sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Thanh gươm huyền bí (Quyển 1) - Chương 4 phần 1

Chương 4: Cạm bẫy

Ngay khi Lyra vừa đi khỏi, Will tìm một trạm điện thoại và quay số của văn phòng luật sư mà cậu tìm thấy trên phong bì.

“Alô, cho cháu nói chuyện với ông Perkins ạ”.

“Làm ơn cho hỏi ai đang gọi đấy?”

“Có việc liên quan đến tới ông John Parry ạ. Cháu là con trai ông ấy.”

“Cậu vui lòng chờ một chút nhé...”

Một phút trôi qua, rồi một giọng nói vang lên, “Alô, tôi là Alan Perkins đây. Tôi đang được nói chuyện với ai đây?”

“William Parry. Xin lỗi ông vì cháu đã gọi. Đó là việc về bố cháu, John Parry. Cứ ba tháng một lần ông gửi tiền từ tài khoản của bố cháu sang tài khoản của mẹ cháu.”

“Vâng...”

“Ừm, cháu muốn biết bố cháu ở đâu. Bố cháu còn sống hay đã chết?”

“Cháu bao nhiêu tuổi hả William?”

“Mười hai tuổi. Cháu muốn biết về bố cháu.”

“Ừ... Mẹ của cháu… liệu mẹ cháu… có biết cháu đang gọi điện cho tôi không?”

Will thận trọng suy nghĩ.

“Không,” cậu trả lời. “Nhưng mẹ cháu không được khỏe. Mẹ cháu không thể nói cho cháu biết nhiều về bố mà cháu thì lại rất muốn biết.”

“Ừ, tôi thấy rồi. Cháu đang ở đâu? Cháu có ở nhà không?”

“Không, Cháu... Cháu ở Oxford.”

“Một mình ư?”

“Vâng.”

“Cháu nói là mẹ của cháu không khỏe phải không?”

“Vâng.”

“Mẹ cháu đang ở bệnh viện hay sao đó?”

“Đại loại thế. Thưa ông, ông có thể cho cháu biết hay không ạ?”

“Được, tôi có thể cho cháu biết một vài điều nhưng không nhiều đâu và cũng không phải lúc này, tôi cũng không muốn làm việc này qua điện thoại. Trong vòng năm phút nữa, tôi phải đi gặp khách hàng... Cháu có thể tìm đường tới văn phòng của tôi vào hai rưỡi được không?”

“Không được đâu ạ.” Will trả lời. Là thế có thể quá mạo hiểm: có thể ông ta biết được tin là cảnh sát đang truy nã mình. Cậu bé nghĩ thật nhanh rồi tiếp tục. “Cháu phải bắt xe buýt tới Nottingham và cháu không muốn bị lỡ chuyến đi, ông có thể nói với cháu qua điện thoại được chứ? Tất cả điều cháu muốn biết là bố cháu có còn sống không, và nếu bố cháu còn sống thì cháu có thể tìm thấy bố ở đâu. Ông nói với cháu được chứ?”

“Không đơn giản như vậy đâu. Tôi không thể tiết lộ thông tin cá nhân của khách hàng trừ khi tôi chắc chắn là khách hàng của mình muốn. Dù sao đi nữa, tôi cũng muốn xem những giấy tờ chứng minh cháu là ai.”

“Vâng, cháu hiểu, nhưng ông có thể chỉ nói cho cháu biết bố cháu còn sống hay đã chết được không?”

“Ồ... Không được. Như vậy là không bảo mật. Thật đáng tiếc là tôi không thể nói với cháu vì tôi cũng không biết.”

“Cái gì cơ?”

“Số tiền đó đến từ một hợp đồng ủy thác gia đình. Ông ấy đưa chỉ dẫn cho tôi chuyển tiền cho mẹ con cậu tới khi nào ông ta bảo thôi. Từ ngày đó đến giờ tôi cũng không nghe thấy ông ấy nói gì cả. Nhưng có một điều... Tôi nghĩ rằng ông ấy đã biến mất. Đó là lý do tại sao mà tôi không thể nói cho cháu biết được.”

“Biến mất? Cứ thế mà… biến?”

“Thực ra thì đó là vấn đề của bên cảnh sát. Này cháu, tạo sao cháu không tới văn phòng của tôi và...”

“Cháu không thể. Cháu phải tới Nottingham.”

“Được rồi, hãy viết thư cho tôi hay là bảo mẹ cháu viết cho tôi, tôi sẽ cho hai mẹ con biết những điều tôi có thể nói. Nhưng cháu phải hiểu rằng tôi không thể làm được nhiều qua điện thoại.”

“Vâng, cháu cũng cho là thế. Nhưng ông có thể cho cháu biết bố cháu mất tích ở đâu được không ạ?”

“Như tôi đã nói, đó là vấn đề phía các nhà chức trách. Vào thời gian đó, có một vài bài báo liên quan đấy. Cháu có biết bố cháu là một nhà thám hiểm không?”

“Vâng, mẹ cháu có nói với cháu một vài chuyện.”

“Bố cháu đã dẫn đầu một đoàn thám hiểm và cả đoàn đã mất tích. Khoảng mười năm trước. Có thể là hơn.”

“Ở đâu ạ?”

“Ở miền Bắc xa xôi. Tôi nghĩ là Alaska. Cháu có thể tra cứu ở thư viện công cộng ấy. Tại sao cháu...”

Nhưng đúng lúc đó thì Will hết sạch tiền xu để gọi điện. Điện thoại cứ tút dài bên tai cậu. Will liền bỏ ống nghe xuống rồi

Bây giờ điều cậu muốn hơn cả là được nói chuyện với mẹ. Cậu phải tự ngăn mình không gọi điện cho bà Cooper bởi nếu cậu nghe thấy tiếng mẹ lúc này thì e rằng cậu không thể không về thăm mẹ được. Nhưng nếu làm như vậy thì cả hai mẹ con đều gặp nguy hiểm. Nhưng có thể gửi cho mẹ một tấm thiệp.

Will chọn tấm thiệp có hình phong cảnh thành phố và viết: “GỬI MẸ THÂN YÊU, CON VẪN KHỎE VÀ AN TOÀN. CON SẼ SỚM GẶP LẠI MẸ. CON MONG MỌI THỨ ĐỀU TỐT ĐẸP. CON YÊU MẸ. WILL.” Cậu đề địa chỉ, mua một cái tem, ôm tấm thiệp trong lòng một lúc rồi mới bỏ nó vào thùng thư.

Lúc này là giữa buổi sáng, cậu đang ở phố mua bán chính, những chiếc ô tô buýt luồn lách trong đám đông khách bộ hành. Will nhận ra mình thật lộ liễu; vì đây là ngày thường, vào giờ này những đứa trẻ tầm tuổi như cậu đáng nhẽ đang ở trường. Vậy thì cậu đi đâu?

Không cần mất nhiều thời gian để ẩn mình, Will có thể dễ dàng trốn đi vì cậu rất giỏi việc này; cậu thậm chí còn tự hào về khả năng của mình. Cái cách cậu làm cũng giống như cái cách mà Serafina Pekkala đã làm cho mình trở nên vô hình khi ở trên tàu, cậu làm cho mình không dễ bị thấy. Đó là hòa mình vào cảnh quan xung quanh.

Biết rất rõ về thế giới của mình đang sống, cậu đến một cửa hàng văn phòng phẩm, mua một cái bút bi, một xếp giấy và một cái cặp. Các trường học thường gửi học sinh đi khảo sát mua sắm hoặc một vài hoạt động như thế. Nếu trông cậu bé giống như đang tham gia một kế hoạch như vậy thì cậu sẽ không bị lạc lõng.

Will đi dọc con phố, giả vờ như mình đang ghi chép một vài số liệu, khi thấy thư viện công cộng, mắt cậu mở thật.

***

Trong lúc đó, Lyra đang tìm một nơi nào đó thật tĩnh lặng để tham khảo ý kiến chiếc Chân - kế. Ở Oxford của cô, chỉ trong năm phút đi bộ cũng có thể tìm được hàng tá chỗ. Nhưng Oxford này khác xa quá mức tưởng tượng, với những mảnh chắp vá thân thuộc đến nao lòng ngay bên cạnh những sự kỳ dị lạ lùng gần như khó hiểu: tại sao người ta lại sơn những dòng kẻ màu vàng trên đường? Những chấm trắng lốm đốm trên vỉa hè là cái gì? (Ở thế giới của Lyra, họ chưa từng được biết đến kẹo cao su.) Còn những cái đèn xanh đỏ ở góc phố nữa? Quả thật còn khó đọc hơn cả Chân - kế bội phần.

Đây rồi, cổng trường đại học Thánh John, nơi cô bé và Roger đã trèo lên vào buổi tối để làm pháo hoa trên những luống hoa; rồi những phiến đá cũ rất đặc biệt ở phố Catte. Chỗ đó Simon Parslow đã viết nguệch ngoạc hai chữ SP, ở đây cũng giống hệt như vậy! Ai đó trên thế giới này có tên viết tắt giống vậy cũng đã đứng vẩn vơ ở đây và làm một việc không khác tẹo nào.

Có thể ở thế giới này cũng có một Simon Parslow.

Và có thể cũng có một Lyra.

Sự ớn lạnh chạy dọc sống lưng Lyra, Pantalaimon trong hình dáng một con chuột chui tọt vào túi cô. Cô bé tự lắc đầu, chẳng cần tưởng tượng nhiều thì cũng có quá đủ những bí ẩn rồi.

Một khác biệt nữa ở thế giới này là có rất nhiều người đi bộ trên vỉa hè, họ ở trong và ngoài những tòa nhà, tất cả loại người, đàn bà cũng ăn mặc giống như đàn ông, cả người châu Phi, có cả một nhóm người Tartar ngoan ngoãn đi theo sau người dẫn đầu, tất cả đều ăn mặc gọn gàng và đeo một chiếc túi nhỏ màu đen. Lúc đầu nhìn thấy họ, cô bé rất sợ vì họ không có nhân tính, mà những người như vậy ở thế giới của cô gọi là ma trơi hay còn tệ hơn thế.

Nhưng (điều này mới lạ lùng nhất), trông họ vẫn đầy sức sống. Những sinh vật này đi lại rất hoạt bát, vì dẫu sao họ đều là con người, nên Lyra buộc phải thừa nhận rằng có lẽ ở đây họ là như vậy, rằng nhân tính của họ cũng giống hệt Will, cũng được giấu ở bên trong.

Sau một giờ lang thang, xem xét Oxford giả này (theo Lyra thì Oxford của cô mới là thật) cô thấy đói, cô mua cho mình một thanh sôcôla bằng đồng hai mươi bảng. Người bán hàng nhìn cô vẻ kỳ quặc, mặc dù cô nói rất rõ ràng, nhưng ông ta là người Ấn Độ và ông không nghe được giọng của cô. Còn chút tiền lẻ, cô mua một quả táo ở chợ Covered. Nó lớn hơn ở Oxford rất nhiều, cô đi tới phía công viên. Cô thấy mình đang đứng bên ngoài một tòa nhà thật lớn, một tòa nhà lớn như vậy không hề tồn tại trong Oxford thật của Lyra. Cô ngồi trên thảm cỏ phía ngoài để ăn, thầm ngưỡng mộ tòa nhà cao.

Thì ra đó là bảo tàng. Cửa bảo tàng đang mở, bên trong có rất nhiều thú nhồi bông, xương hóa thạch và các mẫu khoáng chất giống như bảo tàng địa chất Hoàng gia mà cô đã đi thăm cùng với bà Coulter ở London. Phía sau sảnh lớn toàn bằng kim loại và kính là một lối đi dẫn vào khu vực khác của bảo tàng, trông nó có vẻ vắng vẻ, Lyra liền bước vào xem. Trong đầu cô lúc này chỉ có chiếc Chân - kế. Ở căn phòng thứ hai, cô nhìn thấy những thứ rất quen thuộc với mình: một va ly đựng đầy quần áo rét, trông giống như bộ áo lông của cô... những chiếc xe trượt tuyết, sừng hải mã được chạm khắc và cái lao để săn hải cẩu... cùng với một trăm lẻ một chiến lợi phẩm lộn xộn, di vật, dụng cụ phép thuật và những vũ khí không chỉ ở Bắc Cực, mà như cô thấy, từ nhiều nơi trên thế giới này.

Thật là kỳ lạ. Bộ da của tuần lộc giống hệt thế giới của cô nhưng cách họ buộc dây vào xe trượt tuyết thì hoàn toàn khác. Có vài bức ảnh về những người đi săn ở Bắc Cực, giống hệt hai gã đã bắt Lyra đem bán cô tới Bolvangar. Nhìn này! Cũng chính là những gã đó! Thậm chí những sợi dây đã sờn, được nối lại cũng chính xác đến từng điểm một, cô cảm nhận điều này rất sâu sắc, chúng đã được buộc vào mỗi chiếc xe trượt tuyết trong hàng giờ đau đớn. Những điều bí ẩn này là gì vậy? Sau tất cả, có phải chỉ có một thế giới duy nhất, liệu thế giới nào là mơ đây?

Cô lại nhớ đến chiếc Chân - kế khi đi qua một thứ gì đó. Trong một ngăn kính có khung bằng gỗ sơn đen, có rất nhiều sọ người, một vài cái còn có lỗ; một vài cái ở phía trán, một vài cái ở bên cạnh, vài cái lại ở đỉnh đầu. Có một cái có hai lỗ ở giữa. Quá trình này, được viết nguệch ngoạc trên một tấm thiệp, được gọi là khoan. Tấm thiệp này cũng nói rằng tất cả những lỗ hổng được tạo ra trong suốt quãng đời của người đó, bởi vì xương đã liền và phát triển quanh chóp. Tuy nhiên, có những cái không có lỗ hổng; mà lỗ hổng ở đây là do đầu mũi tên bằng đồng vẫn còn trong sọ, cái chóp này rất nhọn và bị vỡ, vì vậy rất khác nhau.

Đó là những điều mà những người Tartar phương bắc đã làm. Theo những Học giả am hiểu thì chính Stanislaus Grumman đã tự tạo cho mình một lỗ hổng. Lyra nhìn quanh thật nhanh, khi không thấy ai ở gần, cô mới lấy chiếc Chân - kế ra.

Cô tập trung vào những chiếc sọ và hỏi: Những chiếc sọ này thuộc về loại người nào, tại sao họ lại có những lỗ hổng trên đầu?

Khi cô đứng tập trung trong ánh sáng đầy bụi được lọc bởi mái nhà bằng kính và xuôi xuống qua phòng trưng bày ở tầng trên, cô không hề biết mình đang bị theo dõi.

Một ông già khoảng độ sáu mươi tuổi, trông rất có uy quyền, mặc bộ quần áo may bằng vải kẻ rất đẹp, đội cái mũ panama, đang đứng ở phòng trưng bày phía trên nhìn xuống qua những thanh chắn bằng sắt.

Mái tóc xám của ông được chải gọn gàng từ vầng trán rám nắng hơi nhăn nheo ra phía sau. Ông ta có đôi mắt đen to và hàng mi thẳng dài. Cứ mỗi phút, ông ta lại đưa lưỡi ra liếm môi. Chiếc khăn mùi xoa màu trắng trên túi áo ngực xực nức mùi nước hoa cologne giống như mùi những cây trồng trong ngôi nhà quá nóng đến nỗi rễ của nó bị rữa ra vậy.

Ông ta đã theo dõi Lyra được vài phút. Khi cô di chuyển ở phía dưới thì ông này cũng di chuyển theo phía bên trên. Khi cô đứng im trước những chiếc sọ, ông ta quan sát cô thật gần, để ý tất cả trên người cô: mái tóc bờm xờm, vết thâm trên má cô, bộ quần áo mới, chiếc cổ trần uốn cong trên chiếc Chân - kế, đôi chân không giày dép của cô.

Ông ta rút khăn tay trên ngực áo ra lau trán rồi lại lấy lau cầu thang.

Lyra đang mải mê tìm hiểu những điều kì lạ. Không thể tưởng tượng được, những chiếc sọ này quá lâu rồi. Tấm thiếp trong ngăn tủ chỉ viết ngắn gọn THỜI KÌ ĐỒ ĐỒNG, nhưng theo Chân - kế thì cái đầu đó đã có cách đây 33.254 năm, ông ta là một phù thủy và lỗ hổng đó được tạo ra để cho những vị thần đi vào đầu ông. Và rồi chiếc Chân - kế, thông thường nó thỉnh thoảng vẫn trả lời những câu hỏi mà Lyra không hỏi, nó góp ý với Lyra là có nhiều Bụi ở chiếc đầu bị khoan hơn là những cái đầu có mũi tên.

Cái đó có ý nghĩa gì vậy nè trời? Lyra ra khỏi trạng thái tĩnh lặng mà cô dành cho Chân - kế, trở lại với thực tại, cô thấy mình không còn đứng một mình nữa. Ở ngăn bên cạnh, một người đàn ông lớn tuổi trong bộ quần áo màu xám, ông sức nước hoa rất thơm. Ông làm cô nhớ đến một ai đó nhưng cô vẫn chưa nghĩ ra được.

Biết được cô bé đang nhìn mình, ông quay ra mỉm cười.

“Cháu đang nhìn vào những cái sọ bị khoan à?” ông già hỏi. “Những người này làm những việc mới kì quặc làm sao.”

“Ừm,” cô bé không biểu lộ gì.

“Cháu có biết, có những người vẫn làm như vậy không?”

“Có,” cô bé trả lời.

“Hippi, cháu biết đấy, những người như vậy. Dĩ nhiên là cháu còn quá nhỏ để biết tới người Hippi. Họ nói rằng làm cách này còn hiệu quả hơn là dùng thuốc đấy.”

Lyra cất Chân - kế vào ba lô của mình rồi tự hỏi làm cách nào mình có thể ra khỏi nơi này: cô vẫn chưa hỏi nó câu hỏi chính, còn ông lão này đang bắt chuyện với mình. Ông ta có vẻ tốt, và tất nhiên nụ cười của ông trông rất tử tế. Ông ta lại gần hơn. Tay ông ta chạm nhẹ vào Lyra khi ông dựa lưng vào ngăn kính.

“Chúng làm cháu ngạc nhiên phải không? Không thuốc gây mê, không sát trùng, chỉ bằng những dụng cụ bằng đá. Chúng chắc hẳn rất cứng phải không? Ta không nghĩ là mình đã từng nhìn thấy cháu ở đây. Ta đến đây rất thường xuyên. Tên cháu là gì?”

“Lizzie,” cô trả lời rất thoải mái.

“Lizzie. Chào cháu, Lizzie. Ta là Charles. Ở Oxford, cháu có đi học không?”

Cô không biết chắc phải trả lời như thế nào.

“Không,” Lyra nói.

“Cháu chỉ ghé thăm thôi à? Cháu đã chọn một nơi thật tuyệt vời để ghé thăm đấy. Cháu đặc biệt quan tâm tới gì nào?”

Đã lâu rồiô chưa gặp ai khiến cô cảm thấy bối rối hơn là người đàn ông này. Một đằng thì ông ta rất tử tế, thân thiện, ăn mặc rất sạch sẽ và sáng sủa, nhưng đằng khác Pantalaimon ở trong túi cô lúc này đang tìm cách thu hút sự chú ý của Lyra và xin cô hãy cẩn thận, bởi vì nó cũng gần nhớ ra một việc gì đó. Từ một nơi nào đó, cô nhận thấy có mùi, mùi phân, mùi thối rửa. Cô nhớ lại tòa cung điện của Raknison, không khí thấm đượm mùi nước hoa nhưng sàn nhà đầy rác rưởi.

“Điều cháu quan tâm ư?” cô nói. “Ồ, tất cả mọi thứ. Khi cháu đi qua đây, cháu thấy những cái sọ này và chúng làm cháu quan tâm tức thì. Cháu nghĩ là không một ai muốn được như vậy. Thật kinh khủng.”

“Ừ, ta cũng chẳng thích tự làm mình như thế, nhưng ta cam đoan là nó vẫn có đấy. Ta có thể dẫn cháu tới gặp người đã làm việc này,” trông ông ta thân thiện và tốt bụng đến nỗi suýt nữa thì cô liều lĩnh. Nhưng khi thấy cái lưỡi nhỏ lấm chấm đen liếm ướt át trông như là rắn cô bé liền lắc đầu.

“Cháu phải đi. Cảm ơn vì lời mời của ông nhưng tốt hơn hết là cháu không nên đi. Dù sao đi nữa, cháu phải đi giờ đây vì cháu sắp gặp một người. Bạn cháu,” cô bé nói thêm. “Người cháu đang ở cùng.”

“Được, tất nhiên rồi,” ông ta nói đầy tử tế. “Hà, nói chuyện với cháu thật là thích. Tạm biệt Lizzie.”

“Tạm biệt,” cô bé chào.

“À, với lại, đây là tên và địa chỉ của ta,” ông ta đưa cho Lyra một tấm danh thiếp. “Đề phòng trường hợp cháu đổi ý muốn biết nhiều hơn nữa về những thứ như thế.”

“Cảm ơn ông ạ,” cô ồn tồn, rồi để tấm thiếp vào sau ba lô trước khi ra khỏi bảo tàng. Lúc đi ra, cô cảm thấy mình như đang bị ông ta nhìn theo

Khi đã ra khỏi bảo tàng, cô liền quay lại công viên, nơi ô biết có một cái sân giành cho môn cricket và những môn thể thao khác, rồi cô tìm một khoảng yên tịnh dưới những tán cây và lại thử Chân - kế một lần nữa.

Lần này cô hỏi về nơi có thể tìm ra một Học giả biết về Bụi. Câu trả lời nhận được thật đơn giản: nó chỉ về hướng căn phòng trong tòa nhà cao tầng phía trước mặt. Thực ra, câu trả lời quá thẳng thắn và quá bất ngờ làm Lyra cho rằng Chân - kế có nhiều điều muốn nói nữa: bây giờ cô bé nhận ra là nó có mang cảm xúc, giống như con người, và cô biết rằng nó muốn nói nữa với cô.

Giờ thì nó nói thật. Những điều nó cho biết là: Hãy quan tâm hơn tới cậu bé. Điều quan trọng là giúp cậu tìm ra bố. Nhớ lấy trong đầu điều này.

Cô bé chớp mắt. Cô thật sự hoảng hốt. Will đã hiện ra từ hư không để giúp cô; chắc chắn hiển nhiên như vậy. Cái ý nghĩ mình đã đi cả quãng đường tới đây chỉ để giúp cậu ta làm cô hết hơi.

Nhưng Chân - kế vẫn chưa nói xong. Cái kim lại tiếp tục xoay, và cô bé đọc: Đừng nói dối Học giả.

Lyra bọc tấm vải nhung quanh Chân - kế rồi cất vào trong ba lô. Rồi cô đứng dậy nhìn quanh để tìm cho ra tòa nhà mà học giả đó đang ở và đi về hướng đó, trong lòng ngổn ngang bất an và ngờ vực.

***

Will dễ dàng tìm ra thư viện. Người giữ thư viện đã được thuyết phục rằng cậu bé đang làm bài nghiên cứu địa lý, cho nên đã giúp cậu tìm một đống phụ trương của tờ Times vào năm cậu được sinh ra, cũng là năm mà bố cậu bị mất tích. Dĩ nhiên, có vài mục về John Parry, c liên quan tới một cuộc thám hiểm khảo cổ học.

Cậu phát hiện có những cuộn vi phim để riêng từng tháng. Will lần lượt đưa chúng vào máy chiếu để tìm hiểu câu chuyện và đọc với sự tập trung cao độ. Câu chuyện đầu tiên kể về chuyến đi của đoàn thám hiểm tới phía Bắc Alaska. Đoàn thám hiểm này được Viện Khảo Cổ thuộc trường Đại học Oxford tài trợ. Đoàn thám hiểm sẽ khảo sát khu vực mà họ mong rằng sẽ tìm thấy dấu tích của người cổ xưa sinh sống. Đi cùng đoàn thám hiểm là ông John Parry, một sĩ quan Hoàng gia và là một nhà thám hiểm chuyên nghiệp.

Câu chuyện thứ hai để xếp vào sáu tháng sau. Nó chỉ nói ngắn gọn rằng đoàn thám hiểm đã tới Trạm Khảo Sát Cực Bắc vùng Bắc Mỹ tại Noatak, Alaska.

Câu chuyện thứ ba tiếp đó hai tháng. Người ta nói rằng không có tín hiệu trả lời từ Trạm Khảo Sát và John Parry cùng đoàn thám hiểm được coi như là đã mất tích.

Có hàng loạt những tít ngắn sau đó, miêu tả rằng những đội tìm kiếm đã vô vọng khi tìm kiếm họ, những chuyến bay lùng kiếm qua biển Bering, phản ứng của Viện Khảo Cổ và phỏng vấn người thân...


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx