sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Thuyền trưởng tuổi 15 - Phần 1 - Chương 13 - 14 - 15

Chương 13

ĐẤT! ĐẤT LIỀN!

Sáng ngày 28 tháng ba, cột thủy ngân đã thấy lên trong ống phong vũ biểu. Bão bắt đầu giảm. Biển vẫn sóng nhiều, nhưng gió càng đi về phía tây càng nhẹ dần.

Tuy nhiên vẫn chưa giương buồm được. Phải đợi hai tư tiếng đồng hồ nữa, may ra mới có thể kéo một cánh buồm tam giác ở mũi thuyền. Ban đêm gió dịu dàng, thuyền cũng đỡ bị nghiêng ngã bởi những con sóng bạc đầu. Bà Uynxton là người đầu tiên bước ra khỏi phòng từ khi bão nổi. Bà đến bắt tay Đíchsơn và nói:

- Đíchsơn, con yêu quý của ta! Thuyền trưởng của ta!

Đíchsơn mỉm cười đáp:

- A! Thưa bà, bà đã không tuân lời của thuyền trưởng rồi! Bà đã ra khỏi phòng bất chấp những lời… đề nghị của thuyền trưởng?

- Con ơi, ta cảm thấy cơn sóng gió này sẽ yên con ạ.

- Thưa bà, bà đoán đúng vì phong vũ biểu đã bắt đầu lên từ hôm qua. Gió đã bớt mạnh, con cũng tin rằng cuộc thử thách gay go này sắp chấm dứt.

- Đíchsơn con ơi! Con đã cực nhọc nhiều quá! Con đã là một…

- Thưa bà, đó là bổn phận, nghĩa vụ thôi ạ.

- Bây giờ con hãy nghỉ ngơi đi.

- Nghỉ ngơi ấy à! Con không cần nghỉ ngơi. Bà đã gọi con là thuyền trưởng, thì con sẽ giữ nhiệm vụ thuyền trưởng cho đến khi nào tất cả mọi người trong thuyền Hải Âu này về tới đích an toàn.

- Đích! Con! Ông Uynxton và ta, chúng ta không bao giờ quên được những điều mà con đã làm. Con đã tỏ ra là một người lớn, một người xứng đáng làm chỉ huy.

Đíchsơn cảm động, dân dấn nước mắt, nói:

- Con! Con ư?...

Bà Uynxton đáp:

- Đíchsơn, con ơi, trước kia con là con nuôi, bây giờ là con đẻ của ta, người đã cứu sống mẹ và em Giắc của con. Con ơi, con lại gần đây, mẹ hôn con và cũng là để hôn thay cho cha con đang vắng mặt tại đây.

Sau những lời tâm tình đó, Đíchsơn thấy phấn khởi và mạnh mẽ hẳn lên.

Ngày 29, sức gió đã giảm, Đíchsơn cho giương buồm để thuyền đi nhanh và đúng hướng hơn. Đíchsơn gọi mấy người da đen tới và nói:

- Các bạn hãy giúp ta một tay. Chúng ta kéo buồm cột giữa trước. Buồm này phải thay bằng cái mới nên hơi khó làm đấy.

Antôn nói:

- Chúng tôi làm được.

Thế rồi Đíchsơn chỉ dẫn cho họ làm. Mất một tiếng đồng hồ mới kéo xong lá buồm ta này. Còn cánh buồm tiền và cánh buồm mũi giương lên không khó mấy mặc dầu bị gió cản trong lúc làm. Thế là ngày hôm đó, lúc mười giờ sáng, thuyền Hải Âu đã chạy được bằng ba buồm.

Hôm sau, mây đen vẫn trôi ngang trời rất nhanh, nhưng thỉnh thoảng lại đứt quãng nên tia sáng mặt trời nhiều lúc rọi xuống mặt biển. Vì thế thuyền Hải Âu cũng tràn ngập ánh sáng. Cái ánh sáng đầy sức sống này quý biết bao!

Các cửa cầu thang đều được mở tung ra cho hầm thuyền được thoáng khí. Tuy mất máy đo nhưng Đíchsơn không quên nhìn đường nước rẽ sau thuyền nên có thể ước lượng được tốc độ của thuyền. Đíchsơn tính với vận tốc này chỉ bảy ngày nữa là nhìn thấy đất liền. Chú đem bản đồ, chỉ vị trí phòng đoán của con thuyền cho bà Uynxton biết. Bà nói:

- Còn bảy ngày nữa thôi! Thế thì hay lắm!

Mấy ngày sau, tình hình thời tiết thay đổi bất thường làm cho Đíchsơn lo ngại nhưng cũng không có chuyện gì xảy ra. Gió biển lúc thổi từ hướng bắc chuyển sang hướng nam, rồi dừng hẳn. Sức gió vẫn mạnh làm mệt mỏi giàn buồm.

Đến ngày mồng năm tháng tư, vẫn chưa nhìn thấy đất liền. Mặc dù luôn có một người da đen túc trực ở trên chòi quan sát. Nhiều lần, Tôm và các bạn da đen đã mừng hụt vì những hình kỳ dị của đám hơi nước hiện ra như một vệt đất ở nơi chân trời.

Nhưng đến mồng sáu tháng tư thì không còn nghi ngờ gì nữa. Lúc đó là tám giờ sáng, mặt trời bắt đầu lên cao. Sương mù tan dần, chân trời trở nên trong trẻo. Đíchsơn trèo lên chòi quan sát, bỗng thốt ra một tiếng kêu mà bấy lâu mọi người mong đợi: “Đất! Đất liền ở trước chúng ta!” Nghe tiếng đó, mọi người đều chạy lên sàn, chỉ thiếu Nego. Ai cũng nhìn thấy cách xa chừng bốn dặm, về phía Đông, một dãy bờ biển thâm thấp in rõ trên nền trời xanh.

Thuyền Hải Âu chạy thẳng và nhanh về phía đó, bờ biển mỗi lúc một rộng ra. Hai giờ sau, đã tới gần bờ biển, con thuyền đi thẳng vào đất liền. Một hàng đá ngầm rất dài, lô nhô trong những lớp sóng bạc đang dồn dập xô vào bờ đá. Đíchsơn lẳng lặng cầm lái. Gió vẫn thổi đều. Con thuyền chỉ còn cách bờ biển độ một dặm. Đíchsơn thấy một vũng nhỏ phía bờ biển có thể cho thuyền vào được, nhưng lởm chởm những đá ngầm. Tìm một lối để lách thuyền vào thật là khó.

Trong lúc đó, con Đinhgô cứ đi đi lại lại trên sàn thuyền rồi nhảy về phía trước nhìn bờ biển sủa lên những tiếng kêu thảm thiết. Người ta cho rằng nó biết vùng này và bản năng làm cho nó nhớ lại một kỷ niệm đau buồn gì đó.

Nego đang ở trong phòng, nghe thấy tiếng chó sủa tự nhiên chạy vọt ra, đứng tựa bao lơn. Con Đinhgô mãi sủa nên không biết Nego đứng gần. Hắn thản nhiên nhìn những lớp sóng đang quật vào bờ biển. Bà Uynxton thấy nét mặt hắn rạng ra một lát rồi lại ủ dột. Nego biết miền bờ biển mà gió bão đã đưa thuyền Hải Âu đến chăng? Trong khi đó, Đíchsơn trao tay lái cho Tôm và đứng nhìn cái vũng dần dần mở rộng ra. Rồi với giọng cương quyết, Đíchsơn nói với bà Uynxton:

- Thưa bà, không còn hy vọng tìm chỗ lách an toàn cho thuyền được. Nửa giờ nữa thì thuyền ta sẽ ở trên đá ngầm. Dù sao, chúng ta cũng phải lên bờ. Con đành hy sinh con thuyền này. Giữa số phận con thuyền và số phận của mọi người thì không còn điều gì phải ngần ngại nữa.

Bà Uynxton nói:

- Con cứ làm những gì thuộc quyền con.

Ngay sau đó Đíchsơn chuẩn bị mọi việc để cho thuyền mắc cạn. Chú sai đem lên sàn thuyền mười thùng dầu cá voi. Dầu này sẽ dùng để đổ lên mặt sóng khi thuyền vào vũng. Sóng sẽ dịu đi, thuyền có thể lách qua những mỏm đá ngầm dễ dàng và bớt nguy hiểm hơn. Lúc đó, thuyền chỉ còn cách bờ biển khoảng ba trăm thước. Sườn bên trái đã bị sóng chồm lên trắng xóa. Mỗi lúc, Đíchsơn lại tưởng như đáy thuyền sắp xệch trên đá. Chợt chú nhìn màu nước và biết chỗ này có một con rạch nhỏ đi vào bờ, hai bên có những chỏm đá ngầm. Không ngần ngại gì nữa, Đíchsơn lái luôn thuyền vào rạch để vào được càng gần bờ càng hay. Sóng biển chồm lên dữ dội, nước tràn cả vào sàn thuyền. Những người da đen đứng cả ở trước thuyền bên cạnh những thùng dầu cá voi đợi lệnh.

Đíchsơn nói:

- Để dầu ra! Đổ ra.

Lập tức những thùng dầu được đổ ra như thác. Như có phép lạ, mặt biển im ngay dưới lớp dầu lênh láng để rồi lúc sau lại sôi nổi, dữ dội hơn. Thuyền Hải Âu chạy tuồn tuột trên làn nước trơn mướt và đâm thẳng vào bờ. Chợt một lớp sóng nâng thuyền lên và xô vào đám đá ngầm. thuyền đụng mạnh và mắc cạn. các cột buồm đều đổ nhào, may không ai việc gì cả.

Vỏ thuyền bị đá đâm thủng, nước chảy vào ào ào. Chỗ này cách bờ biển chừng một trăm thước, lại có mốc đá đen nhô lên, giúp cho mọi người lội vào không khó. Vì thế, chỉ mười phút sau, tất cả mọi người trong thuyền Hải Âu đều đổ bộ được đến chân bờ đá cao.

Chương 14

NHỮNG ĐIỀU PHẢI LÀM

Sau bảy tư ngày, thuyền Hải Âu đã cập được vào bờ biển. Dù rất tiếc nhưng mọi người cũng đành phải bỏ thuyền lại. Bây giờ cần nhất là phải biết chỗ đổ bộ là địa điểm nào? Theo Đíchsơn thì nơi này có vẻ là bờ biển Peru. Chú căn cứ vào đảo Pác mà cho rằng thuyền Hải Âu bị đưa lên đông bắc bởi sức mạnh của gió và cũng bởi ảnh hưởng của hải lưu miền xích đạo. Từ vĩ tuyến 43, thuyền có thể bị trôi dạt tới vĩ tuyến 15.

Nêu là bờ biển xứ Pêru thì hải cảng, thị trấn và làng mạc không hiếm, Đíchsơn có thể tìm đến chỗ dân cư không khó khăn gì. Còn ở miền này rất hoang vu. Không một vết tích, không một dấu chân tỏ ra nơi này đã có người qua lại. Đíchsơn không khỏi kinh ngạc, chú tự hỏi: “Đây là đâu? Hiện giờ ta ở chỗ nào? Lấy ai mà hỏi bây giờ?”. Chẳng có ai cả. Nếu có người lạ thì con Đinhgô đã đánh hơi thấy và sủa ầm lên rồi. Con chó cứ vòng đi vòng lại trên bãi sỏi, đuôi cúp, mũi dí sát đất và gầm gừ. Điệu bộ của nó kỳ quặc quá, hình như nó tìm kiếm cái gì chứ không phải báo hiệu người hay vật lạ đến gần. Bà Uynxton nói:

- Đíchsơn! Trông con chó kìa!

- Lạ quá! Có lẽ nó muốn tìm một dấu vết gì – Đíchsơn đáp.

- Còn Nego làm gì thế?

- Hắn cũng như Đinhgô đi đi lại lại muốn tìm tòi thứ gì… Nhưng thôi, bây giờ hắn được tự do. Con không có quyền ra lệnh cho hắn nữa. Nhiệm vụ của hắn chấm dứt sau khi thuyền mắc cạn.

Trong khi đó, Nego quanh quẩn ở bãi sỏi nhìn bờ biển, nhìn vách đá như muốn tìm vài dấu vết cũ. Hắn đã biết miền này chăng? Nếu hỏi, chắc hắn sẽ không trả lời. Tốt hơn là đừng nói đến và nghĩ đến con người bí hiểm đó.

Chợt Đíchsơn thấy hắn đi về phía sông con rồi mất hút sau một vách đá. Đíchsơn không nghĩ đến hắn nữa.

Bây giờ việc khẩn thiết nhất là tìm ra chỗ tạm trú để ăn uống và nghỉ ngơi. Rồi họp mọi người lại để bàn định những việc phải làm cho ngày mai.

Về lương thực, không phải lo lắng lắm. Không kể những vật phẩm mà miền này có thể cung cấp, hầm thuyền đã có sẵn những thứ để nuôi những người sống sót. Sóng biển đã đưa thức ăn từ hầm thuyền vào cái khe đá ven bờ. Tôm và những người da đen đã thu thập được vài thùng bánh bích quy, nhiều hộp đồ ăn và mấy két thịt khô. Những thực phẩm này đã được đem lên bờ và để ở một chỗ chắc chắn, không sợ nước triều lên cuốn đi mất. Đíchsơn bảo Ecquyn đến bờ sông con lấy một bình nước ngọt về uống tạm, nhưng Ecquyn lấy về một thùng lớn đầy nước trong và mát. Củi ở đây không hiếm, còn lửa thì già Tôm nghiện thuốc nặng nên có sẵn những bùi nhùi. Giờ đây chỉ còn thiếu một cái hang cho đoàn người ở tạm trong một đêm trước khi khởi hành đến chỗ có dân cư.

Em Giắc đã có công tìm ra hang. Sau khi tung tăng chạy nhảy ở bờ biển, em về khoe:

- Có một cái hang đá to bằng cái nhà.

Quả nhiên, tại một khu vách đá gần bờ biển, em đã tìm thấy một cái hang khá rộng và nhẵn nhụi do nước triều xói thành. Hang này rộng và sâu khoảng bốn thước, có thể chứa được đoàn người sống sót.

Mười phút sau, mọi người đều được nghỉ ngơi thoải mái trên lớp cỏ khô trải trong hang. Tự nhiên Nego trở về. Có lẽ hắn không muốn phiêu lưu một mình trong rừng rậm bên bờ con sông nhỏ ngoằn ngoèo. Một giờ chiều, bữa ăn được bày ra: nào thịt ướp, cá hộp, bánh quy, nước ngọt được pha thêm rượu rum do Pát đem theo. Nego cũng ăn, nhưng hắn không hề bàn vào câu chuyện của mọi người về tình hình khó khăn hiện tại.

Bà Uynxton vừa ẵm Giắc ngủ trong lòng vừa nói:

- Đíchsơn, con ơi. Thay mặt cho tất cả mọi người ở đây, mẹ cảm ơn con đã hết lòng với mọi người cho đến giờ phút này. Tuy nhiên, nhiệm vụ của con chưa hết. Con đã là thuyền trưởng của chúng ta trên đại dương, thì con hãy là người hướng đạo của chúng ta trên đất liền. Mọi người đặt tin tưởng nơi con. Vậy ý con thế nào? Bây giờ phải làm gì?

Đíchsơn trầm ngâm một lúc rồi nói:

- Thưa bà, điều cần thiết là phải biết chúng ta đang ở đâu. Theo con thì miền bờ biển Mỹ Châu này thuộc nước Pêru. Nhưng chúng ta lại lạc vào phía nam xứ đó, là nơi gần những đồng cỏ hoang ít người ở. Cứ xem bãi biển hiu qụanh này thì biết chúng ta hiện ở một nơi rất xa làng mạc.

Bà Uynxton hỏi:

- Ta phải làm thế nào bây giờ?

Đíchsơn đáp:

- Con nghĩ rằng ta không nên rời nơi trú ẩn này trước khi ổn định tình hình của chúng ta. Sau một đêm nghỉ ngơi để lại sức, sáng mai hai người trong đoàn sẽ đi thăm dò. Họ sẽ cố tìm gặp một vài người bản xứ để hỏi đường rồi trở về hang báo tin. Chả lẽ trong vòng mười đến mười hai dặm cách đây lại không gặp một người nào hay sao?

- Chúng ta phải tách ra à? – bà Uynxton hỏi.

- Vâng, việc đó rất cần – Đíchsơn trả lời.

Bà Uynxton suy nghĩ một lúc rồi hỏi:

- Thế trong đoàn ta, ai sẽ đi thăm dò?

- Tôm và con… Con sẽ đem theo Đinhgô nữa, nó sẽ có ích trong cuộc thám hiểm của con… Vả lại, cuộc chia tay này cũng không lâu đâu. Nhiều nhất là hai ngày, nếu Tôm và con không gặp một người nào hay không tìm thấy làng xóm nào thì chúng con trở về ngay. Nhưng điều này không thể có được, vì con tin rằng vào sâu không tới mười dặm, con có thể xác định được vị trí miền này.

- Phải, con nói cũng có lý – bà Uynxton không giấu được nét lo buồn, rồi quay sang hỏi Binđắc - Còn bác, ý kiến bác thế nào?

Binđắc nói:

- Tôi không có ý kiến gì. Tôi chỉ muốn đi quan sát các giống côn trùng ở vùng này.

- Xin ông chớ có đi quá xa. Đó là điều cháu muốn nhắc ông – Đíchsơn nói.

- Được, cháu cứ yên tâm.

Lát sau, nhà côn trùng học đeo lủng lẳng cái hộp sắt bên sườn, ung dung rời khỏi khu trú ẩn. Đồng thời, Nego cũng lẳng lặng rút lui. Trong khi Binđắc leo lên sườn dốc của bờ biển, Nego thong thả trở ra phía sông con rồi rẽ vào bờ sông mất dạng.

Em Giắc vẫn nằm ngủ trên đùi u già Năng. Bà Uynxton bước ra bãi biển, Đíchsơn và các bạn theo sau.

Nhìn lại con thuyền chìm, cảnh tang thương đó làm cho bà Uynxton và các bạn không khỏi xúc động. Họ buồn bã đứng nhìn con thuyền lần cuối trước khi nó bị sóng biển nhấn chìm. Con thuyền mắc cạn chúc mũi xuống nước, cửa sau chưa bị chìm hẳn. Nhờ những đầu dây ở sườn thuyền, Đíchsơn và các bạn da đen leo lên một cách dễ dàng.

Trong khi Tôm, Exquyn, Pát và Ốttanh xuống hầm lấy những thực phẩm còn lại, Đíchsơn vào phòng thủy thủ ở sàn sau, lấy bốn khẩu súng trường và hơn một trăm viên đạn. Những thứ này dùng để võ trang cho đoàn, phòng khi phải chống chọi lại với người da đỏ. Đíchsơn còn lấy một cái đèn bỏ túi và tất cả số tiền ở trong thuyền, được chừng năm trăm đô la. Mặt trời dần lặn xuống chân trời, hoàng hôn nhanh chóng nhường chỗ cho bóng đêm. Hiện tượng này làm cho Đíchsơn tin chắc rằng địa điểm mà đoàn người đang trú ẩn là miền ở giữa đông chí tuyến và xích đạo. Sau đó, bà Uynxton, Đíchsơn và những người da đen cùng trở về hang để nghỉ ngơi.

Đêm tối như mực. Những người da đen phải cắt nhau luân phiên canh gác lối vào hang. Con Đinhgô rất giỏi việc này.

Tôm lưu ý mọi người:

- Đêm đã lâu mà không thấy Nego trở về.

Bà Uynxton hỏi:

- Bây giờ hắn ở đâu?

- Thưa bà, khỏi cần hắn – Pát nói.

- Cần chứ! Tôi muốn biết con người đó có còn ở cạnh anh em không?

- Thưa bà, bà nói rất phải. Nhưng nếu hắn đã tự ý đi thì chúng ta cũng không làm cách gì để bắt hắn ở lại được – Đíchsơn nói.

Tuy nhiên, những người da đen cũng ra ngoài, lên tiếng gọi hắn nhiều lần, nhưng chẳng có tiếng trả lời. Có thể hắn đã đi xa rồi, hoặc hắn nghe thấy mà hắn không muốn về.

Lát sau. Con Đinhgô chạy ra bãi và sủa vang lên.

Bà Uynxton gọi:

- Đinhgô, sủa gì thế?

Đíchsơn nói:

- Ta cần phải xem sao. Có lẽ Nego trở về chăng?

Lập tức Ecquyn, Pát, Ốttanh và Đíchsơn cùng nhau ra chỗ cửa sông. Khi đến bờ, họ chẳng trông thấy ai và cũng chẳng nghe thấy tiếng động gì. Lúc đó con Đinhgô cũng im lặng. Toán người lại trở về hang.

Việc nghỉ đêm được sắp đặt chu đáo. Mấy người da đen thay phiên nhau ở bên ngoài. Bà Uynxton trằn trọc mãi mà không ngủ được. Mảnh đất mà bà mòn mắt trông đợi đã không đem lại cho bà hy vọng: đó là bình an cho mọi người.

Chương 15

NGƯỜI LẠ MẶT

Hôm sau là ngày bảy tháng tư, gần sáng, Ốttanh thấy con Đinhgô vừa chạy ra cửa sông vừa sủa vang lên. Ngay lúc đó, bà Uynxton, Đíchsơn và những người da đen đều từ trong hang chạy ra. Mọi người đoán là có chuyện gì lạ. Đíchsơn nói:

- Con Đinhgô đã đánh hơi thấy người hoặc vật lạ.

Tôm nói:

- Nếu là Nego thì nó sủa phải hung dữ hơn như ta thường thấy.

Bà Uynxton nói:

- Thế thì Nego ở đâu?

Bà vừa nói vừa đưa mắt nhìn Đíchsơn và chỉ có chú mới hiểu được cái nhìn đó. Rồi bà nói tiếp:

- Và nếu không phải hắn thì là ai?

Đíchsơn đáp:

- Thưa bà, để xem đã.

Rồi Đíchsơn bảo Ốttanh và Ecquyn:

- Các bạn vũ trang đi rồi ra đây.

Ba người cùng Đíchsơn chạy vào lấy súng và dao găm, nạp đạn xong bốn người đi ra phía sông con. Đến nơi họ thấy Đinhgô đứng chặn và sủa về phía trước. Đúng là nó đã trông hoặc đánh hơi thấy người lạ. Thật vậy, lần này không phải nó sủa Nego – kẻ mà nó căm hờn vô hạn – mà sủa một người đàn ông theo bờ sông đang từ từ tiến lại, lấy tay vời vời để làm dịu con chó. Hắn ta không dại gì lại trêu chọc con chó to lớn và hung dữ như thế.

- Không phải Nego – Ecquyn nói.

- Đây là một người dân địa phương. Gặp người này ta không phải mất công đi thăm dò nữa. Chúng ta sắp biết nơi này là nơi nào rồi – Đíchsơn giải thích.

Cả hai người đeo súng lên vai, rảo bước đón người lạ mặt. Thoạt trông, Đíchsơn biết ngay người đó không phải là người dân da đỏ thường phiêu lưu trên những thảo nguyên, mà là một người ngoại quốc mạo hiểm tìm nơi xa lạ. Coi điệu bộ cứng cỏi, và những sợ râu đỏ của y, Đíchsơn đoán người lạ mặt là người Giecmani. Đíchsơn đã đoán rất đúng. Chú chào trước bằng tiếng Anh:

- Chào ông, ông đến kịp thời, thật là quý hóa!

Người lạ đến bắt tay Đíchsơn và trả lời bằng tiếng Anh rất trôi chảy.

- Chào anh bạn trẻ. Rất hân hạnh được gặp anh.

Mấy người da đen cũng nghiêng đầu chào và không nói gì. Người lạ mặt hỏi Đíchsơn.

- Bạn là người nước Anh à?

Đíchsơn nói:

- Người Mỹ.

- Nam Mỹ à?

- Thưa, Bắc Mỹ.

Lời đáp này làm cho người lạ mặt vui thích. Hắn nắm tay Đíchsơn mạnh hơn và lắc đi lắc lại.

Hắn hỏi Đíchsơn:

- Chú có thể cho tôi biết tại sao mọi người lại ở bờ biển này?

Không đợi Đíchsơn trả lời, tự nhiên hắn bỏ mũ quay đầu ra và nghiêng mình chào bà Uynxton vừa đến. Bà liền trả lời.

- Thưa ông, thuyền chúng tôi bị đắm trên đá ngầm ngoài bờ biển. Chúng tôi muốn hỏi ông đây là chỗ nào?

Người lạ mặt tỏ vẻ ngạc nhiên đáp:

- Là bờ biển Nam Mỹ châu chứ còn nơi nào nữa? Bà còn nghi ngờ sao?

Đíchsơn đáp:

- Thưa ông, vâng. Bão biển làm chúng tôi lạc đường. Tôi muốn hỏi ông chúng tôi hiện ở đâu? Có lẽ là xứ Pêru, tôi nghĩ như thế.

- Không! Không phải! Về phía nam kia. Bạn đang ở bờ biển xứ Bôlivi.

Đíchsơn kêu lên:

- A!

- Bạn đang ở về phía nam xứ Bôlivi giáp ranh giới Chilê.

Đíchsơn trỏ vào mũi đất phía Bắc hỏi:

- Thế cái mũi đất cao kia là mũi đất nào?

Người lạ mặt đáp:

- Tôi không biết tên vì tôi thường qua lại trong xứ thôi, còn miền này là nơi tôi đến thăm lần đầu tiên.

Đíchsơn nói:

- Thưa ông, theo những lời ông vừa nói, tôi kết luận rằng chúng tôi còn cách thành phố Lima khá xa.

- Ôi, thành phố Lima còn xa… ở phía kia… Về phương Bắc.

Thoạt tiên, bà Uynxton có ý nghi ngờ người lạ mặt này do việc Nego lẩn trốn, nên bà để ý quan sát điệu bộ của hắn, nhưng không thấy vẻ gì khả nghi; ngôn ngữ và cử chí của hắn tỏ ra thành thực.

- Thưa ông, xin lỗi ông, câu hỏi của tôi có lẽ hơi khiếm nhã… Trông ông không phải là người Pêru?

- Tôi là người Mỹ như bà. Thưa bà, bà là… - nói xong, hắn ngừng lại đợi bà xưng danh.

Bà đáp:

- Là bà Uynxton.

Hắn nói tiếp:

- Thưa bà Uynxton, tôi tên là Ali, sinh quán ở tiểu bang Nam Carolin. Nhưng đã hai mươi năm nay tôi bỏ quê để chu du trên những thảo nguyên xứ Bôlivi, nay được gặp những bạn đồng hương, tôi rất sung sướng.

Bà Uynxton hỏi:

- Thưa ông Ali, hiện giờ ông ở tỉnh này?

- Thưa bà, không. Tôi ở về phía Nam, nơi biên giới Chile. Nhưng bây giờ tôi định đến thị trấn Atama ở về phía đông bắc.

Đíchsơn hỏi:

- Có phải hiện giờ chúng tôi đang ở cạnh miền đất hoang mang tên đó không?

Ali đáp:

- Đúng thế, bạn ạ. Đất hoang đó lan tới những ngọn núi cao sát chân trời kia.

Đíchsơn hỏi lại:

- Ông nói hoang địa Adacama à?

Ali đáp:

- Phải. Đất hoang đó như một xứ riêng biệt ở châu Nam Mỹ bao la này, một nơi có nhiều cái lạ mà ít người biết đến.

Bà Uynxton hỏi:

- Ông đi du lịch có một mình ư?

Ali đáp:

- Ồ! Không phải là lần đầu tiên tôi đến thị trấn đó. Cách đây chừng hai trăm dặm, có một nông trại rất lớn gọi là Sanphêlich là trại của em trai tôi. Tôi đến đó để buôn bán. Nếu bà và các bạn theo tôi thì bà và các bạn sẽ được tiếp đãi tử tế. Ở thành Ađacama, không thiếu gì phương tiện chuyên chở. Em tôi sẽ vui lòng cung cấp cho quý bạn.

Lời mời tự nhiên đó tỏ ra Ali là người rất sốt sắng. Rồi Ali trỏ vào già Tôm và mấy người da đen rồi hỏi bà Uynxton:

- Những người da đen này là nô lệ của bà?

Bà Uynxton khẳng khái đáp:

- Không phải đâu.

- A! Phải rồi! Tôi quên rằng cuộc chiến tranh 1862 đã giải quyết xong vấn đề nô lệ - Ali nói, rồi quay ra nói với mấy người da đen – Xin lỗi các bạn. Tôi sơ ý.

Đíchsơn suy nghĩ về đề nghị của Ali rủ đến trại Sanphêlich. Một hành trình dài hơn hai trăm dặm, đi qua bình nguyên và đi xuyên rừng. Cuộc hành trình rất vất vả vì thiếu phương tiện chuyên chở. Đíchsơn đem lý do này nói với Ali. Ali đáp:

- Đúng thế, hành trình hơi lâu. Nhưng ở bờ sông cách đây vài trăm bước, tôi có một con ngựa, tôi sẽ dành cho bà Uynxton và cháu bé. Còn chúng ta thì không khó, có lẽ ai cũng đủ sức đi bộ đường trường. Vả lại, tôi nói hai trăm dặm là tính theo đường vòng bờ sông. Nếu ta đi tắt qua rừng thì gần hơn, chỉ độ tám mươi dặm thôi. Mỗi ngày đi mười dặm thì chúng ta sẽ đến trại Sanpêlich không cực nhọc gì.

Bà Uynxton cảm ơn Ali và nói:

- Thưa ông, chúng tôi đồng ý. Nhưng tôi không muốn chiếm con ngựa của ông. Tôi đi bộ đã quen.

Ali nghiêng mình đáp:

- Thưa bà, tôi đi bộ quen hơn.

- Thưa ông Ali, bao giờ ta khởi hành? – Đíchsơn hỏi.

- Ngay hôm nay, bạn ạ. Mùa mưa bắt đầu từ tháng tư. Chúng ta phải cố gắng đến trại trước vụ mưa. Vả lại, đi xuyên rừng nhanh hơn và an toàn hơn. Chúng ta sẽ tránh được những cuộc đụng độ với dân du mục da đỏ.

Đíchsơn quay lại bảo Tôm và các bạn da đen:

- Bây giờ các bạn và tôi, chúng ta sẽ sửa soạn để khởi hành.

Mỗi người một việc, dọn dẹp thức ăn đồ dùng; Đíchsơn chú trọng đến lương thực cần thiết cho đoàn trong cuộc hành trình từ bờ biển đến trại độ chừng mười ngày đường. Bà Uynxton nói với Ali:

- Thưa ông, trước khi rời nơi này, trước khi nhận sự khoản đãi của ông, chúng tôi xin ông vui lòng nhận sự khoản đãi của chúng tôi. Chúng tôi chân thành mời ông.

Ali vui vẻ trả lời:

- Thưa bà, tôi rất vui lòng.

- Thưa ông, bữa ăn sáng đang được sửa soạn, khoảng mười phút nữa thì xong.

- Thưa bà, trong khi chờ đợi, xin phép bà, tôi đi đem ngựa về đây. Chắc nó cũng ăn sáng rồi.

Đíchsơn nói:

- Tôi theo ông có được không?

Ali đáp:

- Bạn đến đó, tôi sẽ chỉ cho bạn xem nơi hạ lưu của con sông.

Hai người đi ngược bờ sông. Chừng ba trăm thước thì thấy một con ngựa buộc vào gốc cây. Con ngựa thấy chủ đến gần thì hí lên những tiếng mừng rỡ.

Ali cởi dây, dắt ngựa ra đi. Đíchsơn đi sau đưa mắt nhìn sông, nhìn rừng mọc sít hai bên bờ. Đíchsơn không thấy gì đáng ngại cả.

Tuy nhiên, khi theo kịp Ali, Đíchsơn hỏi Ali một câu bất ngờ:

- Thưa ông, đêm qua ông có gặp một người Bồ Đào Nha tên là Nego không?

Ali ngỡ ngàng như không hiểu gì về câu hỏi đó nên hỏi lại:

- Nego? Nego là ai?

Đíchsơn đáp:

- Hắn là đầu bếp của thuyền chúng tôi. Và hắn đã mất tích.

- Chết đuối rồi chăng?

- Không, không! Chiều hôm qua hắn hãy còn ở với chúng tôi, nhưng đến đêm hắn bỏ đi và chắc chắn là hắn đi theo lối bờ sông này. Vì ông cũng ở lối đó đi lại nên chúng tôi mới hỏi ông có gặp hắn không?

- Tôi không gặp người nào cả. Nếu người đầu bếp của bạn phiêu lưu một mình trong rừng như thế, hắn dễ bị lạc lắm. Có lẽ khi đi đường, chúng ta sẽ gặp hắn.

- Phải… có lẽ.

Khi hai người về đến hang thì bữa ăn đã được dọn lên. Ali không làm khách và ăn rất khỏe. Ăn xong, Ali nói:

- Bây giờ chúng ta không sợ chết đói giữa đường nữa. Có chết đói chăng, chỉ là tên Bồ Đào Nha quỷ quái mà anh bạn trẻ của tôi vừa nói đến.

Bà Uynxton hỏi Đíchsơn:

- Con đã cho ông Ali biết là chúng ta không thấy Nego trở lại phải không?

Đíchsơn đáp:

- Vâng, con muốn biết ông Ali đi lối đó có gặp hắn không?

Ali đáp:

- Không. Ta hãy để mặc cho tên đào ngũ ở vị trí của nó. Bây giờ hãy tính đến việc đi đã. Có phải không, thưa bà?

Bà Uynxton đồng ý và giục mọi người lên đường.

Ai nấy đều đeo ba lô của mình lên lưng. Ecquyn giúp bà Uynxton lên mình ngựa. Giắc ngồi trước lòng mẹ. Em khoe là mình biết đi ngựa. Người ta liền trao dây cương cho em. Em đàng hoàng cầm cương và không biết rằng chính em là người thật sự dẫn đầu đoàn lữ hành.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx