao tay hét lớn:

- Vinh quang chính là tính mạng chúng ta!

Tào Chương và Thái Địch nhìn nhau, bước nhanh đến cạnh Tào Bằng hô:

- Vinh quang chính là tính mạng chúng ta!

Từng tiếng hô vang khiến Tào Bằng tỏ ra rất thoải mái.

Hắn hít sâu một hơi, thầm nhủ: trên dưới như một, cuộc chiến này tất thắng.

- Như vậy, để Sĩ Nguyên và Nguyên Trực nói rõ cho mọi người.

Từ Thứ và Bàng Thống nhìn nhau gật đầu, cất bước tiến lên.

Từ Thứ đỡ lấy cây gỗ từ trong tay Tào Bằng, tới cạnh sa bàn. Mọi người cũng lập tức tiến đến, đứng xung quanh sa bàn.

- Chư vị tướng quân, trận chiến này, mục tiêu của chúng ta là...

Từ Thứ dùng cây gỗ vẽ một vòng tròn trên mô hình một thành phố đặt trên sa bàn, sau đó trầm giọng nói:

- Đây chính là huyện Võ Uy!

Huyện Võ Uy nằm ở bên bờ Hưu Chư Trạch, cách Võ Bảo một trăm hai mươi dặm, cách Phượng Minh Bảo bảy mươi sáu dặm, nằm ở vùng đất cực bắc của quận Võ Uy.

Nó tọa lạc giữa hai tòa Trường Thành của Tần Hán, vừa vặn trấn thủ ngay mạn nam của Hưu Chư Trạch.

Lúc ban đầu, huyện Võ Uy là lãnh địa của người Hưu Chư Các, nằm ở phía tây Trường Thành của nhà Tần. Vào thời Hán Vũ Đế, phiêu kỵ đại tướng quân Hoắc Khứ Bệnh vì muốn ra uy với nước khác, mà lập ra huyện Võ Uy, rồi sau đó lại xây thêm trường thành của nhà Hán, bao bọc lấy huyện Võ Uy vào bên trong. Mục đích ban đầu khi bố trí huyện Võ Uy, là muốn dùng nó để chống lại sự xâm chiếm của người Hưu Chư Các trên Hưu Chư Trạch. Nhưng sau đó, dần dần biến thành nơi cư trú của người Khương Hồ. Sau khi người Hưu Chư Các bị đuổi đi, Hưu Chư Trạch bèn trở thành nơi tụ tập cư trú của người Khương, có thanh thế rất lớn...

Tuy nhiên, do mối quan hệ giữa Mã Đằng và Khương Hồ, khiến cho mối quan hệ giữa người Hán và người Hồ ngày càng dịu xuống.

Nhằm biểu thị thiện ý, Mã Đằng đã nhượng lại huyện Võ Uy, không cho binh mã đồn trú, người Khương Hồ cũng có thể sinh sống ở huyện thành, người Khương người Hán chung sống với nhau.

Sau trận chiến ở bãi Phượng Minh, Đường Đề thảm bại, đổ bệnh không gượng dậy được.

Người Khương Hồ lập tức rơi vào cảnh đen tối ảm đạm. Một trong tứ đại hào khi xưa là Việt Cát, bắt đầu ngo ngoe động tĩnh. Sau khi Đường Đề chiến bại, uy danh sút giảm, còn Tứ đại hào thì sao? Hiện giờ chỉ còn lại một mình Việt Cát y, nên càng có giá trị hơn.

Tháng mười một, năm Kiến An thứ tám, nổi lên cuộc loạn Thiêu Qua Khương.

Một trong tứ đại hào thũng năm xưa, Thiêu Qua, chính là người chết trận trong trận chiến ở bãi Phượng Minh, khiến Thiêu Qua Khương chia làm hai phái.. Một phái chủ trương cầu hòa với Hán thất, một phái thì kiên trì chủ trương báo thù cho Thiêu Qua. Cuộc tranh cãi giữa hai bên càng lúc càng trở nên kịch liệt, đến cuối cùng, diễn biến thành một cuộc xung đột vũ trang. Hai bên đều ra sức đánh, không chết không ngừng, thậm chí khiến cho rất nhiều bộ lạc Khương Hồ khác cũng phải chịu liên lụy, và ảnh hưởng.

Việt Cát lấy danh nghĩa của Khương Vương Đường Đề, phụng mệnh dẹp yên phản loạn.

Trong vòng mười một ngày dẹp yên cuộc loạn Thiêu Qua Khương, những bộ lạc đại nhân thực hiện cầu hòa đều bị giết sạch không còn một ai. Tuy nhiên, Việt Cát không chịu thu binh, mà nhân cơ hội, thâu tóm luôn Thiêu Qua Khương, thoắt chốc trở thành bộ lạc có thực lực mạnh nhất trong số các bộ lạc Khương Hồ.

Dùng từ “mạnh nhất” thì cũng có thể hơi quá!

Chí ít thì nhân số của bộ lạc Đường Đề cũng vẫn chiếm vị trí số một.

Nhưng do Đường Đề bị bệnh nặng không thể xử lý công việc, cho nên nhân số trong bộ lạc của Đường Đề tuy nhiều, nhưng lại không thể ngưng kết thành một khối.

Chỉ xét riêng về điểm này, Việt Cát sau khi thâu tóm bộ lạc của Thiêu Qua Khương rồi, tuy số người không nhiều bằng Đường Đề, nhưng năng lực chiến đấu thì lại không hề thua kém bộ lạc của Đường Đề.

Triệt Lý Cát phủ phục trong đại sảnh huyện Giải, huyện thành Võ Uy, khóc rống lên, vừa khóc vừa kể lể.

Ngay giữa đại sảnh, một nam tử đang ngồi ngay ngắn. Thân hình y cao đến hơn bảy thước, nhìn có vẻ rất cao to lực lưỡng. Mái tóc gọt còn một chòm, được kết thành một vòng bện dài, bộ râu quai nón tủa tủa như kim đâm, đầy vể uy nghi oai võ. Chỉ có điều khí sắc của y không được tốt lắm, toàn thân toát ra một vẻ uể oải, không phấn chấn. Y ngồi ngay ngắn ở đại sảnh, nhưng thần sắc đờ đẫn.

- Đại nhân, chúng ta nên làm thế nào mới phải?

Triệt Lý Cát đợi hồi lâu không nghe thấy động tĩnh gì, bèn ngẩng đầu nhìn lên.

Nam tử đó cười chua xót mà rằng:

- Triệt Lý Cát, tại sao người lại dẫn người rút lui về huyện Võ Uy?

- Kể từ khi đại nhân mất tích, Khương vương lâm bệnh nặng, căn bản không để ý đến sự vụ. Đến nay mọi việc đều do một tay Việt Cát nắm giữ. Trong Vương trướng từ lớn đến bé, có đến quá nửa đều là người của Việt Cát... Việt Cát lúc trước cũng có ý định chiêu mộ ta, nhưng ta không đồng ý. Tên đó vốn có ý định dùng binh, nhưng không ngờ vợ của Thiêu Qua chạy về quê nhà, mời viện binh đến. Cộng thêm bộ lạc Nga Già Tắc cũng bất mãn đối với Việt Cát, cho nên Việt Cát cũng không giám tùy tiện xuống tay với ta...

Đại nhân không có ở đây, mọi người trong bộ lạc đều hoảng sợ.

Nhiều người có ý định muốn chạy qua bên chỗ Việt Cát, ta thấy tình hình không ổn, nên chủ động giao nộp khu chăn nuôi, lui về huyện Võ Uy này.

Ít ra thì ở đây còn có thành trì có thể dựa vào. Những khu chăn nuôi xung quanh tuy không quá tươi tốt, nhưng cũng đủ để nuôi sống bọn ta. Cho dù Việt Cát có ý định thâu tóm bọn ta, thì bọn ta vẫn có thể dựa vào thành trì này, giằng co với hắn, rồi cho người đi cầu viện Khương vương và Mã Đằng.

Nam tử nghe vậy, nhắm mắt lại, rất lâu sau không nói gì.

Nam tử này, rõ ràng là một trong Tứ đại hào thũng của Khương Hồ - Nhã Đan.

Trong trận chiến trên bãi Phượng Minh, Nhã Đan đã bị bắt giữ, không biết tại sao lại xuất hiện ở huyện thành Võ Uy này.

Y trầm ngầm hồi lâu, đột nhiên hỏi:

- Triệt Lý Cát, ngươi nói xem, nếu Việt Cát công đánh bọn ta, liệu Mã Đằng có ra mặt không?

- Việc này...

Nhã Đan cười khổ:

- Hắn tuyệt đối sẽ không ra mặt đâu!

- Đại nhân, ý của người là...

- Ta dám nói, Việt Cát sở dĩ dám to gan lộ liễu thâu tóm các bộ lạc như thế này, thậm chí không coi Đại vương ra gì, không lý gì bên trong không có sự ủng hộ ngấm ngầm của Mã Đằng. Thiệu Qua Khương Hừ, nói không chừng là do Việt Cát xúi giục ở bên trong, rồi sau đó kiếm cớ xuất binh.

Triệt Lý Cát, Đại vương già rồi!

Người đã không còn có thể tiếp tục khống chế mấy trăm ngàn bộ hạ Khương Hồ ở vùng Tây Lương này nữa rồi. Khi trước tại sao Mã Đằng lại tỏ ra giao hảo với bọn ta? Là bởi vì Khương Hồ trên dưới một lòng. Nhưng bây giờ, Khương Hồ đã chia năm xẻ bảy, vừa đúng ý của Mã Đằng hắn. Ta dám khẳng định, Mã Đằng sớm đã muốn thâu tóm bọn ta, chỉ là hắn chưa có cơ hội mà thôi. Sau trận đánh ở bãi Phượng Minh, hắn đã tìm thấy cơ hội.

Triệt Lý Cát ngạc nhiên nhìn Nhã Đan, một lúc lâu sau mới nhẹ giọng nói:

- Đại nhân, Mã tướng quân không thể nào... người là bạn của chúng ta.

- Bạn hữu?

Nhã Đan đột nhiên giận giữ nói:

- Nếu hắn là bạn, tại sao khi ta chiến bại trên bãi Phượng Minh, hắn lại án binh bất động, không chịu xuất binh cứu viện? Nếu như lúc đó hắn tăng cường đánh vào Hồng Trạch, thì chí ít cũng giúp chúng ta có cơ hội để thở. Nhưng, hắn không những không có động thái gì, lại còn lui binh ba mươi dặm... khi tộc Khương của Thiêu Qua hỗn loạn, bị Việt Cát thâu tóm, sao hắn không ra mặt ngăn cản? Hắn và Đại vương đã có mối giao tình nhiều năm, lẽ nào không phải là bạn sao? Thế nhưng hắn không hề để ý tới.

Triệt Lý Cát lập tức không còn gì để nói.

Nhã Đan nói:

- Hiện này bộ lạc Nga Già Tắc đang kiềm chế được Việt Cát, nhưng sẽ không được lâu.

Đợi sau khi Việt Cát xử lý xong vợ của Thiệu Qua rồi, tất sẽ thu phục bộ lạ Nga Già Tắc. Một khi bộ lạc Nga Già Tắc bị thâu tóm, thì cho dù chúng ta có lui về huyện thành Võ Uy, cũng e không phải là đối thủ của Việt Cát. Nhiều nhất là hai năm nữa thôi, đến lúc đó, e là đến ngay cả Đại vương cũng không thể giữ được nữa. Đến khi đó, Hưu Chư Trạch này sẽ là, sẽ là... Việt Cát một tay che trời, rồi toàn bộ Tây Lương, rồi sẽ thuộc về tay Mã Đằng. Triệt Lý Cát, người rất thông minh, tiếc là lại không nhìn rõ được đại cuộc.

Triệt Lý Cát trầm mặc không nói năng gì, mặt lộ vẻ như đang suy nghĩ.

- Lần này ta còn sống được trở về, là nhờ vào ân nghĩa của triều đình.

Tào tướng quân không những không gây khó dễ cho ta, mà còn dùng sự thấu hiểu và lý lẽ mà đối đãi. Trước khi xuất binh đánh Hồng Thủy Tập, hắn và ta đã có một cuộc nói chuyện. Việt Cát, không đáng tin; Mã Đằng, càng không thể tin. Hắn đã đánh cược với ta, nói Việt Cát nhất định sẽ tiến hành thâu tóm. Lúc đó, ta không tin lắm... nhưng những chuyện sảy ra sau đó, khiến cho ta không thể không tin hắn, mà tin triều đình.

- Đại nhân lần này trở về, chẳng lẽ là...

Nhã Đan gật đầu.

- Tào tướng quân nói, nếu ta còn không về, nhà ta tất sẽ bị Việt Cát thâu tóm.

Triệt Lý Cát trầm ngâm hồi lâu, khẽ hỏi:

- Đại nhân, bọn nhà Hán có đáng tin không?

Nhã Đan liu riu con mắt, nghĩ một hồi, thấp giọng đáp:

- Người khác thì ta không dám bảo đảm, nhưng Tào tướng quân, thì ta tin...

Nói đến đây, y đột nhiên bật cười.

- Triệt Lý Cát, người có thể tưởng tượng được không, đường đường là Thái thú quận Hà Tây, Bắc Trung Lang Tướng, thế mà khi nói chuyện với ta lại dùng tiếng Khương. Chỉ có điều là tiếng Khương của hắn nói rất khó nghe, liên tục nói sai, khiến ta bật cười... nhưng chính vì như thế, khiến cho ta cảm thấy, Tào tướng quân là người trân thành, còn cả tấm lòng bao dung rộng lớn của hắn nữa. Ít nhất trong số những người Hán mà chúng ta biết, không một ai chịu học tiếng Khương để giao lưu với chúng ta cả.... bọn người Mã Đằng, sinh sống ở đây, biết tiếng Khương thì không lấy gì làm lạ. Nhưng vị Tào tướng quân đó, là một danh sỹ Trung Nguyên, không ngờ lại chịu tìm tòi học hỏi. Tháng Giêng, hắn còn mời ta ăn, mời ta ăn... à, Sủi cảo! Mùi vị đó thật tuyệt vời.

Nghe nói, là phu nhân của hắn đích thân làm...

Triệt Lý Cát, ngươi từng nghe nói qua chuyện quan viên nhà Hán, để vợ mình làm thức ăn cho tù binh ăn bao giờ chưa?

Triệt Lý Cát không khỏi biến đổi sắc mặt, một lúc lâu sau mới gật đầu nói:

- Nếu đúng như lời đại nhân nói, thì vị Tào tướng quân này rất khác người.

Nhã Đan mỉm cười!

Chuyện đã nói đến nước này, nếu như Triệt Lý Cát còn không hiểu được ẩn ý, vậy thì y quả là tên ngốc....

“Đại nhân rõ ràng là muốn quy thuận quân Hán!”

Hoặc là nói, y muốn quy thuận vị Thái thú Hà Tây kia.

- Đại nhân, Tào tướng quân tuy tốt, nhưng dù sao cũng là Thái thú quận Hà Tây. Trong khi đó gốc rễ của chúng ta, lại là ở Tây Lương này... nếu như đến nương tựa chỗ Tào tướng quân, chẳng lẽ đành phải vứt bỏ gốc rễ của chúng ta sao? Hơn nữa, Tào tướng quân dù sao cũng là người của triều đình, cho dù có khoan hồng với người, nhưng còn đối với nhưng người khác... ta có nghe nói, Hán dân ở quận Hà Tây không hề ít đâu.

Sự lo lắng của Triệt Lý Cát cũng không phải là không có lý.

Dù sao đi nữa, giữa Khương và Hán vẫn có mối thù không nhỏ, bất luận là về thói quen trong cuộc sống, hay là các phương diện khác, đều khác biệt rất lớn.

Những mâu thuẫn giữa Khương và Hán, sâu xa đều bắt nguồn từ những chi tiết nhỏ.

Hơn nữa sự chèn ép của triều đình đối với người Khương cũng quá là khốc liệt. Năm xưa người Khương bạo động, cũng chính vì nguyên nhân này...

Trăm năm trước, người Khương thần phục triều đình nhà Hán, thậm chí còn cam tâm tình nguyện làm lính hầu trước mũi ngựa cho triều đình.

Nhưng triều đình không ngừng chưng bắt binh lính người Khương, lại cộng thêm lao dịch và thuế má nặng nề, khiến cho người Khương hết sức phẫn nộ. Cuối cùng bất đắc dĩ, người Khương đành phải phát động bạo động, khiến cho Hà Tây... bao gồm toàn bộ khu vực Lương Châu, chìm vào cuộc chiến loạn kéo dài trăm năm không dứt. Từ năm Vĩnh Nguyên thứ mười đến nay, vừa tròn một trăm lẻ năm năm, mối thù hận đó ngày càng tăng thêm.

Nhã Đan ra hiệu cho Triệt Lý Cát ngồi xuống:

- Ngươi có biết về thương hội quận Hà Tây?

- Cái này, có nghe nói qua.

- Vậy người có biết chuyện, trong hội chợ do thương hội quận Hà Tây tổ chức, nô dịch người Khương ở Hà Tây dùng tám trăm còn bò Tây Tạng và sáu trăm con chiến mã loại tốt, thông qua thương hội quận Hà Tây, đổi lấy hai trăm thạch muối thô, và ba ngàn con Long Tước?

- Hả?

- Hồ Bảo và bộ lạc Kha Lý Hán, vì việc bị người Hán khai khẩn khu chăn nuôi mà tạo thành xung đột.

Kết quả Tào tướng quân phân xử, hai mươi mẫu đất mà dân Hán khai khẩn ra, định giá hai trăm quan mà bồi thường cho Kha Lý Hán, còn về phần những người Hán gây nên xung đột, thì phạt đòn hai mươi trượng, phạt làm việc ba tháng. Trong hội chợ lần này, người Kha Lý Hán dùng một ngàn con bò Tây Tạng và hai ngàn con chiến mã, đổi được năm trăm gánh muối thô, và ba trăm ngàn mũi tên, cùng với ba ngàn cây trường mâu.

Trước kia, khi chúng ta giao dịch với người Hán, đều luôn lo sợ bị mắc mưu, bị lừa.

Nhưng đến nay, những bộ lạc ở Hà Tây, nhờ có thương hội dưới trướng của Tào tướng quân đảm bảo, cuối cùng cũng đạt được kết quả như ý.

Hà Tây có hai trăm tám mươi ngàn nhân khẩu, trong đó người Khương Hồ chiếm tỷ lệ trên sáu phần mười. Nhưng tất cả những người Khương Hồ quy thuận về đó, không ai là không khen ngợi sự công bằng của Tào tướng quân. Nói hắn là bạn tốt của người Khương Hồ, là quan viên tốt đáng tin cậy... ngươi nói xem?

Triệt Lý Cát chỉ nghe, không nói thêm gì nữa.

Nhã Đan tiếp tục nói:

- Về phần Võ Uy Hà Tây... hài, nói trắng ra đều là nằm dưới sự cai trị của triều đình.

Tào tướng quân nói rất phải, khắp gầm trời này đều là đất của vua, bờ bãi nào cũng là đất của vua. Thiên hạ này là thiên hạ của triều đình, mà triều đình hiện nay, làị do thúc phụ của Tào tướng quân, Tào tư không kiểm soát. Theo như ta thấy, thì thiên hạ này sớm muộn rồi cũng đổi họ thành họ Tào. Võ Uy sẽ là của Tào tướng quân, vấn đề chỉ là chuyện sớm muộn mà thôi. Mã Đằng muốn đối phó với Tào tướng quân, nói không phải xem thường, chứ ta thấy y quả thật không có bản lĩnh đó, càng không có được sự quyết đoán đó. Bây giờ chúng ta nương tựa chỗ Tào tướng quân, người Hán có cây nói thế nào nhỉ? “đưa than sưởi ấm trong ngày tuyết rơi”! Chứ đợi đến lúc Tào tướng quân quật khởi rồi mới chạy qua, thì e là muộn mất rồi...

Nhã Đan bị bắt làm tù binh ba tháng, lời lẽ và kiến thức dường như đã thay đổi rất nhiều.

Ngay cả Triệt Lý Cát cũng nhận thấy, đại nhân nhà mình lợi hại hơn nhiều so với trước kia.

Hơn nữa, nghe y nói như vậy, dường như đầu quân về quận Hà Tây là một lựa chọn tốt nhất. Tuy nhiên, từ trong lời nói của Nhã Đan, Triệt Lý Cát còn nghe ra một ẩn ý nữa: đầu quân cho Tào tướng quân, dường như không cần phải rời xa quê hương.

- Đại nhân, vậy người nói xem, chúng ta nên làm như thế nào?

- Người lập tức phái người, bí mật liên lạc với vợ của Thiêu Qua, nói bọn họ dùng mọi cách để cầm chân Việt Cát.

- Việc này thì dễ, vợ Thiêu Qua từng phái người đến cầu viện ta, chỉ có điều lúc đó ta không dám nhận lời, nhưng cũng không cự tuyệt.

- Triệt Lý Cát, người làm tốt lắm.

Sau khi liên lạc được với vợ của Thiêu Qua rồi, người nhất định phải khiêu khích để bộ lạc Nga Già Tắc cùng tham dự vào. Hưu Chư Trạch này càng loạn, thì càng tốt cho chúng ta. Đợi đến lúc quận Võ Uy có biến, cũng chính là lúc quật khởi của chúng ta, đến lúc đó công đầu sẽ thuộc về ngươi.

Triệt Lý Cát nghe nói mừng rỡ, gật đầu lia lịa.

Năm Kiến An thứ chín, tháng ba, chiến sự ở Hà Đông đến hồi gay cấn.

Cao Can coi cuộc chiến ở Hà Đông như một lẽ tất nhiên, không tiếc đầu tư binh lực đổ vào. Trong mười mấy ngày ngắn ngủi, Cao Can đốc binh mã lên đến gần một trăm ngàn người, vượt qua núi Thông Thiên, đến đồn trú ở huyện Bồ Tử. Binh lực ở Hà Đông trở nên bé nhỏ. Tào Nhân không còn cách nào khác, đành thêm một lần nữa cầu viện Vệ Ký, xin rút hai mươi ngàn người ngựa từ Quan Trung, kết hợp với binh mã ở Hà Đông thành một đội quân...

Tào Nhân đích thân cầm soái ấn, đốc chiến Lâm Phần.

Trung lang tướng Cam Ninh thì đem mười ngàn binh mã, tiến vào chiếm giữ huyện Vĩnh An. Vừa liều chết bảo vệ Lâm Thủy, đồng thời phải bảo vệ phòng tuyến Hoắc Đại Sơn, đề phòng Ô Hoàn kỵ binh của quận Thượng Đảng tập kích bất ngờ. Chiến cuộc ở Hà Đông bỗng chốc trở nên khẩn trương... họ Tào sau khi biết tin, cũng không khỏi cảm thấy lo lắng cho Hà Đông. Y có ý muốn điều động binh mã Lương Châu đến trợ chiến, không ngờ người Khương Hồ ở Hà Hoàng đột nhiên công chiếm Hà Quan, ép thẳng vào quận Lũng Tây. Đồng thời, Hàn Toại xuất binh từ quận Kim Thành, chiếm lĩnh Mục Uyển, khiến tình thế ở Lương Châu trở nên vô cũng khẩn trương. Vốn còn trông mong là Vệ Ký có thể điều động binh mã, nhưng Hàn Toại vừa động, liền khiến cho Quan Trung thay đổi bất ngờ.

Nam Dương, Tân Dã.

Tháng ba ở Nam Dương đang độ xuân ấm hoa nở.

Khắp núi phủ kín sắc hồng của hoa Đào và sắc trắng của hoa mận, rung động lòng người...

Lưu Bị ngồi trên bậu cửa, những ngón tay thon dài linh hoạt chuyển động, không đầy thoáng chốc, đã bện xong một chiếc giày cỏ.

Thoáng cái đã bốn năm!

Từ sau trận chiến bại ở Đông Hải, trốn chạy đến Kinh Châu, ăn nhờ ở đậu, mới đó mà đã bốn năm.

Bốn năm qua, thời gian trôi qua thật yên bình. Chỉ có điều, cuộc sống yên bình này lại không phải là điều mà Lưu Bị mong muốn.

Điều hắn mong là kim khôi thiết mà, khao khát gầy dựng công huân.

Đường đường là hoàng thúc nhà Hán, không lẽ cả đời này cứ phải ăn nhờ ở đậu cửa người như thế này, rồi giết thời gian bằng việc ngồi bện giày cỏ?

- Chủ công!

Đúng lúc Lưu Bị đang ngồi than ngắn thở dài, từ bên ngoài có mấy người vội vàng bước vào.

Hai người đi đầu chính là Tuân Kham và Gia Cát Lượng. Hai người vừa bước vào, lập tức chắp tay cười nói:

- Chủ công, cơ hội đến rồi!

Nghiệp Thành, đại doanh quân Tào.

Bóng đêm thâm trầm, trong lều lớn trung quân đèn đuốc lại sáng trưng.

Tào Tháo nằm trên sạp dường như đã ngủ say, Vương Đồ cẩn thận đi lên trước tắt một cây nến, ánh sáng trong trướng đã giảm đi nhiều hơn. Nhưng đúng lúc này, Tào Tháo bỗng dưng xoay người ngồi dậy.

- Chủ công...

- Lập tức đi mời Công Đạt tới đây.

- Vâng!

Vương Mục cũng không hiểu xảy ra chuyện gì, nhưng lúc này Tào Tháo bảo y đi tìm Tuân Du, nhất định là có chuyện quan trọng thương lượng. Từ lúc y đảm nhiệm thân binh cho Tào Tháo vẫn luôn cẩn trọng, được phân phó lại càng không dám chậm trễ.

Y không thể giống như Tào Bân!

Tuy nói Tào Bân không phải do Tào Tháo sinh ra, nhưng dù sao từ nhỏ đã lớn lên bên cạnh Tào Tháo, coi Tào Chân như là huynh trưởng, được mang dòng họ Tào, được làm thân tín cho Tào Tháo. Hôm nay, Tào Bân được đảm nhiệm làm Giáo Úy Tư Mã Thành Môn tại Hứa Đô, rốt cuộc đã chính thức có chức vụ. Vương Đồ ao ước được như Tào bân, vẫn mong muốn được như Tào Bân là sẽ được Tào Tháo coi trọng.

Một lát sau, Tuân Du tới.

Tào Tháo ngồi lên, cả người cũng đã tỉnh táo.

Thấy Tuân Du đến liền không khách sáo, ngắn gọn nói:

- Ta muốn phát động tới Hắc Sơn Trương Yến, Công Đạt nghĩ sao?

- Ý chủ công là muốn ra tay với Hắc Sơn Trương Yến?

- Đúng vậy!

Tào Tháo khẽ ho khan, sau đó nói:

- Không ngờ Viên gia lại quyết đoán đến vậy, tử thủ Nghiệp Thành cũng không cử Cao Can với cứu viện. Ta vốn muốn Trương Yến đóng quân tại Hắc Sơn, đợi lúc Cao Can tới cứu viện sẽ đánh tan, cướp đoạt Tịnh Châu, nhưng Cao Can rõ ràng không bỏ mặc Nghiệp Thành mà còn tấn công mãnh liệt Hà Đông, nếu cứ tiếp tục giằng co, sợ rằng có biến cố.

- Chủ công lo lắng Mã Đằng?

Tào Tháo gật đầu, khẽ nói:

- Hàn Toại đóng quân tại Mục Uyển cũng không phải ngẫu nhiên, chắc là do Mã Thọ Thành sai khiến.

Trận chiến Nghiệp Thành, không phải một hai ngày có thể thành công.

Phải biết rằng Nghiệp Thành phòng thủ rất chắc chắn, trong lúc nhất thời khó mà đánh chiếm được. Mà Cao Can tại Hà Đông lại dốc toàn bộ lực lượng gây áp lực qua, tuy có Vệ Ký tương trợ nhưng khó mà phân thắng bại. Cao Can xuất binh tất là để gây sự chú ý của Mã Đằng, chờ Quan Trung binh lực trống rỗng, Mã Đằng thừa cơ cướp đoạt Hà Tây, công chiếm yên ổn liền hợp binh với Hàn Toại, uy hiếp Quan Trung. Đến lúc đó, Quan Trung chấn động, Hà Lạc tất sẽ loạn bởi Nam Dương Lưu Biểu..

Tào Tháo nói khiến Tuân Du liên tục gật đầu, biểu thị đồng ý.

- Nếu Cao Can không cứu Nghiệp Thành, vậy thì phục binh này của Trương Yến cũng không thể tiếp tục ẩn náu, mà phải lập tức xuất binh đánh Hà Đông.

Tuân Du suy nghĩ một chút:

- Tuy nhiên mười vạn đại quân của Trương Yến tiến vào chiếm giữ Hà Đông cũng không phải là chuyện dễ.

Nhưng từng nhóm tiến nhập rồi nghỉ ngơi và hồi phục. Chỉ là trước khi tiến vào chiếm giữ Hà Đông cần phải có người đi vào trước để phối hợp tác chiến, lúc này nên lấy ai mới thỏa đáng?

Trương Yến là phần tử xấu phái Khăn Vàng, tên vốn là Trử Phi Yến.

Sau đó theo đại soái phái Khăn Vàng là Trương Ngưu thì đổi tên là Trương Yến, nắm giữ Hắc Sơn, quản lý hơn trăm vạn người. Cho tới nay Trương Yến này là tâm phục đại họa của Ký Châu. Có lẽ dưới trướng Kỳ Lộc cũng chưa tới trăm vạn người, nhưng mười vạn đại quân thì có.

Mười vạn đại quân xuất phát, nếu không có quá trình nghỉ ngơi và hồi phục thì rất khó hình thành sức chiến đấu.

Ý tứ của Tuân Du, là phái một người qua đó để quân Hắc Sơn của Trương Yến có thể nghỉ ngơi và hồi phục, sau đó lại tiến nhập vào Hà Đông để tham chiến. Việc nghỉ ngơi và hồi phục này thực ra chính là phân phối lương thảo, cung cấp đồ quân nhu, tiến hành đấu loại. Mười vạn quân Hắc Sơn đương nhiên không thể toàn bộ tiến nhập vào Hà Đông, về mặt này phải có một điều chỉnh, phái người đi qua đó, mục đích chính là thế.

- Tử Hoàn hiện đang ở đâu?

- Thế tử hiện nay đang ở thành Ngũ Lộc, chỉnh biên lính hàng của Viên thị.

- Để nó đi đi!

Tào Tháo suy nghĩ một chút, trầm giọng nói:

- Để nó đảm nhiệm chức Trung Khâu Lang Tướng, phụ trách chỉnh biên quân Hắc Sơn. Nếu nó đạt được công huân, sau này sẽ khao thưởng. Đợi chỉnh biên kết thúc, để nó đi đến Hà Đông trước.

Tuân Du vội nói:

- Tuân Du đã hiểu.

Y biết, là Tào Tháo muốn tạo cho Tào Phi một chút uy vọng.

Sau khi Tào Tử Ngang chết, vấn đề người thừa kế vẫn được mọi người quan tâm. Luận tuổi tác và kinh nghiệm, Tào Phi là hợp nhất, nhưng nếu nói đến việc sủng ái, thì Tào Xung là được yêu thương nhất. Người tài giỏi nhất, là Tào Thực Tào Tử Kiến, mà vũ lực mạnh hơn người, đó là vị Kiều gia đã đi Hà Tây kia, chính là Hoàng Tu Nhi Tào Chương đang dưới trướng Tào Bằng.

Tào Phi đã trưởng thành, hơn nữa cũng có vài phần khí độ.

Chỉ là chiến công của hắn quá ít, uy vọng trong quân chưa đủ.

Chắc chắn Tào Phi cũng ý thức được điều này, vì vậy bỏ đi một năm thống trị huyện Tất, đầu năm thì quay về xin Tào Tháo được tham chiến. Tào Tháo cũng đồng ý rồi, nhưng xuất phát từ sự lo lắng an toàn mà Tào Phí trước sau vẫn đóng ở thành Ngũ Lộc.

Hiện tại, chắc là Tào Tháo mong muốn tạo cho Tào Phi một chút uy vọng.

Tuân Du khom người lui ra, còn Tào Tháo lại vặn đèn dầu lên, lật xem công văn chiến báo. (chiến báo tin chiến sự).

Một chiêu này của Viên Thượng chưa hẳn là độc, nhưng cũng có dũng khí đập nồi dìm thuyền, mới dám có quyết định như vậy.

Dù sao, một khi Mã Đằng thất phủ, loạn Quan Trung không nổi lên, Nghiệp Thành này có thể trở thành một tòa thành chết.

Sau khi Cao Can bị tổn thất tại Hà Đông, dù muốn cứu viện cũng hữu tâm vô lực. Cho nên nói, chiêu ấy của Viên Thượng vô cùng hung hiểm, chính là thiết lập nơi chết thì sau đó lại có đường sống! Nếu như hắn ta thành công, tất nhiên có thể tạo thành thế kiềng ba chân cùng với Tào Tháo, cắt cứ Hà Bắc.

Cao minh, thật sự là cao minh!

Tào Tháo gõ nhẹ tay lên bàn, nở nụ cười!

Hữu Học có câu nói gì nhỉ, bảo kiếm muốn sắc thì phải được tôi luyện, hoa mai muốn tỏa hương phải chịu giá lạnh. Tào Bằng sống trong gian khổ, nên hôm nay mới có thành tựu, Viên Thượng cũng đã trải qua rất nhiều tôi luyện, đã dần dần trở nên sắc bén rồi.

Đây cũng là nguyên nhân Tào Tháo hạ quyết định muốn Tào Phi đến Khâu Trung trước.

Viên Thiệu không thể vượt ta!

Con trai của Viên Thiệu cũng không thể là đối thủ của con trai ta!

- Chủ công!

Bên ngoài lều lớn đột nhiên có tiếng gọi khẽ.

Tào Tháo ngẩng lên, nhìn ra ngoài:

- Chuyện gì?

- Hứa Đô cấp báo.

- Ồ?

Tào Tháo nghe vậy ngẩn ra, vội đứng lên đi nhanh ra ngoài lều lớn.

Thấy Vương Đồ dẫn theo một gã đưa tin đang phủ phục bên ngoài lều lớn. Thấy Tào Tháo đi ra, người mang tin vội báo:

- Chủ công, không hay rồi.

Tim Tào Tháo đập nhanh!

- Rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì?

- Sáu ngày trước Lưu Bị đột nhiên xuất binh, phá được An Chúng, áp sát Nhương Thành!

Tào Tháo nghe vậy như hít phải khí lạnh: Lưu Bị đã ra chiêu rồi ư?

Lão tử biết người này không phải là loại người an phận! Trước đó Tào Tháo đã lo lắng, nếu như chiến sự tại Hà Bắc không duy trì được lâu, rất có khả năng sẽ tạo thành không thế ổn định tại hậu phương. Lưu Bị này không phải là người tầm thường, không ngờ hắn ta lại xuất thủ...

Lúc này xuất thủ, thời cơ lựa chọn thật tốt!

Tào Tháo bị Viên Thượng kẹp chặt tại Nghiệp Thành, nếu như ông không thể đánh hạ được Nghiệp Thành, chắc chắn sẽ thành thế kiếm củi ba năm đốt một giờ.

Năm xưa lúc ông ta đánh Từ Châu cũng gặp phải tình huống như này. Thấy Từ Châu đã sắp thắng rồi, nào ngờ hậu phương đại loạn, Bộc Dương và Lữ Bố đến xâm phạm, Trần Cung tạo phản, khiến cho Tào Tháo phải thu binh lại. Kết quả, người được lợi là Lưu Bị, sau đó khiến cho Từ Châu chiến loạn không ngừng. Đợi đến khi Tào Tháo thu phục được Từ Châu thì hầu như đã trở thành một cục diện rối rắm. Nếu không phải lúc đó Đặng Phạm tại Hải Tây Đồn Điền vì bảo vệ một tia nguyên khí của Từ Châu, không thì hậu quả không biết sẽ như nào. Mà hiện tại, Tào Tháo lại một lần nữa đối mặt với tình huống giống như vậy, khiến ông lâm vào thế khó xử.

Lúc này đây, Tào Tháo đối mặt với sự lựa chọn còn khó khăn hơn trước rất nhiều.

Ông biết rõ, nếu như ông lui binh, chiến sự tại Hà Đông cũng theo đó mà ngừng lại, Quan Trung cũng sẽ ổn định, Hà Lạc sẽ không rung chuyển.

Nhưng cứ kiên quyết làm sẽ tạo thành kết quả không hay, việc ông muốn cướp đoạt Ký Châu khó càng thêm khó.

Để chuẩn bị cho trận chiến này, ông đã tiêu hao thời gian bốn tháng, mở Bạch Câu, tổn hao không ít tiền của. Không công mà lui, đối với danh vọng của ông tất nhiên là có đả kích trầm trọng, thậm chí có thể sẽ tạo thành sự phản ứng dữ dội trên triều đình.

Mà không lui binh, thì Lưu Bị cũng là một kẻ phiền phức.

- Vương Mục, lập tức mời Quách Gia đến.

- Vâng!

Tào Tháo nhìn thoáng qua người mang tin tức, giọng nói đột nhiên chuyển sang lạnh lẽo:

- Ngươi lui xuống nghỉ ngơi, nhưng phải nhớ kỹ, không được đem tin tức vừa rồi tiết lộ nửa câu.

- Vâng!

Người mang tin xoay người định đi.

Chợt nghe sau lưng truyền đến tiếng hét lớn như hổ gầm. Tào Tháo rút kiếm ra.

Không đợi người mang tin hồi phục lại tinh thần, Tào Tháo đã một kiếm đâm y ngã xuống đất.

- Chủ công!

- Hôm nay đành phải khiến ngươi thiệt thòi rồi... sau khi ngươi chết, đừng lo lắng, vợ con ngươi ta sẽ nuôi dưỡng.

Tào Tháo thật sự không dám sơ sẩy chút nào, nếu như tin tức hậu phương bị Lưu Bị công kích truyền ra ngoài, chắc chắn sẽ khiến cho quân tâm dao động. Bất kể như nào, người mang tin này phải chết. Tào Tháo vẫy tay, Điển Vi mang theo người tới.

- Mang hắn đi chôn, không được để lộ ra.

Còn nữa, Vương Đô kia...hãy xử lý âm thầm. Ngày mai để Vương Nhai tới đảm nhận chức vụ của hắn, tạm làm người hầu cận của ta.

- Vâng!

Điển Vi gật đầu, không nói hai lời kéo thi thể người mang tin di chuyển vào chỗ tối.

Dương Nhai, là người Nam Thành quận Thái Sơn, cũng là con cháu nhà quan. Đồng thời, Dương Nhai này còn có một thân phận khác, đó là con rể của Thái Ung. Thái Ung có hai người con gái, con cả là Thái Diễm, hiện nay đang định cư tại Hà Tây.

Con thứ là Thái Trinh Cơ, là thê tử của Dương Nhai.

Hiện nay Dương Nhai là thủ hạ của Tào Tháo, đảm nhiệm chức quân mưu duyện. (duyện: nhân viên giúp việc thời xưa).

Người này đọc nhiều binh thư, có tài văn chương. Tào Tháo chọn gã làm người hầu cận, đương nhiên cũng chút cân nhắc.

Nha binh đến đem xóa sạch vết máu trên mặt đất.

Về phần Vương Đồ, Tào Tháo không lo lắng, tất cả để Điển Vi giải quyết.

Chỉ một lát sau, Quách Gia quần áo chưa chỉnh tề đi đến, y đang ngủ thì nghe nói Tào Tháo triệu tới liền vội đến, thậm chí còn chưa kịp chỉnh trang.

- Đêm khuya chủ công gọi Gia tới có chuyện gì?

- Lưu Bị chiếm lĩnh An Chúng rồi.

- Hả?

Quách Gia nghe thế ngẩn ra, nhưng chợt hiểu dụng ý Tào Tháo gọi y tới.

- Chủ công, lúc này quyết không thể thu binh.

- Ồ?

- Hôm nay nếu chủ công thu binh, ngày sau cái giá phải trả còn lớn gấp bội, khó có thể cướp đoạt được Hà Bắc, thậm chí có khả năng gây rung chuyển, khiến uy danh của chủ công giảm đi. Lưu Bị, chỉ là tiểu tặc mà thôi! Mặc dù cướp đoạt được An Chúng rồi nhưng vẫn chưa chắc chắn. Nay Nam Dương có Trương Tú, huyện Diệp có Nguyên Nhượng, Nhữ Nam có Thượng Hữu và Văn Hòa trấn giữ, lại tinh thông binh pháp, có vạn phu không bằng trí dũng, người nào cũng thiện chiến đa mưu, mặc dù Lưu Bị giảo hoạt, thắng, nhưng đại cục này sớm muộn gì cũng có thể bình định được.

Việc cấp bách, chủ công chọn binh mã cường công Nghiệp Thành.

Tuyệt đối không thể kéo dài tiếp nữa, thời gian càng lâu, chiến sự càng bất lợi...Về phần Hà Đông, có thể lệnh cho Trương Yến tiến vào chiếm giữ.

Hậu thế thường nói, Tào Tháo có năm đại mưu sĩ.

Nhưng trong năm đại mưu sĩ này, hiểu tâm tư Tào Tháo nhất có lẽ chỉ có Quách Gia.

Tuân Du cũng hiểu tâm tư Tào Tháo nhưng dù sao cũng vẫn còn thờ phụng Hán thất.

Cho nên, nói đến hiểu tâm tư, Tuân Du vẫn kém Quách Gia một bậc. Tuy nhiên, cũng vì hai người này xuất thân quan gia, Tuân Du xuất thân thế tộc hào môn, mà Quách gia lại kém hơn chút, nên Quách Gia chỉ có thể một lòng theo Tào Tháo, tài năng mới trở nên nổi bật.

Trong mắt Tào Tháo lộ vẻ tán thưởng.

- Người hiểu ta, cũng chỉ có Phụng Hiếu.

***

Nam Dương, Uyển thành.

Trương Tú đứng thẳng người lên, trên mặt lộ vẻ khó hiểu.

- An Chúng bị mất rồi.

Vậy Nhương Thành?

- Tướng quân, Nhương thành hiện giờ cũng nguy ngập rồi. Lúc Lưu Bị cướp đoạt An Chúng đã lệnh cho Trần Đáo trấn thủ cai quản, còn Lưu Bị tự dẫn binh công kích Nhương Thành. Tướng quân, nếu còn do dự, chỉ sợ tính mạng công tử nguy hiểm.

Tướng thủ Nhương Thành chính là Trương Tuyền con trai của Trương Tú.

Cho nên, khi nghe nói An Chúng bị Lưu Bị công phá, Trương Tú càng hoảng sợ.

Vị trí của An Chúng này thật sự rất quan trọng. Tiến có thể đánh ba huyện Dương Chủ, Cức Dương và Nhương Thành, lui có thể đoạt Tân Dã, trên còn có quân đội của Lưu Biểu. Nơi trọng yếu như vậy, nếu như Lưu Bị vững chắc ở đó, vậy thì Trương Tú sẽ rơi vào thế bị động.

Huống chi con trai của y đang đối mặt với sự uy hiếp của Lưu Bị.

Trương Tuyền đi theo Trương Tú, cũng là người có kinh nghiệm chiến trận, nếu như chống lại đối thủ bình thương, Trương Tú không cần phải lo lắng. Nhưng chống lại Lưu Bị, thì Trương Tuyền không phải là đối thủ của Lưu Bị. Không nói đến Lưu Bị có kinh nghiệm chiến trận, trải qua chiến sự còn nhiều hơn so với Trương Tuyền. Hơn nữa thủ hạ của hắn ta có Quan Trương Triệu Vân, còn có đám dũng tướng Trần Đáo, Cao Can, không phải là những kẻ đầu đường xó chợ. Trương Tuyền tuyệt đối không phải là đối thủ của Lưu Bị, nếu y không cứu viện, tính mạng của Trương Tuyền khó bảo toàn.

Trương Tú, chỉ có một đứa con duy nhất.

Trước đây y cũng có một đứa cháu là Trương Tín, nhưng tại chiến trận Uyển Thành đã chết trận.

Đến nay vẫn không biết hung thủ là ai.

Nếu như Trương Tuyền chết....

Trương Tú không nói hai lời, lập tức hạ lệnh xuất binh mã nhanh chóng tiếp viện Nhương Thành.

Tuy nhiên, y cũng không phải là hạng người lỗ mãng, trong lòng biết cứ đi Nhương Thành, có thể sẽ trúng gian kế của Lưu Bị.

Lưu Bị này, cũng là một nhân vật có tiếng tăm.

Năm xưa Tào Tháo nhiều người như vậy mà cũng không bao vây được hắn ta, ngược lại để hắn ta đánh cho quân Tào đến nhếch nhác thảm hại. Nếu như cứ thế mà chạy thẳng đến Nhương Thành, không biết chừng dọc đường sẽ gặp phải phục kích của Lưu Bị? Trương Tú sai người thông báo với Hạ Hầu Hãn, sau đó dẫn quân lao thẳng tới Tân Dã.

Một chiêu này của lão tử, chính là vậy Ngụy cứu Triệu.

Chẳng phải ngươi muốn đánh Nhương Thành sao?

Lão tử sẽ đi đánh nơi ở của ngươi, để ngươi phải bỏ Nhương Thành mà quay về thành, cứu viện Tân Dã.

Đến lúc đó, ta lai phục kích ngươi, thừa cơ đoạt lại An Chúng. Chờ Hạ Hầu tướng quân dẫn quân đến, chúng ta cùng liên thủ, trực tiếp diệt Tân Dã.

Có thể tại những năm cuối Đông Hán, những người cát cứ một phương không phải là những người đầu đường xó chợ.

Năm xưa Trương Tú dựa vào tài năng mới có thể đứng vững dưới trướng của Đổng Trác, sau khi thúc phụ chết, liền đem tụ hợp binh lính ở Tây Lương lại ổn định tại Nam Dương, còn đánh cho Tào Tháo tác loạn, thậm chí ngày cả con trai ông ta cũng bị thua, nào có phải là người vô năng?

Trước đây, y có Giả Hủ bày mưu tính kế.

Mà nay không còn Giả Hủ nữa, Trương Tú đành tự mình quyết định.

Nói chung, lúc này ta muốn cho Lưu Bị ngươi biết sự lợi hại của ta, để sau này ngươi sẽ không dám dòm ngó địa bàn của Trương Tú ta nữa.

Trời còn chưa sáng, Trương Tú đã điểm tám ngàn binh mã đánh thẳng tới huyện thành Tân Dã.

Lần này, gã đã dốc quân tinh nhuệ, trong đó có hai ngàn thiết kỵ của Tây Lương, thề lấy bằng được thành Tân Dã.

Hiện giờ ngoài binh mã của Lưu Bị, Tân Dã chẳng còn lại gì.

Trương Tú hiểu rõ đạo lý binh quý thần tốc, nên không dám trì hoãn chút nào. Ngay trong đêm đó, gã đã vượt qua Cức Dương đến đại doanh thành Cửu Nữ. Mấy năm trước, khi Tào Bằng ra khỏi đại doanh thành Cửu Nữ đã làm thay đổi vận mệnh của hắn. Sau khi Trương Tú đến thành Cửu Nữ, gã chỉ còn cách huyện Tân Dã chưa đến năm mươi dặm. Vì thế, gã liền đi chậm lại, hạ lệnh đóng quân nghỉ ngơi ở thành Cửu Nữ.

Hành quân suốt một ngày một đêm, binh sĩ đã quá mệt mỏi.

Trương Tú tuy là long tinh hổ mãnh, khí lực tráng kiện nhưng dù sao năm tháng không buông tha người, gã đã đi qua những năm tháng đỉnh cao nhất cuộc đời…

Thành Cửu Nữ trống trải, không một bóng người.

Nghe nói mấy năm trước, khi Tào Tháo chinh phạt Hồ Dương, Lưu Biểu đã lệnh cho toàn bộ dân chúng thành Cửu Nữ rút khỏi nơi này, bỏ lại thành Tân Dã. Chính vì thế, thành Cửu Nữ biến thành đống hoang tàn, đại doanh thành Cửu Nữ ngày xưa nay cỏ dại đã mọc thành bụi, nhìn hết sức hoang vắng, nao lòng.

-Tên đại tắc đó có động tĩnh gì không?

-Vẫn chưa có hành động gì. Trần Đáo huyện An Chúng vẫn đang chỉnh đốn lại thị trấn, trấn an dân chúng. Lưu Bị dường như đã xuất phát, chuẩn bị tấn công Nhương thành.

-Tốt lắm!

Trương Tú cười ha ha:

-Trời cũng giúp ta rồi! Nay Tân Dã phòng không nhà trống. Ta chỉ cần một tiếng trống là đủ để binh sĩ hăng hái chiến đấu rồi. Truyền mệnh lệnh ta, các huynh đệ sớm nghỉ ngơi. Ngày mai giờ sửu sẽ ăn điểm tâm, giờ dần điểm binh xuất kích. Ta muốn trước khi trời sáng, binh lính sẽ đến dưới thành Tân Dã, đánh cho gã không kịp trở tay. Ha ha, khi Lưu Bị kịp phản ứng lại thì Tân Dã đã rơi vào tay Hồ Trung Ất ta rồi.

-Tướng quân cao kiến!

Đám quân tốt lập tức lien mồm nịnh nọt, Trương Tú vui vẻ cười ha ha.

Trời về đêm, trong đại doanh dần yên ắng, thi thoảng có vài tiếng ngựa hí vang lên, quanh quẩn trong không gian của đại doanh thành Cửu Nữ.

Trương Tú có thói quen đọc sách trước khi ngủ, cho nên ăn cơm tối xong, gã chưa đi nghỉ ngay, mà ngồi xem một bộ binh thư dưới ánh đèn. Đi cả một ngày đường, gã cũng đã khá mệt mỏi. Trương Tú nhìn sách mà mí mắt bắt đầu díp xuống, chực chờ khép lại. Ngoài trước vải, tiếng mõ vang lên, báo hiệu giờ Tuất đã qua. Gã buông sách, giữ nguyên y phục nằm trên giường, bất giác chìm vào giấc ngủ. Gã mơ thấy mình đang tấn công Tân Dã, chém đầu Lưu Bị. Đứng trên tường thành huyện Tân Dã, gã cất tiếng cười vang, trước mặt gã là màu máu đỏ rực.

-Tướng quân, tướng quân mau tỉnh lại!

Đúng lúc Trương Tú vui mừng, tiếng gọi dồn dập chợt lay tỉnh gã.

Trương Tú vội vàng ngồi dậy, nhăn mày hỏi:

-Chuyện gì thế?

-Địch tập kích, địch tập kích…

Trương Tú vẫn chưa tỉnh ngủ, nói theo bản năng:

-Địch tập kích thì tập kích chứ sao.

Gã lại ngả đầu xuống giường nhưng đầu vừa chạm tới gối gỗ, chợt giật mình tỉnh lại, bật người ngồi dậy.

-Ngươi nói cái gì?

-Tướng quân, quân Lưu Bị tập kích đêm!

-A, lập tức nghênh địch.

Trương Tú nói xong, cuống quýt mặc giáp trụ, lao ra khỏi đại trướng.

Quân tốt đã sớm chuẩn bị ngựa, đưa thương cho gã. Gã xông lên trước, xoay người lên ngựa, nắm lấy cây thương.

Cách đại doanh thành Cửu Nữ không xa, một vị tướng lãnh cưỡi Bạch Mã, tay cầm thương Long Đảm dài một trượng hai đang nhìn về phía này.

Hắn chợt giơ thương lên trên không.

Trong bụi cỏ phía sau lưng hắn, hai mươi cung thủ xông lên.

Đám cung tiễn thủ này đều cúi gập người, áp sát đại doanh thành Cửu Nữ. Khi còn cách đại doanh chừng trăm bước, bọn họ dừng lại, lấy tên đặc chế từ trong hồ lộc ra, quẹt chiết tử (dụng cụ tạo lửa thô sơ) rồi giương cung cài tên, ngắm thẳng đại doanh thành Cửu Nữ.

-Bắn tên!

Vù vù!

Một tiếng xé gió vang lên, lửa bay rực trời, thẳng hướng đến đại doanh thành Cửu Nữ.

Hàng cung thủ thứ nhất vừa bắn xong, hàng cung thủ thứ hai đã giương cung cài tên nhìn trời mà bắn. Hàng thứ ba chuẩn bị, hang thứ bốn sẵn sàng. Cung thủ sắp thành bốn hàng, mỗi hàng xếp chừng năm trăm người. Cả nghìn mũi tên bay lên trời, bay về phía đại doanh thành Cửu Nữ, vệ binh đang mơ mơ màng màng trên vọng lâu nhìn thấy hỏa tiễn bắn vào trong doanh trại, rơi xuống bụi rậm, lửa lập tức bùng lên. Khi đó, vệ binh mới kịp phản ứng, thất thanh kêu gào:

-Địch tập kích, có địch tập kích đêm…

Lời còn chưa dứt, một ngọn lửa đã bay tới, cắm phập vào ngực gã.

Vệ binh kêu thảm một tiếng, ngã nhào ra khỏi vọng lâu, võ óc, mất mạng tại chỗ. Đầu tháng xuân vốn mưa nhiều, nhưng không biết vì sao cỏ dại gặp hỏa tiễn vẫn cháy bùng lên, khói đen bốc lên ngùn ngụt.

Toàn bộ đại doanh thành Cửu Nữ lập tức hỗn loạn!

Trương Tú mới kịp cầm thương lên ngựa đã thấy lửa rực cháy trước mắt mà chết lặng cả người.

Thế lửa lan đi rất nhanh!

Không hay rồi, trúng kế rồi!

Trong bụi cỏ dại đã có vật dẫn lửa, nếu không thế lửa không thể nào lan đi nhanh như vậy được. Thế có nghĩa là Lưu Bị sớm đã có phòng bị. Y phá được An Chúng, đánh Nhương thành là giả, dẫn dụ Trương Tú mắc bẫy mới là thật.

Nếu là như vậy…

-Phá vây, theo ta phá vây!

Trương Tú toát mồ hôi lạnh.

Suy nghĩ của gã, nhất cử nhất động của gã đều bị Lưu Bị nắm rõ trong lòng bàn tay, có thể nói là nhất thanh nhị tiên.

Đối thủ này thật sự đáng sợ. Lưu Bị trước kia dường như không lợi hại như vậy, chẳng lẽ khi đến Kinh Châu rồi y đã tiến bộ lên sao?

Đúng lúc này, bên ngoài doanh trại chợt vang lên tiếng hét hò rung trời.

Trong bóng đêm, không biết bao nhiêu binh mã của Lưu Bị từ bốn phương tám hướng tập kích đến, nháy mắt bọn họ đã ùa vào đại doanh thành Cửu Nữ.

Một đội quân tốt vây quanh hai người đang đứng từ trên cao trông về nơi xa.

Dưới tán ô che màu vàng, hai người này đều cao lớn. Một người khoác áo choàng màu xanh nhạt, tay cầm quạt lông, khá khôi ngô, tuấn tú. Người còn lại có vẻ đơn giản, y phục xanh giản dị, tươi cười.

-Quân sư quả nhiên liệu sự như thần.

Người thanh niên kia chắp tay khen.

Nam tử trung niên gày gò khẽ mỉm cười:

-Trương Tú chỉ là kẻ thất phu lỗ mãng, không đáng để nhắc tới.

Chỉ có điều một khi Trương Tú gặp chuyện, Tào tặc ắt sẽ báo thù. Nay Hạ Hầu Đôn ở gần trong gang tấc, không đến ba ngày, ắt sẽ đến. Sắp tới còn phải nhờ Khổng Minh hao tâm nói lời hay trước mặt Lưu Kinh Châu nhiều hơn, mượn chút binh mã đến đây mới được.

Gia Cát Lượng gật đầu:

-Chỉ cần lần này chủ công có thể tóm được hai huyện Niết Dương và Cức Dương, Lưu Kinh Châu sao có thể không ủng hộ được?

-Ha ha, nói thế cũng đúng.

Nhưng thế tộc Kinh Tương vốn căm ghét chủ công, cần Khổng Minh ở giữa hóa giải mới được.

-Lượng hiểu rõ!

Trương Tú dẫn người lao ra khỏi viên môn, đón đường gã là một đại tướng tay cầm ngân thương, ngồi trên Bạch Mã xông tới.

-Trương Bá Loan đừng chạy. Có Thường Sơn Triệu Vân đây.

Vừa nói, viên đại tướng kia vừa múa thương, lập tức cản đường Trương Tú.

Triệu Vân?

Chưa từng nghe đến!

Nếu là hai người Quan Trường và Trương Phi, Trương Tú đương nhiên sẽ cẩn thận hơn một chút. Nhưng Triệu Vân này tuổi tác chỉ chừng ba mươi, không đáng để mắt đến. Trương Tú không hề e sợ chút nào.

Gã vung thương đỡ đòn. Đại thương khẽ rung lên, đâm ra. Nhưng gã còn chưa kịp đâm được một nửa, ngân quang đã lóe lên trước mặt. Triệu Vân phóng đao thúc ngựa nhanh như một tia chớp.

Trương Tú hoảng sợ, thầm nhủ: “Nhanh quá!”

Dù sao kinh nghiệm chiến trận của gã cũng rất phong phú. Thiết thương trong tay lật ngược lại, lập tức đón đường ngân thương của đối phương. Nhưng Triệu Vân vẫn chưa lùi bước, ngân thương trong tay vung hết nhát này đến nhát khác, từng nhát thương lien tiếp, bóng thương thật mạnh, nhưng vạn đóa hoa đang nở rộ. Trương Tú chấn động, không dám khinh thường đối thủ, nghiêm nghị chiến đấu với Triệu Vân.

Người này là ai?

Sao y lại có được võ nghệ như thế? Vì sao gã chưa bao giờ nghe nói đến y?

Trương Tú càng đánh càng cảm thấy kinh hãi. Ngân thương của Triệu Vân chẳng những mau lẹ mà lực đạo cũng hung mãnh, càng đánh càng linh hoạt, sắc bén.

Ngựa hai người chạy quanh. Đánh được hơn mười hiệp, hai người vẫn chưa phân thắng bại.

Từ trong loạn quân, một con khoái mã lao ra, một viên tiểu tướng lớn tiếng nói:

-Tử Long tướng quân đừng sợ, Lã Cát đến giúp người đây.

Nói thì chậm, chuyện diễn ra rất nhanh, Lã Cát đã vung kích tiến lên.

-Lã Cát ư? Ngươi vẫn chưa chết sao?

Trương Tú nhận ra viên tiểu tướng này chính là con nuôi của Lã Bố.

Năm đó, khi Lã Bố quy thuận Đổng Trác, Lã Cát mới mười mấy tuổi. Qua một thời gian dài như vậy, Lã Cát tuy đã trưởng thành nhưng ngoại hình cũng không thay đổi nhiều lắm. Đặc biệt, Trương Tú chỉ nhìn lướt qua đã nhận ra đặc điểm con lai của hắn.

Lã Cát thân khoác đường nghê bảo giáp, thắt lưng đeo sư man ngọc đái, tay cầm một cây Phương Thiên họa kích.

Mới nhìn, Trương Tú còn tưởng là Lã Bố xuất hiện. Năm đó, sau khi Lã Bố chết đi, người nhà Lã gia trốn ra ngoài hải ngoại, Trương Tú còn tưởng Lã Cát cũng đi theo rồi. Thật không ngờ hắn lại đầu quân cho Lưu Bị, hơn nữa, xem ra tên hỗn tử này sống cũng không tồi.

Nói thật ra, bản lĩnh của Lã Cát kém xa Lã Bố.

Đấu một chọi một, mười Lã Cát cũng không phải là đối thủ của Trương Tú.

Nhưng Trương Tú đánh nhau với Triệu Vân lại khá vất vả. Tiếng la hét vang lên khắp nơi, trong ánh lửa sáng rực nơi nơi đều là binh mã của Lưu Bị đuổi đánh binh sĩ Uyển thành của gã. Trương Tú vốn đang sốt ruột, Lã Cát lại xông đến khiến gã cảm nhận được áp lực bất ngờ. Trong lòng gã biết nếu đánh tiếp, không chừng gã sẽ phải vùi thây nơi đại doanh thành Cửu Nữ này.

Vì thế Trương Tú không nói gì, thúc ngựa chạy đi.

Triệu Vân đang định đuổi theo, đã bị hơn mười phó tướng xông đến ngăn lại.

Y không chút hoảng hốt, ngân thương múa như mưa, từng nhát từng nhát lóe lên giữa ánh lữa như thứ ánh sáng ma quỷ. Hơn mười vị phó tướng chỉ trong nháy mắt đã bị Triệu Vân giết hơn một nửa. Lã Cát cũng theo trợ giúp, giết được hai viên đại tướng.

Nhưng cũng chính trong một khoảnh khắc này, Trương Tú đã bỏ chạy trối chết.

-Trương Tú đừng chạy!

Trong đại doanh thành Cửu Nữ, tiếng kêu, tiếng gào thét lien tục vang lên không ngớt.

Trương Tú vác thương chạy trốn, vô cùng khổ sở. Vừa chạy được một, hai dặm, gã chợt nhìn thấy một đại tướng mặc kim giáp, cầm thanh đại kiếm trong tay đang chém đám loạn quân.

-Lưu Bị?

Trương Tú giật mình, mừng rỡ.

Chỉ cần giết Lưu Bị, trận chiến này gã vẫn thắng!

-Đại tặc, để mạng lại!

Trương Tú hăng hái, thúc ngựa, múa thương đánh về phía Lưu Bị.

Chẳng phải có người nói Lưu Bị đang ở Nhương thành bao vây tấn công Trương Tuyền sao?

Hóa ra là nghi binh!

Thật ra, Lưu Bị vốn không muốn đánh Nhương thành, nhưng Tuân Thầm hiến kế nói: “Hiện giờ Lương Châu đang rung chuyển, Hà Đông đang chiến loạn khắp nơi. Tào tặc bị Viên Thượng cầm chân ở Nghiệp Thành, tạm thời chưa thể dứt ra được. Nay đúng là lúc chủ công hành động, trước tấn công An Chúng, sau tấn công Nhương thành, quận Nam Dương tất loạn. Một khi Nam Dương rung chuyển, Hứa Đô cũng sẽ rối loạn, đại thế thiên hạ cũng theo đó mà biến hóa.

Lưu Bị nói:

-Ta đánh Nhương thành, nếu chẳng may Trương Tú cứu viện thì làm sao?

Thật không ngờ Gia Cát Lượng lại nói:

-Trương Tú ắt sẽ không cứu viện Nhương thành. Nếu ta là Trương Tú, ta sẽ nhân cơ hội này lấy Tân Dã.

-Vậy chẳng phải nói ta không thể đánh Nhương thành sao?

-Không. Chủ công đúng là vây Nhương thành thật nhưng không được tấn công mà hãy giả bộ đánh Nhương thành, thực chất là tóm Trương Tú.

Gia Cát Lượng vừa xuất hiện đã thể hiện tài hoa.

Y và Tuân Thầm vạch ra kế sách dương đông kích tây, dẫn xà xuất động. Dẫn dụ Trương Tú đến rồi sau đó mới tiêu diệt. Còn binh mã vây khốn Nhương thành chẳng qua là quân do Quan Bình lĩnh mà thôi. Lúc này, Quan Bình chắc hẳn đã lui về An Chúng.

Trương Tú nhìn Lưu Bị, đôi mắt đỏ ngầu.

Gã thúc ngựa, múa thương lao đến phía Lưu Bị, thề phải lấy bằng được tính mạng hắn.

Lưu Bị không phải hạng người vô năng. Song cổ kiếm trong tay hắn gọi là kiếm nhưng thật ra chính là đại hoàn Long Tước, dài chừng năm thước, một cái nặng mười cân. Có thể ngồi trên ngựa, múa mười cân đại hoàn đủ biết sức của Lưu Bị không kém chút nào. Kể từ khi khởi binh ở Trác quận đến nay, Lưu Bị đã trải qua hơn trăm trận chiến lớn nhỏ, thường xuyên làm gương cho binh sĩ, xung phong nơi tiền tuyến. Nếu nói hắn không có vũ lực thì rõ ràng đã oan uổng cho Lưu Bị rồi. Nhưng vũ lực của hắn cũng phải so với tùy người.

Đối phó với những kẻ tầm thường, cho dù là võ tướng hạng hai, hạng ba, Lưu Bị không gặp chút khó khăn nào.

Nhưng nếu đối phó với những võ tướng siêu hạng nhất như Trương Tú, sức mạnh của hắn lại không đủ. Thấy Trương Tú đánh tới như hung thần ác sát, Lưu Bị có phần hơi e ngại. Hắn không nói gì, song kiếm đỡ đòn, chem. Một binh lính Tây Lương phía sau, sẵn sàng nghênh chiến.

-Trương Bá Loan, còn không mau xuống ngựa đầu hàng sao?!

Sauk hi hô lên những câu này, Lưu Bị bất ngờ quay đầu ngựa, giục ngựa bỏ chạy.

Trương Tú ngây cả người!

Mới vừa bảo ta xuống ngựa đầu hàng mà đã bỏ chạy rồi sao?

Nhưng gã lập tức hiểu ra Lưu Bị đang trêu đùa gã!

Trong lòng cả giận, Trương Tú quát:

-Đại tặc chạy đâu?

Vừa nói, Trương Tú vừa giục ngựa đuổi theo. Mấy tên Bạch Mạo tinh binh xông lên cản đường, chỉ thấy đại thương của Trương Tú vung lên, lăng lên người bọn họ, máu văng tung tóe. Lưu Bị chạy phía trước, Trương Tú đuổi theo phía sau. Gã đuổi theo chưa được bao xa, tai đã nghe thấy tiếng quát lớn như tiếng sấm nổ:

-Bá Loan tiểu nhi, có Yến Nhân Trương Phi đây, mau chết đi.

Một con ngựa ô bất ngờ xông ra.

Vị đại tướng trên lưng ngựa đầu báo mắt chim ưng, uy phong lẫm lẫm, chính là tam gia Trương Dực Đức.

Con ngựa Ô Truy gã cưỡi đã bị Tào Bằng đoạt mất, tặng cho Cam Ninh. Sau này, khi nương nhờ Viên Thiệu, Viên Thiệu để lôi kéo Lưu Bị nên lại tặng cho Trương Phi một con ngựa tốt. Nhưng so về chất lượng, con ngựa này không sánh bằng con ngựa Ô Truy lúc trước.

Trương Tú cả kinh, giơ thương ứng chiến.

Lưu Bị ở phía xa ghìm cương, dừng ngựa, thấy Trương Phi và Trương tú đang đấu với nhau, tức thì cười ha ha.

-Trương Bá Loan, ngươi giờ chắp cánh còn khó thoát, sao còn chưa xuống ngựa đầu hàng đi?

Dứt lời, hắn nắm chặt song kiếm, thúc ngựa xông tới.

Đúng là không biết xấu hổ, đúng là vô liêm sỉ!

Trương Tú thầm chửi hết tám đời tổ tông của Lưu Bị nhưng gã biết gã không thể ham chiến…

Chưa nói chuyện gã không phải đối thủ của Trương Phi, cho dù gã có thể đánh được Trương Phi đi nữa, nhưng đánh lâu, ắt sức cùng lực kiệt, cuối cùng vẫn khó tránh khỏi cái chết. Nếu đã không giết được Lưu Bị thì lúc này, Trương Tú cũng chỉ có thể bỏ trốn mà thôi. Lưu Bị và Trương Phi liên tục đuổi theo, Trương Tú vất vả bỏ chạy.

Vất vả mãi gã mới thấy được cửa hông của đại doanh.

Bên ngoài im ắng dường như không có một người nào. Trương Tú vội vàng giục ngựa tăng tốc, mắt thấy đã sắp lao ra khỏi cửa doanh chợt thấy một đội binh sĩ cầm đao xông từ phía sau doanh trại xông đến. Một vị đại tướng mặt đỏ, mi tằm, mắt xếch, mặc kim giáp, khoác chiến bào xanh lục xông đến. Người này cao chừng chín thước, tay nắm đại đao.

- Trương Bá Loan, Quan Mỗ đã chờ ngươi ở đây lâu rồi.

Quận Kim Thành, năm thứ sáu niên hiệu Tây Hán Chiêu Đế cũng chính là năm thứ tám mươi mốt trước Công nguyên.

Nơi này vốn bao gồm Thanh Hải và phía tây Lan Châu, Cam Túc ngày nay. Ban đầu, nơi này có chín thị trấn.

Thời gian trôi qua, đến năm Kiến Vũ thứ mười ba (tức năm thứ ba mươi bảy Công Nguyên), quận Kim Thành được sát nhập vào Lũng Tây.

Nhưng khi Minh Đế còn tại vị, một lần nữa người lại khôi phục bảy huyện trực thuộc quận Kim Thành bao gồm Doãn Ngô, Kim Thành, Doãn Nhai, Chi Dương, Hạo Môn, Lệnh Cư và Du Trung. Huyện Doãn Ngô vẫn thuộc quyền sở trị của quận Kim Thành như trước. Mãi đến những năm cuối thời Kiến An, nơi này mới sửa đổi thành huyện Du Trung. Chính vì thế, nói Hàn Toại tiến vào chiếm Du Trung, đóng quân ở Mục Uyển là xâm phạm biên giới cũng không sai, bởi Mục Uyển thuộc quận Hán Dương; nhưng nói y không xâm phạm biên giới cũng không có gì quá đáng. Mục Uyển tuy là lãnh địa của quận Hán Dương, nhưng từ sau loạn Biên Chương, đã không có người nào thực sự tiếp nhận nơi này.

Tháng ba năm Kiến An thứ chín, sau khi Lưu Bị bắt đầu hành động ở quận Nam Dương, tập kích huyện An Chúng, gã lại giết chết thái thú Trương Tú ở quận Nam Dương.

Trương Tú vừa chết, Nam Dương đại loạn.

Quan Bình và Trần Đáo dẫn một đội binh mã nhân cơ hội này cướp lấy Niết Dương và Cức Dương.

Ngay khi Lưu Bị chuẩn bị đánh chiếm Uyển thành, Giả Hủ đã đi trước một bước, lệnh Đãng khấu giáo úy, Trung lang tướng Lý Điển dẫn bộ binh đến Uyển thành ngay chiều hôm đó cùng y liên kết giáp công, đánh bại Trần Đáo và Quan Bình, đoạt lại Cức Dương.

Sau đó, Hạ Hầu Đôn dẫn bộ binh tiến vào chiếm lấy Uyển thành.

Lý Điển, Nhạc Tiến chia nhau trấn thủ Hồ Dương, Cức Dương, tạo thành thế hai gọng kìm sẵn sàng tấn công Lưu Bị.

Trương Tuyền, con trai của Trương Tú cố thủ Nhương thành không ra. Lưu Bị không còn cách nào khác, đành phải tạm thời thu binh.

Nhưng dù vậy, hai huyện An Chúng và Niết Dương đổi chủ cũng báo trước mối xung đột giữa hai nhà Tào và Lưu đã không thể hóa giải được nữa.

Hàn Toại ở quận Doãn Ngô nghênh đón một vị khách không mời mà tới.

Mã Đằng đột nhiên đến thăm, khiến Hàn Toại ít nhiều không kịp chuẩn bị.

- Văn Ước, ngươi và ta quen nhau đã được bao lâu rồi?

Trong đại sảnh, Mã Đằng uống một ngụm rượu, chợt than.

Hàn Toại ngẫm nghĩ một chút:

- Quen nhau từ năm Trung Bình thứ hai, đến nay đã gần hai mươi năm.

- Hai mươi năm ư?

Mã Đằng bật cười:

- Thời gian trôi qua nhanh quá. Nhớ năm xưa, ta chỉ là một tên vô danh tiểu tốt, mà nay đã hai màu tóc. Văn Ước, hai mươi năm này, ngươi và ta cùng hợp tác cũng có khi không vui vẻ gì nhưng chuyện đó không quan trọng. Ngươi và ta cùng liên kết, hùng bá một nửa Lương Châu, cho dù là lão già Tào Tháo kia cũng không làm gì được ngươi và ta. Chúng ta vinh nhục cùng chịu.

Hàn Toại nói:

- Đúng vậy.

Y không hiểu vì sao Mã Đằng lại bất ngờ đến Kim thành như thế.

Nhưng y tin rằng Mã Đằng đến đây không phải để nhắc về quá khứ, để tâm sự với y.

Chỉ có điều, Mã Đằng không nói ra, y cũng sẽ không mở lời nói trước. Hàn Toại chỉ đưa đẩy theo Mã Đằng, thi thoảng lại gật đầu đồng ý.

- Đạo làm người nói đại trượng phu sinh thời loạn thế phải biết giơ cao ba thước kiếm, lập công lao sự nghiệp.

Nay đã đến lúc ta muốn giở chút quyền cước, thực hiện kế hoạch lớn. Ta muốn mời Văn Ước trợ giúp ta một tay, có được không?

Kịch hay đến rồi!

Hàn Toại ngồi thẳng người dậy, nhìn Mã Đằng, nói:

- Không biết Thọ Thành muốn lập công lao sự nghiệp gì?

- Lương Châu dù tốt nhưng quá lạnh lẽo.

Ngươi và ta dù nắm được một nửa Lương Châu nhưng dù sao cũng khó có thể thành đại sự. Nay Trung Nguyên đang xảy ra hỗn chiến, Tào Tháo bị ghìm chân ở Hà Bắc, khó có thể thoát được. Chiến sự Hà Đông lại ác liệt, binh lực Quan Trung không có. Cổ nhân nói được Quan Trung là có được cả thiên hạ. Mỗ dù không có được cả thiên hạ cũng không muốn Quan Trung bị khói lửa chiến tranh lan đến. Ta muốn mời Văn Ước cùng ta nắm lấy Quan Trung, chẳng biết có được không?

Mã Đằng đi thẳng vào vấn đề, nói thẳng ra ý nghĩ trong lòng hắn.

Hàn Toại nhất thời không biết nên từ chối như thế nào, nên đối đáp ra sao.

- Thọ Thành muốn làm Vương ở Quan Trung ư?

- Ha ha ha!

Mã Đằng mỉm cười, lắc đầu lia lịa:

- Vương của Quan Trung do ai làm không quan trọng. Nếu Văn Ước muốn làm Vương của Quan Trung, ta cũng ủng hộ ngươi.

Nhưng ta thành tâm đối đãi với Văn Ước, Văn Ước lại khi dễ ta.

Hàn Toại ngẩn ra, tỏ vẻ sợ hãi:

- Huynh trưởng, vì sao lại nói thế?

- Ta ở Võ Uy dốc sức đánh chiếm Hà Tây.

Ta xin Văn Ước giúp ta kìm chân núi Dương Nghĩa, Hán Dương nhưng Văn Ước ngươi lại… Hôm nay ta đến đây là muốn nói với Văn Ước rằng ngươi và ta vui buồn có nhau, hợp thì có lợi, chia ra là hại. Nếu Văn Ước ngươi có yêu cầu gì thì cứ nói, đừng ngại. Vi huynh chỉ cần có thể làm thì nhất định sẽ không từ chối. Chuyện tương lai sau này nếu ngươi muốn trấn thủ Quan Trung, ta sẽ ở lại Lương Châu.

Nếu ngươi muốn Lương Châu, ta sẽ đi Quan Trung. Ngươi và ta quen biết hai mươi năm, không gì là không thể nói được cả. Ngươi thấy sao?

Hàn Toại lặng im!

Mã Đằng đi thẳng vào vấn đề, thẳng thắn nói ra suy nghĩ của hắn khiến y hơi cảm động.

Bảo y không có dã tâm ư?

Chẳng qua là nói xằng. Leo lên được đến địa vị như bọn họ, nếu nói không có dã tâm chắc chắn là không thể. Chẳng qua Hàn Toại không biểu hiện rõ ràng, mạnh mẽ như Mã Đằng. Nhiều năm qua hai người hợp tác với nhau, y vẫn luôn đóng vai trò làm phụ tá.

Quan Trung?

Hàn Toại không phải không nghĩ đến!

Nhưng y biết rõ y không đủ sức.

- Huynh trưởng, huynh làm Hòe lý hầu, lại là tiền tướng quân khâm mệnh của triều đình, đốc phủ Lương Châu là chuyện đương nhiên.

Nhưng Thiêu Đương lão vương có giao tình sâu đậm với ta. Nay lão bị nhốt ở phía tây thành Long Kỳ, cuộc sống rất gian khổ. Lão từng nhiều lần thỉnh cầu với ta, hy vọng huynh trưởng có thể tha cho Mộc Thừa Cốc. Nay đệ mặt dày cầu khẩn, không biết huynh trưởng có thể đồng ý không?

Thành Long Kỳ này chính là huyện Hải Yến thuộc tỉnh Thanh Hải ngày nay.

Thiêu Đương là một bộ lạc tộc người Khương sinh sống ở Hà Hoàng. Thiêu Đương lão vương không phục sự thống trị của Đường Đề, mấy lần đấu tranh không có kết quả liền dẫn quân rời khỏi Tây Lương, đặt chân vào Hà Hoàng. Nhưng Thanh Hải khi đó còn cằn cỗi, còn lạnh giá hơn Lương Châu nhiều. Lúc đó, Khương tộc của Thiêu Đương phải nhờ Hàn Toại giúp đỡ mới miễn cưỡng sống sót nổi…

Thành Long Kỳ vốn thuộc quyền cai quản của Tây bộ đô úy.

Nhưng sau loạn Biên Chương, nơi này đã không còn chịu sự cai trị của Tây bộ đô úy nữa. Chính vì thế khi Vương Mãnh làm Tây bộ đô úy cũng chỉ có thể đặt chân đến Lũng Tây.

Hiện giờ người trấn thủ thành Long Kỳ chính là Bàng Đức - Bàng Lệnh Minh.

Hàn Toại nói những lời này nghe thì tưởng như đang cầu xin cho Khương tộc của Thiêu Đương nhưng thực ra lại có hai ý khác.

Thứ nhất, Mã Đằng ngươi là Hòe Lý Hầu, là tiền tướng quân.

Bằng vào thân phận của ngươi theo lý nên trấn thủ Quan Trung. Cho nên, ngươi làm Quan Trung Vương, ta ủng hộ, nhất định sẽ không phản đối.

Điểm thứ hai, chính là yêu cầu của Hàn Toại.

Mã Đằng mượn người Khương hùng bá Tây Lương, rồi phát triển lực lượng đến như bây giờ. Nói chung, phần lớn người Khương ở Lương Châu đều chịu sự sai khiến của Khương Vương, cho nên Mã Đằng có thể điều động rất đông binh mã. Nhưng nếu Thiêu Đương ra khỏi Hà Hoàng, ắt sẽ không chịu thần phục Đường Đề, hoặc nên nói là bọn họ sẽ không thần phục Mã Đằng. Khương tộc của Thiêu Đương nổi dậy cũng có nghĩa Khương tộc của Đường Đề sẽ xuống dốc.

Mã Đằng và Đường Đề quan hệ rất tốt; Hàn Toại và Khiêu Đương lão vương cũng rất thân thiết!

Vậy chẳng phải nói Mã Đằng ngươi làm Quan Trung Vương thì cứ ở Quan Trung đi. Còn Lương Châu hãy để ta cai quản, để ta thống trị sao.

Cách nói chuyện của người xưa luôn thích vòng vo, quanh co.

Lời nói của Hàn Toại cho thấy y muốn chiếm cứ Lương Châu.

Mã Đằng liên tục gật đầu:

- Hiền đệ nói không sai.

Lúc trước, hắn gọi Hàn Toại là Văn Ước, nhưng giờ hắn đã đổi thành hiền đệ, bày tỏ tình cảm thân mật giữa hai người.

- Lệnh Minh tuổi còn trẻ, còn có nhiều thiếu sót!

Hài tử đó làm việc gì cũng đều dốc hết sức, cho nên… Nhưng hiền đệ yên tâm, ta đã lệnh cho Lệnh Minh trở về Võ Uy, ra trấn huyện Tuyên Uy. Từ nay về sau, thành Long Kỳ giao cho hiền đệ. Mộc Thừa Cốc từ nay về sau để cho Khương tộc của Thiêu Đương phát triển.

Hàn Toại nghe thấy thế mừng rỡ.

Y vốn chỉ muốn thăm dò xem sao, không ngờ Mã Đằng lại đồng ý ngay.

Thành Long Kỳ vốn thuộc quyền cai quản của Võ Uy. Mã Đằng dùng cách này để nói với Hàn Toại rằng “Ta đồng ý giao Lương Châu cho ngươi.”

Vậy thì rất tốt, ít nhất hai người chúng ta cũng thống nhất ý kiến.

Hàn Toại cao hứng, lập tức sai người bày tiệc rượu.

Hai người liên tục chúc tụng nhau, uống rượu rất vui vẻ. Đến khi trời tối sầm, Hàn Toại giữ Mã Đằng ở lại nghỉ ngơi nhưng hắn lại từ chối.

Hắn dẫn theo binh mã đóng quân ngoài thành, trở về Thân Binh doanh vẫn tốt hơn.

Hàn Toại nghe thấy thế càng thấy yên tâm hơn.

Y lại giữ Mã Đằng trò chuyện một hồi rồi mới khách khí tiễn Mã Đằng rời khỏi phủ đệ. Mã Đằng đi rồi, Hàn Toại thở dài. Trong lòng y có sự sảng khoái khó có thể diễn tả hết được. Mã Đằng đi rồi, y có thể độc bá Lương Châu rồi.

Ha ha, Quan Trung Vương ư?

Lão tử không cần.

Ta chỉ muốn làm Lương Châu Vương thật tốt, vậy là đủ rồi!

Đều là Vương, nào có gì thua kém nhau. Tuy nói Quan Trung giàu có, đông đúc, Lương Châu lạnh giá nhưng nắm được Lương Châu, chẳng khác nào đã khống chế được hành lang Hà Tây, thương lộ (đường buôn bán) của Tây Vực. Của cải chưa chắc đã ít hơn. Mấy năm nay Quan Trung liên tục chinh chiến, cũng có phần hoang tàn. Đến lúc đó, y chắc chắn phải tìm cách sửa sang, hơn nữa còn phải đối mặt với Tào Tháo. Càng nghĩ, Hàn Toại càng thấy Lương Châu tốt hơn…

- Nhạc phụ, chuyện này con cảm thấy có chút kỳ lạ.

- Ồ?

- Mã Đằng nào phải người hào phóng như vậy? Sao hắn có thể dễ dàng đồng ý giao Lương Châu ra chứ?

Hàn Toại nghe thấy thế mỉm cười:

- Ngạn Minh không cần lo lắng. Cho dù Mã Đằng có không đồng ý, chỉ cần Thiêu Đương lão Vương ra khỏi Hà Hoàng, liên kết với Khương tộc ở Bạch Mã, Lương Châu này sẽ là thiên hạ của ta. Đến lúc đó, hắn mà đổi ý thì ta sẽ quy thuận Tào Tháo, hợp tác với Tào Tháo đối phó người này. Nếu hắn đồng ý, ta đây vẫn bình yên nắm lấy Lương Châu. Mã Đằng hắn có cách gì ngăn cản ta chứ?

Diêm Hành nghe xong vẫn hơi lo lắng.

Nhưng thấy Hàn Toại cao hứng như thế, gã lại không nói gì nữa. Nhưng không sao, chắc hẳn Mã Đằng cũng không làm gì được chúng ta. Chuyện này đi đến đâu tính đến đó, nếu hắn thực sự đồng ý giao Lương Châu ra cũng không phải là chuyện gì xấu cả.

- Nhạc phụ sớm nghỉ ngơi. Tiểu tế còn có việc phải thảo luận với Công Anh nữa.

- Đi đi.

Hàn Toại gật gật đầu, trở về hậu trạch.

Công Anh tên là Thành Công Anh, cũng là quân sư của Hàn Toại, luôn trung thành và tận tâm với y.

Trong Tam Quốc diễn nghĩa, Thành Công Anh không có danh tiếng gì. Nhưng trong lịch sử, người này đã đi theo Hàn Toại từ những năm cuối thời Trung Bình, là tâm phúc của Hàn Toại. Năm Kiến An, Hàn Toại bị Tào Tháo đánh bại, mang theo đám tàn binh trở về Hoàng Trung. Đám bộ khúc mỗi người đi một nơi, chỉ có Thành Công Anh đi theo y. Sau này, Hàn Toại bị bộ khúc giết chết, Thành Công Anh báo thù cho y xong liền quy thuận Tào Tháo, giữ chức liệt hầu. Người này từng theo thứ sử Ung Châu là Trương Ký, từng đến Lư Thủy, Diên Khang, trải qua loạn Lương Châu, Lũng Hữu, về sau ốm chết. Thành Công Anh thuộc loại nhân vật bị lịch sử chôn vùi, không người biết đến.

Thành Công Anh vốn phải phụng lệnh trấn thủ Du Trung, chẳng ngờ y lại bị phong hàn, nằm bẹp ở nhà, không dậy nổi.

Diêm Hành tìm Thành Công Anh là để thảo luận chuyện Du Trung.

Nằm trên giường bệnh, Thành Công Anh nghe Diêm Hành nói rõ ý đồ của Mã Đằng xong, liền chau mày, trầm tư suy nghĩ.

- Chuyện này rõ ràng không phải tác phong của Mã Đằng.

- Đúng vậy, ta lo rằng Mã Đằng có quỷ kế, nhưng lại không nghĩ ra nguyên nhân là gì. Nhạc phụ quá tin lời Mã Đằng, không chút nghi ngờ nên ta rất lo lắng. Công Anh, ngươi là người nhạc phụ tín nhiệm nhất, chi bằng ngày mai ngươi và ta cùng khuyên can người đi?

Thành Công Anh ngẫm nghĩ một chút, gật đầu, đồng ý.

- Ngạn Minh, thân thể ta đã bình phục rồi, chậm nhất vài ngày nữa sẽ đi Du Trung.

Sau khi ta đi rồi, ngươi phải dốc sức phò tá chủ công nhiều hơn nữa. Chủ công mưu kế sâu xa nhưng những chuyện nhỏ nhặt sẽ không tránh khỏi có sơ xuất. Lúc ấy, ngươi nhất định phải nhắc nhở chủ công. Ngoài ra, ngươi cũng phải đề phòng đám người Mã Ngọn và Lương Hưng. Những người này không đáng tin cậy.

- Quân sư yên tâm, ta hiểu rồi!

Hai người trao đổi tình hình chiến sự sắp tới trong thư phòng.

Bất giác, đêm đã khuya, đã đến giờ tý…

Diêm Hành đứng dậy cáo từ. Thành Công Anh tiễn gã ra đến ngoài cửa phủ.

Chợt từ phía cửa thành xa xa, tiếng mõ dồn dập vang lên, ngay sau đó là những tiếng la hét, ánh lửa ngút trời.

- Có chuyện gì thế này?

Diêm Hành và Thành Công Anh đều ngẩn ra, ngạc nhiên nhìn cửa thành ở phía xa.

Tiếng la hét càng ngày càng vang to hơn, nháy mắt đã lan đi khắp huyện thành Doãn Ngô. Cùng lúc đó, rất nhiều nơi trong thị trấn bốc cháy, chớp mắt, huyện thành đã chìm trong biển lửa.

Địch tập kích ư?

Thành Công Anh và Diêm Hành nhìn nhau, ngơ ngác.

Hai người không hẹn mà cùng thất thanh kêu lên:

- Mã Đằng!

Thành Công Anh quay lại, lớn tiếng quát đám tôi tớ trong phủ:

- Người đầu, mau dẫn ngựa mang đao tới cho ta.

- Công Anh có đại thương không?

- Có!

Diêm Hành tới tìm Thành Công Anh bàn chuyện, vốn không mang theo binh khí. Chuyện xảy ra bất ngờ nên gã không kịp trở tay. Cũng may, quý phủ của Thành Công Anh không hề thiếu binh khí. Diêm Hành chọn một cây trường mâu nặng hơn ba mươi cân, xoay người lên ngựa, đến khôi giáp cũng không kịp mặc. Thành Công Anh cũng vội vàng ứng chiến, lên ngựa, nắm đại đao bảy thước, dẫn gia nhân cùng Diêm Hành xông ra ngoài. Thanh đại đao bảy thước này có sống đao màu đỏ sậm, là loại Tào Công đao điển hình, có tên là Thanh Sương Phủ. Thanh đao nặng hai mươi tám cân, một mặt sắc bén, đao nặng, thân đao hẹp dài. Nếu để Tào Bằng bình phẩm thì thanh Thanh Sương Phủ này chắc hẳn được Tào Cấp chế tạo trước trận chiến Quan Độ, chứ không phải trình độ của ông bây giờ. Ngoài chợ, thanh Thanh Sương Phủ này có giá một ngàn hai trăm xâu tiền.

Gia nhân của Thành Công Anh không nhiều lắm, ước chừng chỉ hơn trăm người.

Diêm Hành và Thành Công Anh dẫn bọn họ xông đi dọc theo con phố dài.

Trong ánh lửa, nơi nơi đều là phản quân. Diêm Hành và Thành Công Anh biến sắc bởi hai người phát hiện ra rằng loạn quân không phải là binh mã Tây Lương của Mã Đằng mà có rất nhiều người là binh sĩ Kim thành. Nói cách khác, binh sĩ Kim thành tạo phản.

- Là người của Hậu Tuyển!

Thành Công Anh liếc mắt đã nhận ra lai lịch của đám phản quân này, hét lớn.

Hậu Tuyển là một trong những thuộc hạ của Hàn Toại.

Đó cũng là tâm phúc của Hàn Toại. Hơn nữa Hậu Tuyển, Trình Ngân và Lý Kham có quan hệ rất tốt. Đặc biệt Hậu Tuyển và Lý Kham còn có quan hệ sui gia với nhau. Nếu Hậu Tuyển làm phản, vậy chẳng phải Trình Ngân và Lý Kham cũng làm phản sao? Còn có Mã Ngoạn, Dương Thu, Lương Hưng, Trương Hoành, liệu bọn họ có cùng tạo phản không? Mã Đằng làm sao để chiêu hàng bọn họ? Sao cửa thành lại bị mở ra thế này?

Bao nhiêu nghi vấn liên tiếp hiện lên trong đầu Thành Công Anh và Diêm Hành.

Nhưng bọn họ không có thời gian để suy nghĩ những vấn đề này. Diêm Hành cắn răng, thúc ngựa xông về phía đám phản quân.

- Công Anh, cứu chủ công. Ta đi ngăn bọn họ lại.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx