sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Thành phố xương - Chương 14 - Phần 1

14

Khách sạn Dumort

Vào ban đêm, nhà thờ trên đường Diamon nhìn thật ma qucửa sổ cong cong theo phong cách Gothic phản chiếu ánh trăng như những tấm gương bạc. Hàng rào bằng sắt uốn bao quanh tòa nhà và được sơn màu đen mờ. Clary lắc lắc cổng trước, nhưng ổ khóa chắc nụi giữ cánh cổng đóng chặt. “Cổng khóa rồi.” cô nói, liếc ra sau nhìn Jace.

Anh vung thanh stele. “Để anh lo.”

Cô quan sát trong khi anh vẽ lên cái khóa, nhìn những những đường cong thanh mảnh của lưng anh, nhìn những cơ bắp lộ ra dưới tay áo phông ngắn tay. Ánh trăng đã gội sạch màu tóc anh, khiến nó giống màu bạc hơn là vàng.

Cái khóa rơi lanh canh trên mặt đất và bị vặn xoắn tới biến dạng. Jace có vẻ hài lòng với chính mình. “Như thường lệ,” anh nói, “anh giỏi tới đáng ngạc nhiên trong vụ này.”

Clary đột nhiên thấy bực. “Khi phần chúc mừng thành công của bản thân trong đêm nay kết thúc, chúng ta có thể trở lại phần cứu bạn thân của tôi khỏi bị hút cạn máu mà chết chứ?”

“Hút cạn máu,” Jace bị ấn tượng. “Quả là một từ rất kêu.”

“Và anh là đồ...”

“Chậc chậc,” anh ngắt lời. “Không chửi bậy trong nhà thờ.”

“Chúng ta chưa ở trong nhà thờ.” Clary lầm bầm, đi theo anh lên đoạn đường rải đá dẫn tới cánh cửa đôi. Mái vòm đá phía trên cánh cửa được chạm khắc đẹp mắt hình một thiên thần đang từ điểm cao nhất nhìn xuống. Những ngọn tháp nhọn hoắt đâm thẳng lên bầu trời đêm và Clary nhận ra đây là nhà thờ cô đã thoáng thấy từ Công Viên McCarren. Cô cắn môi. “Phá khóa nhà thờ có vẻ là một công việc tội lỗi.”

Jace nhìn nghiêng dưới ánh trăng trông mới thư thái làm sao. “Chúng ta sẽ không làm vậy,” anh nói và nhét thanh stele vào túi. Anh đặt bàn tay nâu gầy, đầy những vết sẹo trắng nhỏ giống như một màn ren, lên cánh cửa gỗ, ngay trên then cửa. “Nhân danh hội Clave,” anh nói, “con xin phép được bước vào nơi linh thiêng này. Nhân danh Cuộc Chiến Chưa Bao Giờ Kết Thúc, con cầu xin được sử dụng vũ khí của người. Và nhân danh Thiên Thần Raziel, con xin người chúc phúc cho sứ mệnh của con trước bóng tối.”

Clary nhìn anh chăm chú. Anh không di chuyển, dù gió đêm thổi tóc xòa xuống mắt anh; anh chớp mắt, và ngay khi cô định nói, cánh cửa lách cách mở ra và tiếng bản lề cọt kẹt vang lên. Cánh cửa nhẹ nhàng xoay vào trong trước mặt họ, mở vào khoảng không vắng vẻ, tối tăm, lạnh lẽo, được thắp sáng nhờ những ánh nến.

Jace bước lùi lại. “Em đi trước đi.”

Khi Clary bước vào trong, một luồng không khí mát mẻ bao trùm lấy cô, cùng với mùi đá và sáp nến. Những hàng ghế lễ chìm trong bóng tối kéo dài tới tận bệ thờ, và những hàng nến tỏa sáng như cả rừng tia sáng in lên bức tường đầu kia. Cô nhận ra, trừ Học Viện, nơi này không tính, thì trước giờ cô chưa thực sự vào trong một nhà thờ nào. Cô đã nhìn thấy tranh, thấy không gian trong những nhà thờ qua phim ảnh và những bộ phim hoạt hình anime, nhà thờ xuất hiện khá thường xuyên trong mấy thứ này. Một cảnh trong bộ phim hoạt hình yêu thích của cô diễn ra trong một nhà thờ với cha xứ ma cà rồng xấu xa. Đáng ra người ta phải có cảm giác an toàn trong nhà thờ, nhưng cô thì không. Những bóng đen lạ kỳ dường như đang lom lom nhòm cô từ trong bóng tối. Cô rùng mình.

“Những bức tường đá ngăn cái nóng lại.” Jace nói khi để ý thấy.

“Không phải thế,” cô nói. “Anh biết đấy, trước nay tôi chưa từng vào trong nhà thờ.”

“Em đã ở trong Học Viện.”

“Ý tôi là nhà thờ thực sự ấy. Có làm lễ ấy. Kiểu dạng như thế.”

“Vậy à. Ừ, đây là chính điện, nơi đặt những hàng ghế lễ. Là nơi người ta ngồi trong giờ lễ.” Anh tiến lên, giọng dội lại từ những bức tường đá. “Trên này là nơi tụng kinh. Đó là nơi chúng ta đang đứng. Và đây là bệ thờ, nơi cha xứ thực hiện lễ Ban Thánh Thể. Nó luôn luôn ở phía đông nhà thờ.” Anh quỳ xuống trước bệ thờ, và cô thoáng nghĩ anh đang cầu nguyện. Bệ thờ khá cao, làm từ đá cẩm thạch đen và phủ khăn đỏ. Đằng sau nó là tấm bình phong vàng trang trí công phu, khắc hình các vị thánh và những người tử vì đạo, đều có một đĩa vàng dẹt sau đầu tượng trưng cho vầng hào quang.

“Jace,” cô thì thầm. “Anh đang làm gì đấy?”

Anh đặt tay lên nền đá và di chuyển lên xuống nhanh chóng, như thể tìm gì đó, những ngón tay khuấy động lớp bụi bám. “Tìm vũ khí.”

“Ở đây á?”

“Chúng được giấu thường là dưới bệ thờ. Để bọn anh sử dụng trong trường hợp khẩn cấp.”

“Và đây là gì nhỉ, một kiểu thỏa thuận mà các anh giao kèo với nhà thờ Công giáo ư?”

“Không hẳn. Ác quỷ có mặt trên trái đất ngay khi con người xuất hiện. Chúng xuất hiện ở mọi nơi, trong những hình dáng khác nhau - quỷ daemon của người Hi Lạp, quỷ daevas Ba Tư, asuras trong tín ngưỡng Hindu, oni của Nhật. Hầu hết những hệ thống tín ngưỡng đều có cách để hợp nhất giữa sự tồn tại của chúng và những cuộc đấu tranh chống lại chúng. Thợ Săn Bóng Tối không gắn liền với duy một tôn giáo nào, và vì thế các tôn giáo đều hỗ trợ bọn anh trong mọi cuộc chiến. Anh có thể dễ dàng nhờ sự giúp đỡ của từ Giáo đường Do Thái hay đền thờ thần đạo Shinto, hoặc... A. Đây rồi.” Anh phủi đất cát trong khi cô quỳ xuống bên cạnh. Được khắc trên một trong những viên đá hình bát giác ngay trước bệ thờ là một chữ rune. Clary nhận ra nó, dễ dàng như đang đọc một từ tiếng Anh. Nó là chữ rune mang nghĩa “Nephilim.”

Jace rút thanh stele và chạm vào tảng đá. Hòn đá thụt lại với âm thanh ken két, để lộ ra một ngăn nhỏ tối om bên dưới.

Bên trong ngăn đó đặt một chiếc hộp gỗ dài; Jace nhấc nắp hộp, và quan sát những vật được sắp xếp gọn ghẽ bên trong với vẻ hài lòng.

“Những thứ này là gì vậy?” Clary hỏi.

“Vài bình nước thánh, dao được ban phép, lưỡi dao găm bằng thép và bạc,” Jace nói, và chất đống vũ khí sang bên cạnh, “roi điện - không hữu dụng lắm trong trường hợp này, nhưng thừa còn hơn thiếu - đạn bạc, bùa bảo vệ, thánh giá, ngôi sao David…”

“Jesus.” Clary nói.

“Anh không nghĩ Ngài bỏ vừa vào trong này.”

“Jace.” Clary thất kinh.

“Gì?”

“Không biết nữa, hình như đùa cợt như vậy trong nhà thờ là không phải.”

Anh nhún vai. “Anh không hẳn là con chiên ngoan đạo.”

Clary ngạc nhiên nhìn anh. “Không phải ư?”

Anh lắc đầu. Tóc xòa xuống mặt anh, nhưng anh đang kiểm tra cái bình đựng thứ chất lỏng trong veo mà không thèm cho tay lên vén tóc. Những ngón tay Clary ngứa ngáy với thôi thúc muốn làm thế thay anh. “Em tưởng anh là kẻ có đức tin tôn giáo à?” anh hỏi.

“À.” Cô lưỡng lự. “Nếu có ác quỷ, hẳn phải có...”

“Phải có gì nào?” Jace nhét chai nước vào túi. “À,” anh nói. “Ý em là nếu có những cái này,” - anh chỉ xuống sàn nhà - “thì phải có cái này.” Anh chỉ lên trần nhà.

“Cũng có lý chứ. Đúng không?”

Jace hạ tay và cầm con dao lên, xem xét chuôi dao. “Anh sẽ nói cho em nghe” anh nói. “Suốt một phần ba cuộc đời anh đã lao vào giết lũ ác quỷ. Anh chắc đã phải đưa tiễn năm trăm con trở về không gian địa ngục nào đó mà chúng chui ra. Và trong suốt thời gian đó - suốt thời gian đó - anh chưa bao giờ nhìn thấy một thiên thần. Thậm chí cũng chưa từng nghe thấy ai đã gặp thiên thần hết.”

“Nhưng chính thiên thần đã tạo ra Thợ Săn Bóng Tối,” Clary nói. “Đó là điều bác Hodge nói.”

“Thế mới tạo ra một câu chuyện hấp dẫn chứ.” Jace nhìn cô qua cặp mắt đồng tử dọc như mắt mèo. “Bố anh tin vào Đức Chúa Trời.” anh nói. “Anh thì không.”

“Không một chút nào?” Cô không chắc vì sao cô lại châm chọc anh - cô chưa bao giờ nghĩ xem mình có đặt lòng tin vào Chúa Trời với thiên thần và đại loại như thế hay không, và nếu được hỏi, cô cũng trả lời là không. Nhưng có gì đó về Jace, khiến cô muốn hỏi anh tới cùng, muốn đập tan cái lớp vỏ hoài nghi, và bắt anh thừa nhận rằng anh tin vào một cái gì đó, cảm nhận một điều gì đó, quan tâm tới thứ gì đó.

“Để anh nói theo cách này nhé,” anh nói, nhét hai con dao vào thắt lưng. Ánh sáng mờ ảo chiếu qua những ô cửa sổ kính bẩn tạo thành từng ô màu sắc lên gương mặt anh. “Bố anh tin vào Đức Chúa công bằng. Deus volt, đó là phương châm của ông – “vì ý nguyện của Đức Chúa.” Đó cũng chính là phương châm của những Thập Tự quân, và họ đã lên đường chiến đấu để bị chém giết, cũng như bố anh. Và khi anh thấy ông nằm chết trên vũng máu của chính mình, lúc ấy anh đã biết mình không thôi tin tưởng vào Đức Chúa. Anh chỉ thôi tin rằng Chúa trời biết quan tâm. Clary, có thể có Chúa Trời đấy, hoặc cũng có thể không, nhưng với anh không quan trọng. Dù thế nào, chúng ta vẫn chỉ có một mình.”

Họ là những hành khách duy nhất trên toa tàu hướng lên phía bắc thành phố. Clary ngồi im lặng, nghĩ về Simon. Thi thoảng Jace lại nhìn cô như định nói gì đó, trước khi tiếp tục im lặng một cách không bình thường.

Khi họ rời khỏi ga tàu điện ngầm, đường phố chẳng có lấy một bóng người, bầu không khí nặng nề và ngậm ngụa mùi sắt thép, những cửa hàng rượu vang, những tiệm giặt là và trung tâm đổi tiền đều chìm trong yên lặng sau những cánh cửa tôn múi kéo xuống vào ban đêm. Cuối cùng, sau một tiếng đồng hồ tìm kiếm, họ cũng tìm ra khách sạn, ở con phố bên hông đường Số 116. Họ đã đi qua nó hai lần, vì nghĩ đó chỉ là một chung cư bỏ hoang, cho đến khi Clary nhìn thấy biển hiệu. Tấm bảng đã sút khỏi đinh, lủng lẳng khuất sau sau một thân cây còi cọc. KHÁCH SẠN DUMONT, từng có thời trên tấm bảng đề vậy, nhưng có ai đó đã xóa chữ N và thay bằng R.

“Khách sạn Dumort,” Jace nói khi cô chỉ cho anh xem. “Dễ thương thật.”

Clary chỉ học hai năm tiếng Pháp, nhưng thế cũng đủ để hiểu trò đùa này. “Du mort, “cô nói. “Của sự chết chóc.”

Jace gật đầu. Anh đang căng thẳng toàn thân, như con mèo đã nhìn thấy con chuột đang chạy sau ghế sô pha.

“Nhưng đây không thể là khách sạn được,” Clary nói. “Những ô cửa sổ đều bị bịt ván kín, cửa đã bị xếp gạch lấp đi - Ồ,” cô dứt lời, khi nhìn thấy vẻ mặt anh. “Đúng rồi. Ma cà rồng. Nhưng sao chúng vào trong được?”

“Bay vào.” Jace đáp, chỉ vào những tầng trên của tòa nhà. Rõ ràng từng có thời, nơi đây là một khách sạn đẹp đẽ và sang trọng. Những viên đá lát mặt tiền được khắc các vòng xoắn trang trí và hoa huệ tây, giờ đã đen xỉn và mòn vẹt vì nhiều năm hứng chịu không khí ô nhiễm và những trận mưa a xít ăn mòn.

“Chúng ta không bay.” Clary thấy cần phải nói ra.

“Ừ,” Jace đồng tình. “Chúng ta không bay. Chúng ta phá cửa xông vào.” Anh bắt đầu bước sang đường, tiến về phía khách sạn.

“Bay nghe vui hơn.” Clary nói và vội vàng đuổi theo.

“Giờ thứ gì cũng nghe vui hơn hết.” Cô tự hỏi liệu anh có thật tình nghĩ thế không. Ở anh toát lên vẻ phấn khích, vẻ nôn nóng mong chờ đến cuộc săn mà cô thấy không có vẻ gì là anh không được vui như anh bảo. Anh ấy đã giết nhiều quỷ hơn những người đồng trang lứa. Bạn không thể giết nhiều quỷ đến vậy bằng cách chần chừ lưỡng lự chùn bước trước trận đánh.

Một cơn gió nóng thổi tới, khuấy động những chiếc lá trên cái cây còi cọc ngoài khách sạn, lùa rác rưởi rơi từ dưới cống và trên vệ đường bay tứ tung trên vỉa hè đã nứt vỡ. Nơi này vắng vẻ tới lạ lùng, Clary nghĩ, thường thường, ở Manhattan, khi nào cũng có ai đó trên đường phố, thậm chí là vào bốn giờ sáng. Vài ngọn đèn đường đã cháy, dù ngọn đèn gần khách sạn nhất đang tỏa ánh sáng vàng vọt lên lối vào rạn nứt, dẫn lên nơi từng là cửa trước.

“Tránh xa ánh sáng ra,” Jace nói và nắm cổ tay áo cô mà kéo về phía mình. “Chúng có thể đang quan sát qua cửa sổ. Và đừng nhìn lên,” anh nói thêm, nhưng đã quá muộn. Clary đã liếc mắt lên những những ô cửa sổ xập xệ những tầng cao hơn. Cô thoáng nghĩ đã thấy một chuyển động lướt qua ô cửa sổ, một màu trắng trắng có thể là một gương mặt, hoặc là một cánh tay đang kéo tấm rèm nặng trịch...

“Đi nào.” Jace kéo cô theo mình để lẩn vào quầng bóng tối gần khách sạn hơn. Cô cảm nhận sự căng thẳng dâng cao dọc nơi sống lưng, nơi nhịp đập trên cổ tay, nơi máu rần rần chảy trong màng nhĩ. Tiếng còi xe văng vẳng dường như vang tới từ rất xa, âm thanh duy nhất là tiếng giày của chính cô dẫm lên vỉa hè lổn nhổn rác. Cô ước gì cô có thể đi lại không phát ra tiếng động, như một Thợ Săn Bóng Tối. Có lẽ một ngày nào đó cô sẽ nhờ Jace dạy cho mình.

Họ lẻn quanh góc khách sạn, rẽ vào một con hẻm có lẽ từng là lối phụ để đưa hàng hóa vào. Con hẻm hẹp, đầy ứ rác: những thùng các tông mọc rêu mốc, những chai thủy tinh rỗng, những mảnh nhựa, vài thứ rải rác mà lúc đầu Clary nghĩ là tăm xỉa răng, nhưng nhìn gần thì có vẻ là...

“Xương đấy,” Jace nói tỉnh rụi. “Xương chó, xương mèo. Đừng nhìn gần quá; lục lọi qua đống rác thải của ma cà rồng hiếm khi nào là một bức tranh đẹp.”

Cô dằn cơn buồn nôn xuống, “ừm,” cô nói, “ít nhất chúng ta cũng biết mình tới đúng nơi” và được khen tặng bằng một thoáng nhìn thể hiện sự đánh giá cao lộ ra, tích tắc thôi, trong mắt Jace.

“Ổ, chúng ta tới đúng nơi rồi,” anh nói. “Giờ chúng ta chỉ phải nghĩ ra vào bằng cách nào thôi.”

Rõ ràng ở đây từng có cửa sổ, nhưng giờ đã bị xây kín lại. Không có cửa cũng như dấu hiệu nào của lối thoát hiểm. “Khi nơi này còn là khách sạn,” Jace chậm rãi nói, “hẳn họ đưa hàng hóa qua lối này. Ý anh là, họ không thể mang đồ vào qua cửa trước được, và ở đây không có chỗ nào khác để đỗ xe tải cả. Vậy thì phải có lối vào.”

Clary nghĩ tới những cửa hàng nhỏ và cửa hiệu rượu vang gần nhà cô tại Brooklyn. Vào sáng sớm khi cô đi bộ tới trường, cô đã thấy khi nhập hàng, những chủ tiệm thức ăn người Hàn Quốc mở cánh cửa sắt gắn trên lề đường ngay ngoài cửa trước, để họ có thể mang những hộp khăn giấy và thức ăn mèo vào tầng hầm trữ hàng. “Em cá là cửa nằm dưới đất. Có lẽ bị chôn vùi dưới lớp rác rưởi

Jace, đứng sát sau cô, gật đầu. “Anh cũng đang nghĩ vậy.” Anh thở dài. “Anh nghĩ chúng ta nên dời đống rác đi chỗ khác. Chúng ta có thể bắt đầu với cái thùng rác kia.” Anh chỉ vào đây, rõ ràng là không hứng thú gì.

“Anh thà đối diện với một lô một lốc quỷ dữ còn hơn, đúng không?” Clary nói.

“Ít nhất chúng không có dòi. À,” anh ngẫm ngợi rồi nói thêm, “đa số bọn chúng thôi. Lần trước có một con quỷ, anh đã lần theo theo dấu nó xuống các đường cống bên dưới nhà ga Trung Tâm....”

“Đừng.” Clary giơ tay cảnh báo. “Giờ tôi không có hứng thú nghe.”

“Đây là lần đầu tiên có một cô gái từng nói lời đó với anh.” Jace vui vẻ.

“Cứ ở cạnh tôi là anh còn nghe dài dài.”

Khóe miệng Jace giật giật. “Giờ không phải lúc để đùa cợt. Chúng ta còn phải dọn rác đây này.” Anh sải bước về phía thùng rác và cầm lấy một quai. “Em cầm quai kia. Chúng ta sẽ lật nó.”

“Lật sẽ gây ra nhiều tiếng động lắm”, Clary cãi lại, nhưng vẫn đứng vào tư thế bên kia thùng rác khổng lồ. Đây là loại thùng rác thông thường trong thành phố”, sơn màu xanh lá cây đậm, lốm đốm những vết ố kỳ lạ. Nó thối um, thậm chí còn thối hơn đa số những thùng rác khác, thối mùi rác và thứ gì đó khác, thứ gì đó sền sệt và ngọt lịm lan xuống tận cổ họng cô và khiến cô phát ói. “Chúng ta phải đẩy nó thôi.”

“Nào, nghe này...” Jace mở miệng, thì một giọng nói đột ngột vang lên từ bóng tối phía sau.

“Mấy người thật sự nghĩ nên làm vậy sao?” giọng nói này hỏi.

Clary đứng khựng lại, nhìn vào khoảng tối ngay lối vào con hẻm. Trong giây phút hoảng hốt, cô tự hỏi có phải mình vừa tưởng tượng ra giọng nói không, nhưng Jace cũng đang đứng thân người, vẻ kinh ngạc lộ rõ trên gương mặt. Hiếm có cái gì làm anh ngạc nhiên, lại càng hiếm hơn khi có kẻ đến sát hù anh. Anh lùi xa thùng rác, tay dịch về thắt lưng, giọng vẫn bình tĩnh. “Có ai ngoài đó sao?”

“Dios mío.” Một giọng nam, khá vui vẻ, nói tiếng Tây Ban Nha trôi chảy. “Các người không thuộc khu này, đúng không?”

Hắn bước ra, khỏi vùng bóng tối dày đặc. Hình dáng cơ thể hắn chầm chậm hiện ra: một gã trai, không lớn hơn Jace là bao, và có lẽ thấp hơn khoảng 6 inch. Hắn gầy gò, mắt to đen và da mật ong như những nhân vật trong tranh của họa sĩ Diego Rivera. Hắn mặc chiếc quần rộng thùng thình màu đen và áo sơ mi trắng mở cúc ngực, và sợi dây chuyền vàng quanh cổ hắn lấp lánh sáng khi hắn tiến gần ra ánh sáng hơn.

“Có thể nói là thế.” Jace cẩn trọng cất tiếng, không rời tay khỏi thắt lưng.

“Các cậu không nên ở đây.” Gã trai lùa tay qua những lọn tóc xoăn đen dày xõa xuống trán. “Nơi này nguy hiểm lắm.”

Ý hắn là đây là khu dân cư kém an toàn. Clary suýt bật cười dù chuyện chẳng lấy gì làm buồn cười. “Chúng tôi biết,” cô nói. “Chúng tôi đi lạc ấy mà.”

Hắn chỉ tay về phía thùng rác. “Thế các cậu đang làm gì với thứ kia?”

Mình không giỏi nói dối ngay tại chỗ, Clary nghĩ và nhìn Jace, người mà cô hy vọng biết nói dối cực giỏi.

Anh ngay lập tức khiến cô thất vọng. “Chúng tôi đang cố chui vào khách sạn. Chúng tôi nghĩ chắc có cửa tầng hầm bên dưới cái thùng rác.”

Đôi mắt gã trai mở lớn vì kinh ngạc. “Puta madre — vì sao các cậu lại muốn làm chuyện như vậy chứ?”

Jace nhún vai. “Nghịch tí ấy mà. Vui vẻ chút thôi.”

“Cậu không hiểu rồi. Nơi đây bị ám, bị nguyền rủa. Không may đâu.” Hắn lắc đầu lia lịa và nói vài câu tiếng Tây Ban Nha. Clary nghĩ có liên quan tới sự ngu ngốc của đám trẻ da trắng ăn no rửng mỡ nói chung và sự ngu ngốc của hai người họ nói riêng. “Đi cùng tớ, tôi sẽ dẫn các cậu ra ga tàu.”

“Chúng tôi biết ga tàu ở đâu.” Jace nói.

Gã trai bật lên tiếng cười nhẹ nhàng, vang vọng. “Claro. Tất nhiên rồi, nhưng nếu các cậu đi với tôi, không ai dám làm phiền các cậu cả. Các cậu không muốn gặp rắc rối, đúng không?”

“Còn tùy,” Jace nói và di chuyển khiến áo khoác hơi mở ra, cho thấy những thứ vũ khí lóe sáng nơi thắt lưng. “Chúng trả cho anh bao nhiêu để anh khiến mọi người tránh xa cái khách sạn này?”

Gã trai nhìn ra sau anh, và thần kinh của Clary căng lên khi cô tưởng tượng ra cảnh miệng con hẻm hẹp này đầy ắp những bóng hình mặt trắng ởn, miệng đỏ lòm, răng nanh lóe sáng đột ngột như kim loại đánh lên tia lửa điện ở trên vỉa hè. Khi quay lại nhìn Jace, miệng hắn đã mím thành đường kẻ mảnh. “Ai trả cho tôi bao nhiêu, chico?”

“Ma cà rồng. Chúng trả cho anh bao nhiêu? Hay là thứ gì khác nào - chúng có nói với anh rằng sẽ biến anh thành một trong số chúng, hứa hẹn cho anh cuộc sống vĩnh hằng, không còn chịu đau đớn, không bệnh tật và anh sẽ sống trường sinh bất tử? Vì nó không đáng đâu. Cuộc sống sẽ rất dài khi anh không được nhìn thấy ánh mặt trời đấy, chico ạ,” Jace nói.

Gã trai kia chẳng thể hiện chút cảm xúc nào. “Tên tôi là Raphael. Không phải là chico.”

“Nhưng anh biết chúng ta đang nói về cái gì mà. Anh biết ma cà rồng chứ?” Clary nói.

Raphael quay mặt về một phía và nhổ nước bọt. Khi gã quay nhìn họ, ánh mắt gã tràn ngập sự thù địch đang sáng lên. “Los vampiros, sí, những bọn súc sinh uống máu. Kể cả trước khi khách sạn này bị niêm phong, đã có một vài câu chuyện, họ nghe thấy tiếng cười vào những đêm tối muộn, vài con vật nhỏ biến mất, những âm thanh...” Gã ngừng nói, lắc đầu. “Mọi người trong khu vực này đều biết tránh xa nơi này, biết làm sao được? Ta không thể gọi cảnh sát để báo cáo rắc rối là ma cà rồng.”

“Anh đã bao giờ gặp chúng chưa?” Jace hỏi. “Hay biết ai đã từng gặp?”

Raphael nói chậm rãi. “Từng có vài cậu con trai, một nhóm bạn. Họ nghĩ họ đã có một ý tưởng hay khi đi vào khách sạn và giết lũ quái vật sống trong đó. Họ mang theo súng, cả dao nữa, tất cả những món vũ khí đó đều được một cha xứ ban phép thánh. Họ không bao giờ trở ra được nữa. Dì của tôi, sau đó dì đã nhìm thấy quần áo của họ, ở trước ngôi nhà.”

“Nhà dì anh?” Jace nói.

“Sí. Một trong những cậu con trai đó là anh trai tôi,” Raphael đều đều nói. “Và giờ cậu đã hiểu vì sao thi thoảng tôi đi qua đây giữa đêm khuya, trên đường trở về từ nhà dì tôi, và vì sao tôi muốn cảnh cáo cho các cậu. Nếu các cậu bước vào trong đó, các cậu sẽ không bao giờ trở ra được nữa.”

“Bạn tôi ở trong đó,” Clary nói. “Chúng tôi đến cứu cậu ấy.”

“À,” Raphael nói, “vậy có lẽ tôi không thể bảo các cậu đi được rồi.”

“Không.” Jace nói. “Nhưng đừng lo. Chuyện xảy ra với các bạn anh sẽ không xảy ra với chúng tôi.” Anh rút một trong mấy thanh thiên đao khỏi thắt lưng và giơ lên, ánh sáng mờ nhạt tỏa ra từ nó phản chiếu vào những hõm má, làm mắt anh đen lại. “Tôi đã từng giết rất nhiều ma cà rồng. Trái tim chúng không đập, nhưng chúng vẫn có thể chết.”

Raphael thở mạnh và nói gì đó bằng tiếng Tây Ban Nha, quá nhỏ và nhanh nên Clary không hiểu. Gã tiến tới chỗ họ, suýt vấp phải những bao nhựa nhăn nhúm khi rảo chân. “Tôi biết các cậu là gì - tôi đã nghe về loại người các cậu, từ một linh mục già ở nhà thờ St. Cecilia. Tôi cứ tưởng đó chỉ là một câu chuyện.”

“Tất cả những câu chuyện đều là thật,” Clary nói, nhưng quá khẽ khiến gã dường như không nghe thấy. Gã ta đang nhìn Jace, tay nắm chặt.

“Tôi muốn đi cùng cậu.” gã nói.

Jace lắc đầu. “Không. Nhất định không.”

“Tôi có thể chỉ cho cậu cách vào.” Raphael nói.

Jace xao động, rõ ràng là bị quyến rũ. “Chúng tôi không thể mang anh theo.”

“Được thôi.” Raphael hiên ngang bước qua mặt Jace và đá một đống rác vào tường. Nơi đây có tấm lưới kim loại, những đoạn song sắt mỏng bị phủ lớp gỉ màu đỏ nâu. Gã quỳ xuống, nắm lấy những song sắt, và nâng tấm lưới sắt lên. “Đó là cách em tôi và bạn bè chui vào. Tôi nghĩ nó dẫn xuống tầng hầm.” Gã ngước nhìn trong khi Jace và Clary đến đứng cạnh. Clary nửa như nín thở; mùi rác rưởi quá nồng, và kể cả trong bóng tối cô vẫn thấy những bóng lũ gián lao nhanh qua những chồng rác.

Một nụ cười hờ xuất hiện, chỉ nơi khóe miệng Jace. Anh vẫn nắm thanh thiên đao trên tay. Ngọn đèn phù thủy tỏa ánh sáng ma mị lên khuôn mặt anh, khiến cô nhớ lại lúc Simon chĩa đèn pin từ dưới cằm chiếu lên khi kể cho cô nghe những câu chuyện kinh dị khi họ mới mười một tuổi. “Cám ơn,” anh nói với Raphael. “Thế này là ổn rồi.”

Khuôn mặt gã trai kia trắng bệch. “Cậu đi vào đó và hãy làm cho bạn cậu những điều tôi không thể làm cho anh tôi.”

Jace nhét thanh thiên đao vào thắt lưng và liếc nhìn Clary. “Đi theo anh”, anh nói và chui qua lưới sắt chỉ bằng một chuyển động duyên dáng, chân cho vào trước. Cô nín thở, đợi một tiếng hét đau đớn hay ngạc nhiên, nhưng chỉ có tiếng chân rơi thịch nhẹ xuống nền đất cứng. “Ổn rồi,” anh hét vọng lên, giọng nghe nghèn nghẹt. “Nhảy xuống và anh sẽ đón em.”

Cô nhìn Raphael. “Cám ơn anh đã giúp bọn tôi.”

Gã không nói gì, chỉ giơ tay ra. Cô nắm lấy tay gã để giữ thăng bằng trong khi xoay người vào vị trí. Những ngón tay gã lạnh băng. Gã buông tay cô ra khi cô thả mình qua tấm lưới. Cú rơi chỉ kéo dài một giây rồi Jace đón cô, chiếc váy túm tụm quanh đùi cô và tay anh lướt qua đôi chân trần của cô khi cô trượt vào vòng tay anh. Anh gần như thả cô ngay lập tức.

Cô kéo váy xuống, mừng vì anh không nhìn thấy cô trong bóng tối. “Ổn”.

Jace lôi thanh thiên đao tỏa ánh sáng mờ mờ ra khỏi thắt lưng rồi giơ lên cao, để cho ánh sáng mỗi lúc một mạnh hơn tỏa lên mọi thứ xung quanh. Họ đang đứng trong một không gian tù túng, trần thấp, nền nhà bằng bê tông đã rạn nứt. Những đống đất cho thấy nơi sàn nhà bị vỡ, và Clary có thể thấy những thân cây leo đen đúa đã bắt đầu xoắn xít lan lên những bức tường. Một lối vào cửa, thiếu hẳn cánh cửa, dẫn vào một căn phòng khác.

Một tiếng thịch lớn khiến Clary nhảy dựng, cô quay lại nhìn thấy Raphael rơi xuống, đầu gối gập lại, chỉ cách cô vài bước chân. Gã đã đi theo họ qua lối lưới sắt. Gã đứng thẳng dậy và cười có phần quá kích động.

Jace có vẻ bừng bừng tức giận. “Tôi đã bảo anh...”

“Và tôi cũng nghe rồi.” Raphael phẩy tay ra chiều chẳng quan tâm. “Vậy cậu định làm gì nào? Tôi không thể quay ra bằng đường chúng ta chui vào, và cậu không thể bỏ tôi lại đây để lũ người chết tới tìm... đúng không?”

“Tôi đang nghĩ tới chuyện đó đấy.” Jace nói. Anh trông mệt mỏi, Clary thấy mà hơi ngạc nhiên, những quầng thâm trên mắt anh trông rõ rệt hơn.

Raphael chỉ trỏ. “Chúng ta phải đi lối đó, tới cầu thang. Bọn chúng ở trên những tầng cao hơn của khách sạn. Cậu sẽ thấy thôi.” Gã chen qua Jace mà đi qua lối cửa hẹp. Jace nhìn gã ta, lắc đầu.

“Anh bắt đầu thực sự ghét người thường rồi đây.” anh nói.

Tầng dưới của khách sạn là một khu vực ngóc ngách những hành lang như mê cung mở ra những kho hàng trống hoác, khu giặt giũ bị bỏ không - từng chồng khăn tắm vải lanh giờ đã mọc rêu mốc chất cao trong những cái rổ gỗ liễu gai đã mủn - thậm chí nhà bếp cũng vắng lặng đến lạnh người, từng hàng quầy bếp bằng thép không gỉ trải dài khuất vào bóng tối. Hầu hết các cầu thang dẫn lên tầng trên đã biến mất, không phải bị mục mà cố tình bị chặt đi, chất thành những đống củi đun dựng bên tường, những mảnh thảm Ba từng một thời xa xỉ vắt ngang qua như những đóa hoa rêu mốc.

Clary lấy làm khó hiểu về vụ cầu thang bị chặt đứt. Ma cà rồng có thành kiến gì với cầu thang sao? Cuối cùng cả ba cũng tìm thấy một cầu thang chưa bị hỏng hóc gì, khuất sau phòng giặt là. Chắc hẳn trước đây những người giúp việc thường đi lại trên đó để đưa khăn lên xuống vào hồi chưa có cầu thang máy. Giờ thì bụi phủ dày trên các bậc thang, giống như một lớp tuyết xám mịn khiến Clary ho hắng.

“Suỵt.” Raphael rít lên. “Chúng có thể nghe thấy tiếng em đấy. Chúng ta đang ở gần với chỗ chúng ngủ.”

“Sao anh biết?” cô thì thầm hỏi lại. Gã này thậm chí đáng ra không nên ở đây. Điều gì cho gã cái quyền răn dạy cô về vụ ồn ào gây tiếng động chứ?

“Tôi cảm nhận được.” Khóe mắt gã giần giật, và cô biết Raphael đang sợ y như mình. “Em thì không ư?”

Cô lắc đầu. Cô chẳng cảm thấy gì, trừ cảm giác lạnh buốt bất thường; sau cái nóng oi ả khó chịu của ngoài trời đêm, thì cái lạnh bên trong khách sạn thật buốt cóng.

Ở đầu cầu thang là một cánh cửa có sơn chữ “Sảnh” hầu như chẳng nhận ra nổi sau nhiều năm tích tụ bụi. Cánh cửa rơi ra đầy gỉ sét khi Jace đẩy mở ra. Clary chuẩn bị tinh thần...


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx