Thuận MinhChương 382: Cảm giác sứ mạng (1+2+3)
Ngay khi Triệu Năng chỉ huy quân đội rời khỏi thành Tế Nam, toàn bộ vùng Sơn Đông cùng với Lưỡng Hoài vốn đang vô cùng sục sôi đột nhiên lại trở nên vô cùng yên tĩnh như chưa từng xảy ra chuyện gì vậy.
Các văn nhân đương nhiên không thể giống như dân chúng bình thường, bọn họ hiểu biết nhiều chuyện quốc gia đại sự hơn đương nhiên là biết chiến tích hiển hách mấy năm gần đây của quân Mãn Thanh. Quân đội Đại Minh chưa một lần giành ưu thế. Một khi chiến tranh xảy ra, cho dù là dựa vào thành trì vững chắc, dùng đại pháo Tây Dương nhưng cũng không thể chống được. Lời truyền khẩu bay đi khắp nơi, quân Thát cưỡi ngựa chạy băng băng, giương cung xạ điêu vô cùng thần kỳ. Cứ cho là quân Giao Châu doanh hùng mạnh, liên tiếp chiến thắng nhưng những thắng lợi đó đều chì với quan binh cùng thảo khấu.
Với đối tượng so sánh là quan binh có tiêu chuẩn rất thấp kém như vậy, chiến lực của quân đội Giao Châu doanh rất đáng được bàn luận. Hơn nữa binh mã của Giao Châu doanh chủ yếu là lính trấn thủ thành. Mấy năm nay thành Tế Nam được tu bổ giống như một con nhím xù lông, trấn thủ bên trong còn có mấy phần an toàn, nay đột nhiên bốc lên chạy ra ngoài dã chiến. Có ai đã từng nghe nói đơn vị quân đội Đại Minh nào dã chiến với quân Thát mà chiếm được lợi thế chưa? Những tiểu tử tốt như thế nhất định có đi mà không có về.
Cục diện lúc này thực sự rất nguy hiểm. Trấn đông tướng quân Lý Mạnh gần như đã dẫn bảy phần quân đội của Sơn Đông tới Nam Trực Lệ, vốn được coi là một nước cờ tuyệt diệu nhưng hiện tại xem ra đại quân Thát này mới thực sự là diệu kỳ, chúng đã tới rất đúng lúc, đúng vào lúc Sơn Đông suy yếu nhất.
Có người lại nói chỉ cần thủ thành mà thôi thế mà còn hồ đồ dẫn quân ra ngoài tác chiến. Điều này chỉ có thể trách mình muốn chết chứ không thể trách người khác được. Như thế này không phải là mang dê dâng lên miệng quân đại quân Thát sao?
Đại quân Thát tới lại tiếp tục đi nữa, sau đó một Sơn Đông nguyên khí đại thương nhất định sẽ có người tới thay thế. Bây giờ ngẫm lại chính mình viết nhiều bài văn ca tụng công đức liệu có rước lấy phiền toái hay không. Nghĩ tới đó gần như tất cả mọi người đều ngậm miệng nín thinh, bắt đầu đóng cửa đọc sách, không màng thế sự.
Mạt thế đương nhiên có hiện tượng của mạt thế. Người khẳng khái, sục sôi đương nhiên cũng có nhưng còn có nhiều hơn những loại bại hoại đạo đức, thấy lợi quên nghĩa. Những người đó chỉ là cây cỏ trên tường. Khi Sơn Đông uy danh hiển hách thì muốn vây quanh thổi phồng, hy vọng có thể vơ vét được nhiều lợi ích nhưng khi vừa thấy nguy cấp thì lại cố tình né tránh, chỉ sợ bản thân mình gặp phải phiền phức.
Triệu Năng chỉ huy đại quân rời Tế Nam, hành quân cấp tốc, vào giữa trưa ngày hai mươi tháng mười một thì tới thành Đức Châu. Trong thời gian ba ngày đó tin tức từ các dịch trạm quân Giao Châu doanh, quan đạo của quan phủ, và còn cả đủ các loại hình lưu truyền thông tin đã truyền tới tất cả các thành, trấn lớn ở Sơn Đông.
Khắp nơi đều yên tĩnh, tĩnh lặng như hến. Chỉ có ở phủ Duyện Châu là có chút động tĩnh khiến cho người ta ngược lại cảm thấy là vô lý. Khổng phủ và Lỗ Vương phủ lại tổ chức đại yến tiệc chúc mừng. Bọn họ cùng là con dân Đại Minh, quân Thát xuôi nam, bọn họ cũng sẽ phải chịu tổn hại như người khác. Trong khi đại nạn sắp tới thì lại có cảm giác hả hê, giống như bọn họ nghĩ đại hoạ sắp giáng xuống đầu không có liên quan gì tới mình vậy.
Ở thời đại đó, các gia đình quý tộc thường hành động như vậy. Khi Trương Hiến Trung bao vây Vũ Xương, quan lại địa phương đã thỉnh cầu Sở Vương xuất tiền nuôi quân, Sở Vương gia đã chỉ vào chiếc sập Hồng Vũ gia ban thưởng nói chỉ có thể lấy vật đó ra nuôi quân. Thật sự vừa buồn cười vừa đáng buồn.
Sau khi tới Đức Châu, Triệu Năng đã lưu lại đó hai ngày. Lúc này binh mã dưới quyền thống lĩnh của hắn đã lên tới hai vạn một nghìn người. Binh mã rải rác khắp nơi ven đường hành quân đều tới tập hợp. Đội ngũ giống như một quả cầu tuyết, càng lăn càng lớn. Nhìn thấy trận chiến trước mắt tất thất bại nhưng mọi người vẫn duy trì nghiêm lệnh. Điều này chỉ e là khiến Sơn Đông khác hẳn so với các tập đoàn địa phương cùng thời khác. Đương nhiên phần lớn mọi người không nhìn ra điểm này.
Binh quý thần tốc nhưng việc bố trí và chuẩn bị ở Đức Châu cần mất nhiều thời gian. Một khi hành quân trong nội địa Sơn Đông thì phần lớn lương thảo, đồ quân nhu, vật tư hậu cần có thể được bổ sung thông qua hệ thống kho hàng được thiết lập trên các con đường vận chuyển chủ yếu nhưng sau khi ra khỏi biên giới Sơn Đông, tất cả sẽ phải vận chuyển từ nội địa Sơn Đông tới.
Ở vùng Đức Châu đã thành lập đồn điền, điền trang. Tất cả những điều này đều đã được cân nhắc từ trước. Khi đại quân ra tay hành động, cần phải điều động dân phu, tráng đinh phụ trách việc vận chuyển của đại quân cùng rất nhiều công việc linh tinh khác. Khi tất cả quân đội tới phụ cận Đức Châu, doanh trại bố trí phòng vệ đã được bố trí xong một cách kiên cố. Trong các kho, lương thực, binh khí hoả dược, đạn chì đều đã chuẩn bị xong. Chiến mã, gia súc thồ hàng đều đã bố trí sẵn sàng. Cái này gọi là lo trước khỏi họa, cuối cùng hôm nay cũng đã được kiểm nghiệm.
Diêm đinh vũ trang của Vũ Thành, Vũ Định Châu. Lâm Ấp. Bình Nguyên, Đức Châu đều tụ tập ở thành Đức Châu, ở những đồn điền, điền trang ở Lỗ Bắc đã biết tin tức đại quân Thát đột kích, hơn nữa vị trí của bọn họ nằm trên đường tiến quân của đại quân Thát nên không khỏi khiến cho lòng người kinh sợ.
Nếu như không có lực lượng quân sự áp đảo trấn thủ thì cần phải bảo vệ để đảm bảo không xảy ra nhiễu loạn, vì để đảm bảo ổn định có các đội quân tuyến hai cùng quân đội đảm bảo trị an tới trấn thủ ở các huyện thành. Mục đích của việc này là vừa để bảo đảm sự ổn định cũng như trấn áp đám cường hào nổi loạn.
Thuỷ, bộ Đức Châu là hai tuyến đường then chốt tiến vào Sơn Đông. Các loại tin tức đều tập trung về chỗ Triệu Năng. Quân Sơn Đông đã xây dựng lại hệ thống điều tra ở Hà Bắc. Một số lượng lớn khinh kỵ xuất phát tìm kiếm tin tức. Tin tức truyền về lũ lượt như nước chảy. Sau khi Thiên Tân bị thất thủ, tộc độ tiến quân của đại quân Thát chậm lại nhưng vẫn ở thế không thể ngăn cản. Sau khi thành Thiên Tân bị phá, thành Tĩnh Hải nằm trên tuyến Vận Hà cũng bị đánh chiếm.
Ngay sau khi chờ bổ sung các loại hậu cần, vật tư thì cũng là lúc tin tức được báo về. Huyện lệnh huyện Thanh huyện bỏ thành chạy. Quân dân toàn thành đại bại giặc chưa tới, thành đã bỏ trống.
Cảnh Châu Đông, bắc Đức Châu thuộc nội địa Bắc Trực Lệ. Binh mã quân Sơn Đông hoàn toàn không có quan hệ gì với việc quản lý vùng đất này.
Hơn nữa khi đại quân Thát xuôi nam, cả Bắc Trực Lệ, ngoại trừ kinh thành phái sứ giả đi các địa phương điều quân cần vương, còn lại thì không có mệnh lệnh nào được truyền xuống. Các loại mệnh lệnh như là chống cự tại chỗ hay quân dân trong thành cùng sinh tồn đều không được truyền xuống.
Lúc này tất cả mọi người đều rất hỗn loạn. Ai cũng tự làm điều mà mình cho là đúng. Tất cả các thông tin phản hồi từ các phủ, châu, huyện đều bị gián đoạn. Tất cả mọi người đều hành động hỗn loạn giống như ruồi bọ không có đầu vậy.
Tình hình Cảnh Châu cũng như thế. Lúc này Tri châu và các quan lại đã vô cùng tuyệt vọng. Khi nghe nói huyện lệnh Thanh huyện bỏ thành chạy trốn khiến cho những người đó cũng không còn biết làm thế nào để xứng với địa vị quan lại. Điều bọn họ muốn làm đơn giản chỉ là chạy, hơn nữa không cần bất kỳ trách nhiệm gì.
Khắp các nơi dọc theo con sông có rất nhiều các kho hàng lớn nhỏ. Tất cả đều đã tích trữ đầy đủ vật tư, hàng hoá. Mùa màng năm nay không tốt nên rất nhiều người chú tâm tới những kho hàng này. Khi cục diện bắt đầu trở nên hỗn loạn thì có những phần tử vô lại bắt đầu gây loạn, đánh cướp khiến cho cục diện nhanh chóng trở nên không thể khống chế được.
Quan binh trấn đóng ở Cảnh Châu cũng tham dự vào những chuyện này. Không chỉ có những kho hàng ở bên dòng Vận Hà bị đánh cướp mà ngay cả dân chúng bình thường và các gia đình phú hộ trong thành cũng bắt đầu bị cướp phá.
Khoảng cách từ nơi này tới Sơn Đông rất gần. Dân chúng trong dân gian từ nhiều đời đều có quan hệ gần gũi với Sơn Đông. Khi tình hình trở nên hỗn loạn, gần như không có người nào nghĩ tới việc cầu cứu triều đình mà ngược lại đi tới Đức Châu cầu cứu.
Khi Triệu Năng chỉ huy đại quân tiến tới đây vừa vặn gặp lúc hỗn loạn. Triệu Năng vốn cần phải có quan lại địa phương Cảnh Châu cung cấp dân phu dẫn đường và cung cấp thêm một số vật tư, lương thảo, hắn đang định phái người đi liên lạc thì ai ngờ gặp phải cục diện này. Dù Tham tướng trấn thủ Đăng Châu. Triệu Năng là người trung hậu nhưng việc xử lý những chuyện như thế này cũng là thủ đoạn thường thấy của quân Giao Châu doanh.
Người được phái đi liên lạc với Tri châu Cảnh Châu là một tên Thiên tổng, hắn chỉ huy một doanh binh lính đi tới thành Cảnh Châu. Tuy nói là đại quân Thát còn lâu mới tiến tới đây nhưng bên trong thành gần như một toà thành bị phá thế nhưng người tẩy thành và làm loạn lại chính là đám vô lại trong thành. Trong thành bụi mù bay khắp nơi, cảnh tượng vô cùng hỗn loạn.
Binh lính Giao Châu doanh tiến vào thành từ cổng đông. Bắt đầu từ cửa đông, quân Giao Châu doanh hễ cứ gặp phải loạn đánh cướp, cho dù là hành vi phạm tội nặng hay nhẹ cũng đều chém đầu.
Ngay khi đó có binh lính ở phía trước hô lên: “Quan binh vào thành. Bây giờ là lệnh giới nghiêm. Tất cả những ai không có liên quan hãy quay về nhà. Nếu ai còn ở lại thì giết không tha”. Trong khi đó binh lính phía sau thì chém giết rất dứt khoát nhanh nhẹn.
Một khi cục diện trị an trở nên hỗn loạn, giết người chính là phương pháp vãn hồi tốt nhất. Thanh thế của một doanh của quân Giao Châu doanh có thể nói là không quá lớn. Phía đông thành đã trở nên yên tĩnh nhưng mấy chỗ khác vẫn còn náo loạn, chưa ổn định thế nhưng chỉ sau hai canh giờ, thành Cảnh Châu không lớn lắm đã trở nên vô cùng yên tĩnh.
Lúc này là mùa đông, không sợ thi thể thối rữa, mục nát. Tự người dân địa phương trong thành Cảnh Châu phải đi thu thập những thi thể đó, binh lính Giao Châu doanh không để ý tới việc đó vì vậy khắp các ngã tư đường trong thành Cảnh Châu đều có thi thể, hơn nữa các thi thể này đều bị chém đầu. Tất cả đều là những kẻ làm loạn hay một số người chưa kịp quay về nhà bị chém đầu.
Quan lại Tri châu nha môn Cảnh Châu sau khi chứng kiến sự việc này một lúc, tâm trạng ngơ ngác lập tức trở nên rất bình tĩnh. Còn về phần binh mã Sơn Đông tại sao không có ý chỉ, không có công văn đột nhiên xuất hiện ở Cảnh Châu, một chuyện hoàn toàn không hợp với lẽ thường thì tuyệt đối không ai nhắc tới, bọn họ luôn miệng đồng ý với yêu cầu của tên Thiên tổng.
Đi đánh quân Thát, mặc kệ là hành vi của bản thân mình có sáng suốt hay không thì nó luôn tràn ngập cảm giác thiêng liêng. Tận trung báo quốc là điều không sai. Bản thân mình đi phối hợp với những việc này, về bề ngoài thì không ai có thể nói lời từ chối được.
Giết người ổn định trị an, đối với quân Giao Châu doanh mà nói thì chỉ là chuyện nhỏ nhưng quan lại nha môn Tri châu thì lại cám ơn không kịp. Đương nhiên là không nói nhiều nhưng dư âm đọng lại sau đó thì không tưởng tượng nổi. Sau đó nhiều năm vẫn có một lời đồn đại là quân lính Giao Châu doanh đột nhập Cảnh Châu vơ vét tài sàn, quân nhu. Quân dân Cảnh Châu anh dũng không chịu khuất phục, lấy đại nghĩa chống lại khiến cho quân Giao Châu doanh thẹn quá hoá giận, xuất quân đồ thành, tạo nên một vụ thảm sát rất lớn, với lại bên ngoài thành còn phát hiện nhiều hố lớn mai táng rất nhiều hài cốt. Đúng là nói có bằng chứng rõ ràng.
Ngày hai mươi lăm tháng mười một năm Sùng Trinh thứ mười lăm khi Triệu Năng tiến vào trấn An Lăng của Cảnh Châu gần Vận Hà xây dựng công trình phòng ngự thì nhận được tin báo của quân thám báo: đại quân Thát đã qua Thương Châu, sắp tiến tới Bán Bích Điếm.
Bán Bích Điếm là thôn trấn ở nam Thương Châu, khoảng cách từ đó tới trấn An Lăng này nhiều nhất cũng chỉ còn hai ngày lộ trình, Tin tức này khiến Triệu Năng vô cùng kinh hãi.
Nói cách khác chỉ sau vài ngày tiến quân một cách bình thường, đại quân Thát đột nhiên gia tăng tốc độ hành quân. Chẳng lẽ chúng đã biết quân Giao Châu doanh đang bố phòng ở phía nam sao?
Đúng ra là địa phương giàu có nhất phủ Hà Gian chính là Thương Châu. Nơi đó cũng chính là nơi Trường Lô diêm, buôn bán muối mấy trăm năm, phú quý địch quốc, không cướp lấy thì thực sự có gì không hợp lý. Trong khi đó quan binh và dân đoàn ở đó đều có thực lực nhất định. Lực lượng vũ trang địa phương cũng rất mạnh. Ngày thường rất hay xảy ra giao tranh bằng khí giới. Các gia tộc đều có chút vũ lực,lực chiến đấu của các gia đinh các gia đình quyền quý tuy không thể so với binh lính nhưng tường thành của các ô bảo rất kiên cố, lương thảo, tiếp viện, cái gì cũng sung túc. Một khi quân Thát tấn công sẽ rất mất nhiều thời gian, tóm lại sẽ khiến cho quân Giao Châu doanh có thêm thời gian.
Ai ngờ sau khi chiếm được thành Tĩnh Hải, đại quân Thát lại bỏ qua Thương Châu, ngược lại chúng lại thúc binh tiến nhanh thật sự khiến người ta trở tay không kịp.
Nhưng quân Đăng Châu do Triệu Năng chỉ huy đã rải kỵ binh ra khắp nơi dò xét tình hình không đụng độ với quân Thát, ở các nơi có ám hiệu ngầm cũng cho thấy không có quân Thát. Đại quân Thát rõ ràng không biết sự có mặt của quân Giao Châu vậy thì tại sao chúng lại vội vàng tiến quân như vậy?
Nếu căn cứ theo tốc độ tiến quân của đại quân Thát, binh mã do Triệu Năng chỉ huy không có đủ thời gian để xây dựng một hệ thống công sự phòng ngự đầy đủ ở trấn An Lăng có thể khiến cho đại quân Thát chịu cảnh đầu rơi máu chảy.
Trên thực tế đại quân Thát hành động như vậy không phải là nhằm vào bất kỳ người nào. Đó chỉ là chuyện bình thường, vì muốn tiến đánh Kế Châu, làm ra tư thế muốn tiến đánh kinh thành, thu hút binh mã các nơi ở Bắc Trực Lệ tập hợp về kinh thành, cung cấp cho đại quân Thát một không gian hoạt động lớn hơn nữa.
Đánh Thiên Tân tam vệ có thợ thủ công chế tạo hoả khí, mục tiêu chiến lược để cướp bóc. Một khi đại quân không chú ý bắt trước những người này, để bọn họ bỏ chạy thì sẽ không thể nào bắt được nữa.
Trong khi đó đối với những địa phương khác, một khi lãng phí quá nhiều công sức và thời gian vào đó, mang theo quá nhiều người và vàng bạc xuôi nam nhất định sẽ làm chậm tốc độ tiến quân của binh lính, ảnh hưởng tới độ linh hoạt của binh lính.
Thương Châu chính là một nơi như vậy sau này đại quân quay về huyết tẩy cũng chưa muộn. Hơn nữa từ khi nhập quan tới giờ đã gần nửa tháng, tin tức ở Đại Minh đã dần thông suốt, vùng Sơn Đông rộng lớn hẳn đã chuẩn bị sẵn sàng. Hơn nữa các đạo quân tụ tập về kinh thành có thể cũng bắt đầu hành động.
Mấy ngày nay quân Thát vẫn hành quân chậm rãi nay đột nhiên gia tăng tốc độ hành quân, sự thay đổi này có thể khiến cho các đạo quân của Đại Minh, vốn dựa theo tốc độ tiến quân lúc trước để phán đoán thời gian và địa phương hành động có hành động sai lầm. Một khi đại quân Thát tới nơi đối phương sẽ bị tấn công trở tay không kịp.
Giao Châu doanh của Triệu Năng thật sự có thể cảm giác được hai loại cảm xúc này: Đánh bất ngờ, trở tay không kịp.
Ở Sơn Đông, thậm chí là trong quân, có đủ các loại đánh giá khác nhau đối với Giao Châu doanh. Vị trí của mọi người khác nhau nên đánh giá của mọi người cũng khác nhau nhưng trong đó đánh giá về Triệu Năng lại được người người đồng ý một cách đáng kinh ngạc: đó là lòng trung thành và tận tụy.
Tuổi của Triệu Năng lớn hơn so với tuổi Lý Mạnh. Trước khi hắn tham gia diêm bang chỉ là người làm muối cho quân đội. Hắn không phải là con nhà danh tướng, không được bồi dưỡng tài năng, không có truyền thống, không có tố chất quân sự và kỹ năng chỉ huy, thậm chí trong hắn không có bất kỳ khái niệm nào về huấn luyện quân đội nhưng hắn lại rất cần cù. Lý Mạnh giao việc cho hắn, sau khi hiểu hắn liền cẩn thận, tỷ mỉ chấp hành.
Có thể Triệu Năng có khiếm khuyết trong việc phán đoán tình hình chung, tình hình địch, sự quyết đoán khi đối địch nhưng hắn luyện binh rất cần cù. Quân đội dưới trướng của hắn là quân đội rất có lực chiến đấu. Triệu Năng dùng binh cực kỳ cẩn thận. Doanh trại đóng quân của hắn cũng cực kỳ chắc chắn, thậm chí còn thường xuyên bị người khác phê bình vì lãng phí. Những yếu tố này có thể được bù đắp rất nhiều.
Hơn nữa việc tham gia đánh trận của Triệu Năng cơ bản sẽ không khiến hắn phải tự gánh chịu trách nhiệm, tất cả đều nằm dưới sự chỉ huy trực tiếp của Lý Mạnh. Hắn chỉ cần trung thành đi chấp hành nhiệm vụ. Lần này hắn ở lại giữ thành cũng vậy. Trên hắn còn có mấy nhân vật có bự nắm quyền chỉ huy, Triệu Năng chỉ cần cầm quân cẩn thận, nghe lệnh là được.
Thế nhưng tình hình xảy ra lúc này khá bất ngờ. Lẽ ra tự mình Tôn Truyền Đình phải tới đây nhưng vì việc phòng ngự phủ Tế Nam và phủ Đông Xương cũng cần phải có vị quân sư tài năng “Công Tôn tiên sinh”chỉ huy, điều hành, không thể đi được. Lúc này Triệu Năng phải tự mình đưa ra phán đoán, tự mình chỉ huy.
“Nghe nói lần này đại quân Thát mang theo Đại tướng quân pháo. Chỉ có Pháo mười hai cân của chúng ta mới chống lại được. Bây giờ cứ coi như chúng ta phòng thủ thôn trấn thì cũng chỉ sợ là sẽ bị chúng đánh tan”.
“Sợ cái con bà gì, Chúng ta đi ra ngoài đánh nhau, quân Giao Châu chưa từng sợ một ai”.
“Liệu có phải phái người về Tế Nam hỏi ý kiến không”
“Hỏi cái quỷ gì? Chỉ sợ khi sứ giả của chúng ta tới thành Tế Nam, đại quân Thát đã đánh tới đây rồi”.
Soái trướng Triệu Năng bên ngoài trấn An Lăng, Triệu Năng cùng Thiên tổng các doanh đang tụ tập ở đó. Tất cả mọi người đang tranh luận rất hăng hái. Khi nói tới hỏa pháo, tất cả mọi người đều trở nên rầu rĩ, vì chiến trận xảy ra phần lớn ở Nam Trực Lệ và Hà Nam, phần lớn hỏa pháo của cục chế tạo binh khí làm ra đều cung cấp cho mấy chỗ cần thiết ở phía nam.
Hiện tại số lượng pháo sản xuất của cục chế tạo binh khí không đủ, trang bị cho quân đội thiếu hụt một cách nghiêm trọng. Lần nam chinh này đại bộ phận pháo đã được mang đi. Hơn nữa lần này pháo mang ra ngoài Sơn Đông phần lớn là pháo tốt, chế tạo tinh xảo. Lần này quân Đăng Châu tiến ra Đức Châu, căn bản là không có bổ sung gì về trang bị nặng. Tất cả đều dựa vào trang bị vốn có.
Vì sự an toàn của Tế Nam, đại bộ phận vũ khí phải để lại phòng ngự thành Tế Nam. Hoả pháo hiện nay của quân Đăng Châu trước mắt chỉ có thập, lục, tam, tứ bàng gia pháo. Mặc dù những hỏa pháo này dùng cho dã chiến, nhanh nhẹn, tiện lợi, hơn hẳn pháo mười hai cân nhưng đối thủ lúc này lại là kỵ binh Thát thiên hạ vô song trong dã chiến. Chúng di chuyển nhanh như chớp, một khi ra ngoài dă chiến thì thực sự quá nguy hiểm nhưng nếu dựa vào công sự mà chiến đấu thì đại pháo của đối phương khó có thể địch nổi.
Đối với binh mã Thát ở quan ngoại, từ Lý Mạnh tới quân tướng đều có chung một nhận định. Binh mã Thát hung hãn, tinh nhuệ thế nhưng trang bị của chúng lại kém hơn quân Giao Châu doanh rất nhiều. Giao Châu doanh chiếm ưu thế về hỏa thương, hỏa pháo. “Tế Nam nghị sách tập” đã từng đề cập tới điều này: Quân Giao Châu doanh của chúng ta có ưu thế lớn về hỏa khí. Trong chiến đấu nhất định phải phát huy ưu thế này ở mức tốt nhất.
Sau khi rời khỏi thành Tế Nam, bọn họ cũng nghĩ như vậy. Triệu Năng đã chủ động để lại hỏa pháo ở thành Tế Nam.
Ai ngờ trên đường hành quân lên phía bắc, gặp phải bại binh, dân chạy nạn, còn cả tin tức của thám tử báo về. Tin tức tình báo của đại quân Mãn Thanh càng lúc càng rõ ràng.
Rất nhiều đội kỵ mã, có quân Thát Nữ Chân, quân Thát Mông Cổ, hoàn toàn giống như ngày trước, có Đại tướng quân pháo, có cả lính hỏa thương. Đây chính là điều từ trước tới nay chưa từng nghe nói. Nếu đại quân Thát đó cứ tiến lên theo tốc độ như cũ, Triệu Năng hoàn toàn có thể điều động hỏa khí từ thành Tế Nam tới.
Nhưng đối phương đã đột nhiên tăng tốc, khả năng đó hoàn toàn bị mất đí. Triệu Năng biết mình không đủ kinh nghiệm xét đoán, có lẽ quan quân của các doanh dưới trướng có kinh nghiệm xét đoán tình hình, có thể sẽ có phán đoán chính xác, không bằng gọi tới thương nghị có lẽ sẽ có một đáp án nào đó.
Thế nhưng những quan quân của Lý Mạnh này cũng thiếu hẳn kinh nghiệm trong vấn đề này. Những quân quan từ Thân binh doanh chuyên làm Thiên tổng chỉ có sự kiên cường.
Tranh luận nổ ra không ngừng trong quân trướng nhưng không tìm ra được câu trả lời hữu ích nào. Triệu Năng vô cùng bực bội hắn cho ngưng thảo luận sau một canh giờ, cho những quan quân này quay về doanh của mình chờ lệnh. Triệu Năng đuổi tất cả mọi người ra ngoài còn một mình hắn ngồi rầu rĩ bên trong quân trướng.
Với cục diện trước mắt như thế này. Triệu Năng không biết cần phải hành động thế nào. Bất đắc dĩ Triệu Năng phải nghĩ rằng mình là người hưởng đại ân của Đại soái, với cục diện này thì cùng lắm hắn dùng cái mạng này...
“Triệu đại nhân, Âu tiên sinh cầu kiến”.
Bên ngoài trướng vang lên giọng nói của một tên thân binh. Triệu Năng sửng sốt một lát rồi mới có phản ứng. “Âu tiên sinh” này chính là người nước ngoài Lý Tư. Khi hắn ra đi thì Âu Mạn ở lại Thực Nghiệm doanh ở Tế Nam thí nghiệm các loại chiến pháp, có địa vị tương đương với phó Thiên tổng của Thực Nghiệm doanh nhưng Thực Nghiệm doanh trực thuộc Vương Hải, hình như người nước ngoài này chính là thống lĩnh của Thực Nghiệm doanh.
Lần gom binh mã xuất chinh này, Thực Nghiệm doanh toàn là lão binh, vô cùng tinh nhuệ, lần này đương nhiên cũng muốn ra trận. Lúc nãy khi tranh luận chỉ là chuyện nội bộ của quân Đăng Châu. Âu Mạn là người của Thực Nghiệm doanh nên đương nhiên không được mời.
Nhưng thật không ngờ Âu Mạn lại chủ động tìm tới, Triệu Năng thầm bực bội trong lòng, không có lòng dạ nào muốn gặp. Hơn nữa hắn trấn thủ ở Đăng Châu lâu ngày, có quan hệ rất ít với người Châu Âu, trong bản năng luôn có một loại ác cảm. Thế nhưng sau khi suy nghĩ cẩn thận, Triệu Năng thấy dù sao Ân Mạn này cũng có địa vị tương tự như Công Tôn tiên sinh, không thể tuỳ tiện từ chối nên hắn miễn cưỡng nói: “Xin mời”.
Âu Mạn mặc trên người bộ áo giáp chế tạo rành cho Thiên tổng doanh binh. Giao Châu doanh xem trọng đối với tác phong quân đội. Cái nhìn này xuất phát từ đám lính đánh thuê của Đức. Điều quan trong nhất là phải bồi dưỡng cho một người lính kỷ luật quân đội cùng tác phong, lòng trung thành đối với quân đội và cảm giác vinh dự của một người lính.
Việc bồi dưỡng vấn đề này ở Giao Châu doanh khiến cho Âu Mạn có cảm giác là đã lựa chọn chính xác, vì vậy ngay sau khi hắn gia nhập đội quân này, hắn cố sức liên hệ, bắt chước nền tảng của Châu Âu nên quả nhiên mọi chuyện thực hiện rất có bài bản.
Sau khi tiến vào trong trướng, dựa theo cấp bậc quân nhân hiện tại, Âu Mạn lập tức đứng nghiêm, tay trái giơ trước ngực thực hiện nghi thức quân đội. Triệu Năng cảm thấy rất thoải mái khi nhìn thấy dáng vẻ đó của đối phương, ác cảm cũng phần nào giảm đi, hắn lên tiếng hỏi:
“Âu tiên sinh, ngài tới nơi này rốt cuộc có chuyện gì vậy?”
“Tướng quân, căn cứ vào ý kiến của Công Tôn tiên sinh, chúng ta muốn ngăn cản đại quân của Man tộc thì không thể phòng thủ ở trấn An Lăng mà phải chủ động xuất kích”.
Trong buổi tranh luận hôm nay, đây là người đầu tiên đưa ra ý kiến nhất quán của mình. Cho dù đây là một người tây dương thì Triệu Năng vẫn cảm thấy chấn động trong lòng.
“Tướng quân, bình nguyên rộng lớn này vượt qua những gì ta được nhìn thấy ở quê hương mình và các quốc gia xung quanh. Nếu có nơi nào có thể so sánh được thì đó chỉ là vùng đất ở phía đông Ba Lan mà thôi”.
Viên thông dịch cung kính cúi đầu đứng bên cạnh nhưng hắn không ngừng dịch lại.
“Bình nguyên rộng lớn như thế này thì dù là mấy vạn kỵ binh cũng không ảnh hưởng gì tới sự cơ động quy mô lớn, chúng không cần lo lắng gì về hạn chế về mặt địa hình. Công Tôn tiên sinh đã ra quân lệnh cho quân đoàn chúng ta ngăn cản đại quân của Man tộc. Nếu chúng ta trấn thủ ở thôn trấn này, thứ nhất là chúng ta không thể ngăn cản được trọng pháo của đối phương, thứ hai là đối phương hoàn toàn có thể bỏ qua chúng ra, đi vòng qua chúng ta với một khoảng cách an toàn”.
Với thân phận của Âu Mạn tiên sinh khiến hắn có thể tiếp xúc với một số tin tức tình báo mà một số quan quân khác không thể biết nên cũng khiến cho hắn có một sự phân tích toàn diện hơn.
Ngay khi theo đại quân rời khỏi Tế Nam tiến lên Bắc Trực Lệ. Âu Mạn đã bị gây ấn tượng rất lớn, không phải vì quân đội và cục diện mà bởi vì chính địa hình.
Vào thời đại đó người Châu Âu không thể tưởng tượng là đế quốc Đại Minh lại rộng lớn như vậy. Nước Đức thời đó chỉ tương đương với một tỉnh của đế quốc Đại Minh, rất nhiều tiểu quốc, thậm chí quy mô của Châu, phủ còn lớn hơn. Vùng Phúc Kiến, vùng đồi núi Sơn Đông hoàn toàn không giống với bình nguyên Bắc Trực Lệ.
Theo suy nghĩ của Tôn Truyền Đình là muốn Âu Mạn đưa ra điều chỉnh dựa vào tình hình thực tế. Dựa theo suy nghĩ của ông ta thì sau khi quân đoàn của Triệu Năng tới trấn An Lăng thì chuẩn bị công sự phòng ngự. Khi ở phủ Tế Nam thì sự suy đoán của Công Tôn tiên sinh không sai nhưng ngay khi tới hiện trường, cần phải dựa theo tình hình cụ thể mà có điều chỉnh.
“Binh lính và quan quân chúng ta đều có quê quán ở Sơn Đông. Nếu như quân đội Man tộc vượt qua trấn An Lăng, tiến thẳng vào Sơn Đông. Mặc dù khi đó bản thân bọn họ đang phải đánh trận nhưng vì lo lắng cho người thân ở phía sau, tinh thần bọn họ nhất định sẽ giảm sút, thậm chí xảy ra hỗn loạn”.
Triệu Năng trở nên nghiêm nghị, ác cảm đối với Âu Mạn hoàn toàn biến mất. Hắn lập tức trang nghiêm hỏi: “Âu tiên sinh, chúng ta nên làm thế nào?”
“Chủ động tấn công. Trước mắt tốc độ hành quân của quân Man tộc đã nhanh hơn muốn trì hoàn sự tiến quân của chúng thì chỉ còn cách là chủ động tiến đánh”.
Triệu Năng cau mày, hắn vuốt vuốt chòm râu của mình rồi ra hiệu cho Âu Mạn, hai người quay người đi tới trước tấm bản đồ treo trong quân trướng. Có thể nhìn thấy một loạt địa danh ở cạnh Vận Hà. Những địa danh đánh dấu mầu đỏ là những nơi đã bị đại quân Thát đánh chiếm, dấu mũi tên là chỉ phương hướng di chuyển của binh mã quân Thát.
Khi nhìn bản đồ, tất cả mọi thứ đều rất rõ ràng. Âu Mạn trầm ngâm một lát rồi nói: “Mặc dù quân đội Man tộc tránh những thành thị lớn, đẩy nhanh hơn tốc độ hành quân nhưng nếu có một đội quân chắn ngang trên đường tiến quân thì chỉ cần là một tướng chỉ huy bình thường, nhất định cũng sẽ xảy ra giao chiến. Ta nghe nói trong vòng mười năm nay không có một quân đoàn nào của đế quốc Đại Minh giành được thắng lợi trước quân đội Man tộc. Một khi quân đoàn của tướng quân xuất hiện trước mặt chúng, nhất định đám tướng lĩnh Man tộc đó sẽ không né tránh mà muốn đánh trận, tiêu diệt tướng quân”.
Tốc độ địch của tên thông dịch có phần không theo kịp, Âu Mạn phải dừng lại chờ đợi rồi lại mới tiếp tục nói:”
“Đại bộ phận quân đội của đối phương là kỵ binh. Quân ta đại bộ phận chính là bộ binh, tính cơ động không bằng quân Man tộc. Chúng ta nhất định phải chủ động tác chiến, triệt tiêu ưu thế cơ động của kỵ binh Man tộc, kéo dài thời gian chờ viện quân tới”.
Triệu Năng hít một hơi thật sâu khi nghe Âu Mạn phân tích bà phán đoán như thế, dĩ nhiên là hắn đã hạ quyết tâm. Hắn nhìn chằm chằm vào vị trí Bán Bích Điếm ở nam Thương Châu, ánh mắt hắn không ngừng di chuyển. Triệu Năng chỉ tay vào một vị trí, nhất quyết nói: “Ngày mai quân ta nhổ trại đi lên phía bắc. Đại quân Thát đang xuôi nam. Nếu không có gì bất ngờ, quân ta và quân Thát sẽ giao chiến ở gần huyện Đông Quang”.
Vừa nói xong Triệu Năng quay người quát to: “Hãy truyền các thống lĩnh các doanh tới quân trướng nghị sự”.
Tôn Truyền Đình và Âu Mạn đã phán đoán rất đúng ý đồ hành động của của Đại tướng quân A Ba Thái. Hay nói một cách khác các tướng lĩnh tài năng của thời kỳ đó ai cũng có thể đưa ra phán đoán đó.
Không may. Lý Mạnh xuất thân sỹ quan mang đậm phong cách hiện đại, bồi dưỡng cho các quan quân của mình còn khiếm khuyết ở điểm này. Muốn bồi dưỡng được vấn đề này thì cần rất nhiều thời gian và yêu cầu của tình hình cũng rất cao.
So với cùng thời thì quân đội Đông Á, với quân đội Bát Kỳ Mãn tộc làm trung tâm sắc bén hơn. A Ba Thái đã gia tăng tốc độ cùng tính cơ động trên diện rộng. Trên thực tế thì tất cả chỉ là những quy tắc thông thường nhưng với hành động tương tự nếu là áp dụng trong quân lưu dân hay quan binh thì e rằng quân đội sẽ bị tản mát.
Vì cơ động chính là vượt qua Vận Hà ở bắc Thương Châu, đoạn Vận Hà đóng băng cách đó ba mươi dặm sau đó tiến theo hướng đông nam đi tới Bán Bích Điếm.
Nếu như xung quanh có quân Minh hay có phục binh thì nhất định hành động này sẽ bại lộ nhưng tình hình hoàn toàn đúng như những gì A Ba Thái đã dự đoán, không có truy binh cũng như phục binh. Điều tiếp theo là toàn lực xuôi nam, chuẩn bị bung sức toàn lực cướp bóc người, vàng bạc, gia súc.
Điều A Ba Thái và tướng lĩnh thủ hạ của hắn không ngờ là chính sự cơ động của chúng đã gây nên sự kinh hoàng. Một Thương Châu đã sớm kinh sợ thì không nói làm gì. Quân và dân trong các thành trì như phủ thành Hà Gian Giao Hộ Hiến huyện Nam Bì. Diêm Sơn đã sớm kinh hoàng tới vỡ mật. Phủ thành Hà Gian đóng cửa thành giữa ban ngày. Huyện lệnh Nam Bì và Hà Gian đã bỏ thành chạy trốn. Dân chúng, binh lính cũng bỏ chạy về các thành trì ở phía tây. Hai huyện Hiếu và Diêm Sơn thì vô cùng hỗn loạn, rất nhiều hạng người đạo chích, tiểu nhân nhân cơ hội này đục nước béo cò.
Trong lúc nhất thời cục diện trở nên không thể phán đoán được...
Điều này cũng chẳng có gì đáng nói. Điều khiến người trong thiên hạ bất ngờ nhất chính là Hoàng đế ở kinh thành, các đại thần, các võ tướng không ai biết bây giờ binh mã quân Thát đang ở đâu, hành động như thế nào, ở xung quanh kinh thành, binh mã ở Thượng Kinh và các đạo quân cần vương có khoảng hai mươi vạn nhưng quân đội có khả năng chiến đấu thì chỉ có rất ít.
Đại quân Thát nhập quan, thiên hạ chấn động nhưng hành động của triều đình như vậy đủ khiến cho người có lòng trong thiên hạ nguội lạnh nhưng điều này cũng chỉ là vạn bất đắc dĩ. Mấy lần đại bại bên ngoài quan ngoại thì không nói làm gì nhưng ở Trung Nguyên này khi quân triều đình và đại quân lưu dân đang sát phạt lẫn nhau, tiêu hao rất nhiều binh lính, tướng lĩnh, con số quân phí lớn như con số cực lớn, nhưng những cái đó chỉ là rất nhỏ khi không giao chiến với quân Mãn.
Nhưng ngay bây giờ căn bản tất cả đều là không, Không binh lính, không tướng, không có tiền thì nghĩ ra được biện pháp gì, huống chỉ trong triều còn có tranh giành bè phái khiến cho sự tình càng chậm trễ.
Còn về phần Sơn Đông ở bên cạnh Bắc Trực Lệ thì lại có binh có tướng nhưng thật ra không thể trông cậy nhiều. Dã tâm của Lý Mạnh này ngày càng rõ ràng. Con người này chậm gây rối đã là cám ơn trời đất lắm rồi sao còn dám cậy nhờ hắn cần vương?
Sau này có người xem lịch sử nhất định sẽ có cảm giác rằng có lẽ là thật sự tồn tại Thiên mệnh. Đế quốc Đại Minh tồn tại đã hơn hai trăm năm, bây giờ là lúc gặp phải loạn trong giặc ngoài.
Người Nữ Chân Kiến Châu quật khởi, người Đại Minh giao chiến với quân Nữ Chân không chiếm được lợi thế nào nhưng vẫn còn có thể thong dong đối phó nhưng vào những năm cuối Thiên Khải tới năm Sùng Trinh, trời giáng đại nạn, lưu dân nổi loạn ở Thiểm Tây, một trong, một ngoài, đế quốc Đại Minh bắt đầu đối phó một cách chật vật.
Tôn Truyền Đình cùng Lô Tượng Thăng, thậm chí là Đốc phủ đại thần Dương Tự Xương đã mấy lần chỉ huy quan binh dồn Lý sấm và Trương Hiến Trung vào chỗ chết. Năm đó Sấm Vương Cao Nghênh Tường bị bắt và xử tử nhưng mỗi lần bị dồn vào tuyệt cảnh, khi muốn đuổi tận, giết cùng thì quân Thát bắt đầu xâm nhập. Khi đó triều đình lại phải rút quan binh đang bao vây đi chống quân Thát khiến cho đám phản tặc lưu dân có cơ hội thoát thân, có cơ hội khôi phục lại.
Khi tình hình hơi yên ổn được một chút, binh mã của lưu dân vừa khôi phục lại, triều đình lại muốn phát binh bình định, chuyện cứ vòng đi vòng lại, không có một cách giải quyết dứt điểm. Hai bên kia đều không ngừng phát triển lớn mạnh.
Cho tới năm nay, một phương bắc không ngừng xảy ra thiên tai đại nạn mới được coi là hoà hoãn. Vùng đất Sơn Đông này không quá hỗn loạn, thậm chí còn được coi là địa phương “mưa thuận gió hoà”.
Đại quân lưu dân vốn ban đầu muốn sống mà nổi dậy thì nay đã trở thành một tập đoàn quân sự đủ sức tranh đoạt thiên hạ. Quân Thát bên ngoài quan ngoại cũng đã có một thể chế chính trị quân sự hoàn hảo, hình thành một thế lực hùng mạnh. Trái lại trong khi đó đế quốc Đại Minh do phải luân phiên đối phó với hoạ trong giặc ngoài đã trở nên vô cùng yếu ớt.
Thế lực tiêu tan dần kiếp nạn của Đại Minh, thời kỳ đen tối của người Trung Quốc cứ vậy tiến tới mà không thể đảo ngược được. Nếu phân tích lại một lần nữa, tình hình thật sự là u tối, một vận mệnh không thể dịch chuyển được khiến cho đế quốc Đại Minh bị diệt vong.
Cũng tương tự như vậy ở thế giới văn minh, dân tộc Hán dẫn đầu Hoa Hạ mấy nghìn năm vào thời Minh mạt bắt đầu bị văn minh phương tây vượt qua.
Sau khi đế quốc Mãn Thanh được thành lập, dân tộc Trung Hoa chìm trong bóng tối, đình trệ mấy trăm năm, hầu như không còn khả năng đuổi theo. Tới khi xảy ra chiến tranh nha phiến đất nước bị đại pháo tấn công, lâm vào cảnh nhục nhã hơn một trăm năm. Đó chính là thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử mấy nghìn năm của Trung Hoa.
Khi Lý Mạnh tới, hắn và tập đoàn của hắn muốn đánh để thay đổi cái kết cục của thời hỗn loạn, tối tăm này, muốn thay đổi nỗi đau đớn của vô số người Hán, vô số dân tộc Trung Hoa, thay đổi thời hắc ám, loạn thế và huỷ diệt.
Với chức Trấn đông tướng quân, Tổng binh Sơn Đông, Lý Mạnh được coi là người hùng cứ một phương, người trong thiên hạ đều coi như hạng người Đổng Trác, An Lộc Sơn, một võ tướng có dã tâm, ngang tàng bạo ngược, tham tài trục lợi, nội bộ lục đục với nhau, kiêu binh hãn tướng. Thuộc hạ thì bị dân chúng coi như hạng cầm thú bại hoại.
Nhưng Lý Mạnh và quân đoàn của hắn, Giao Châu doanh của hắn, Sơn Đông của hắn hoàn toàn khác so với những gì người khác thường nhìn thấy. Lý Mạnh và thuộc hạ của hắn, không phân biệt cao thấp, quan văn hay võ tướng đều mang trong người một cảm giác sứ mạng. Một cảm giác là người trên vô năng, cần phải binh mã Sơn Đông chúng ta ra tay cứu vớt thời đại cùng cảm giác mang sứ mạng của quốc gia.
Vì vậy khi quân chủ lực Giao Châu doanh tấn công Nam Trực Lệ, Sơn Đông trống rỗng. Thực lực của đại quân Thát hùng mạnh, khí thế hung tợn, trận chiến này lành ít dữ nhiều nhưng Tham tướng Triệu Năng không hề do dự, chỉ huy binh lính xuất chiến.
Hành động này ở Giao Châu doanh từ trên xuống dưới đều coi đó là chuyện bình thường nhưng người trong thiên hạ lại thấy hành động của Giao Châu doanh giống như của kẻ bại não, hoàn toàn ngu ngốc.
Giữa trưa ngày hai mươi bảy tháng mười một năm Sùng Trinh thứ mười lăm, ở một nơi cách huyện Đông Quang hai mươi lăm dặm, bên cạnh Vận Hà, thám tử Trương mỗ của quân Đăng Châu, Giao Châu doanh đã ra ngoài điều tra mấy canh giờ liền. Bình nguyên Hoa Bắc rộng lớn, kỵ binh Đăng Châu ít nên phạm vi trinh sát khá rộng. Từ lúc Trương mỗ ra khỏi quân doanh không nhìn thấy một đồng bạn nào cả, cuối cùng tới giữa trưa hắn cũng nhìn thấy một kỵ binh ở phía xa.
Thám mã Trương mỗ lại tưởng rằng đó chính là đồng bạn của mình, hắn vội vàng giục ngựa chạy về bên đó. Có lẽ đối phương cũng nghĩ như vậy, cũng đang giục ngựa chạy tới bên này.
@by txiuqw4