“ ‘Kỳ lạ thật,’ cha nhận xét, nhưng ở nơi này có điều gì đó, có lẽ là sự lạnh lẽo, khiến con ọ ẹ khóc và vùng vẫy trước ngực mẹ. Nhận thấy mẹ có vẻ mệt nên cha đã đề nghị bồng con lên chỗ không khí thoáng mát bên trên. Cha bước ra khỏi cái hầm đầy âm khí nặng nề đó với cảm giác nhẹ nhõm và đưa con đến nhìn ngắm đài phun ngoài hành lang.
“Cha cứ ngỡ Helen sẽ bước theo ngay, nhưng mẹ cứ nhẩn nha ở dưới khu hầm mộ, và khi xuất hiện trở lại, khuôn mặt mẹ đã thay đổi đến độ cha cảm thấy dậy lên trong lòng một nỗi sợ hãi. Helen trông có vẻ phấn khích - phải, gương mặt sinh động hơn hẳn những tháng vừa qua - nhưng đồng thời cũng xanh xao hơn và đôi mắt mở to, như dự định một điều gì đó mà cha không nhận ra. Cha bước về hướng mẹ và cố làm ra vẻ thản nhiên rồi hỏi dưới đó có gì khác đáng quan tâm không. ‘Có thể,’ Helen trả lời, nhưng như thể mẹ không nghe thấy cha hỏi gì vì trong lòng mẹ đang rộn lên quá nhiều suy nghĩ. Rồi mẹ đột ngột quay sang giằng lấy con từ tay cha, ôm chặt và thiết tha hôn lên đầu lên má con. ‘Con ổn chứ? Nó có sợ không?’
“ ‘Con khỏe mà,’ cha trả lời. ‘Có thể hơi đói một chút.’ Helen ngồi xuống một chiếc ghế dài, lấy ra một bình thức ăn trẻ con và bắt đầu cho con ăn, ngân nga một bài hát ru ngắn mà cha không hiểu - tiếng Hungary hay tiếng Rumani? - trong lúc con bú bình. ‘Chỗ này đẹp quá,’ một lúc sau mẹ nói, giọng nhẹ nhàng. ‘Mình ở lại đây vài hôm, anh nhé.’
“ ‘Chúng ta phải trở về Paris vào tối thứ Năm,’ cha phản đối.
“ ‘Ồ, đâu có gì khác nhau giữa việc qua đêm tại đây và ở dưới thị trấn Les Bain đâu,’ mẹ điềm đạm đáp lại. ‘Ngày mai chúng ta có thể đi bộ xuống và đón xe buýt, nếu anh nghĩ chúng ta cần phải đi sớm.’
“Cha đã đồng ý, bởi mẹ trông có vẻ rất kỳ lạ, nhưng đến tận khi cha đi bàn chuyện đó với vị tu sĩ hướng dẫn cha vẫn cảm thấy phần nào lưỡng lự. Tu sĩ hướng dẫn báo lại với cha bề trên của mình và cha bề trên đã cho phép chúng ta ở lại khu nhà ở tập thể đang còn trống. Khoảng giữa bữa trưa đạm bạc và bữa tối còn đạm bạc hơn lúc họ dọn cho chúng ta trong một phòng cách biệt với nhà bếp, chúng ta lang thang trong những vườn hồng, tản bộ trong vườn cây ăn quả trên triền dốc bên ngoài những bức tường tu viện và ra sau nhà nguyện nghe các tu sĩ ngân nga hát thánh ca trong lúc con ngủ vùi trong lòng mẹ. Một tu sĩ sửa soạn nơi ngủ cho chúng ta: giường xếp cùng chăn mền giản dị sạch sẽ. Sau khi con ngủ say trên một giường, với hai chiếc giường của chúng ta đẩy sát lại hai bên để con khỏi lăn té ra ngoài, cha nằm xuống và vờ như không nhìn qua mẹ. Mẹ con vẫn ngồi ở mép giường, trong bộ váy áo màu đen, nhìn ra bên ngoài về phía bóng đêm. Ơn trời rèm cửa đã buông xuống, nhưng rốt cuộc mẹ cũng đứng dậy, vén rèm lên, đứng nhìn đăm đăm ra bầu trời đêm. ‘Ngoài đó hẳn phải tối lắm nhỉ,’ cha nói, ‘và chẳng có thị trấn nào gần.’
“Helen gật đầu. ‘Tối om om, nhưng ở đây bao giờ cũng vậy, anh không nghĩ thế sao?’
“ ‘Sao em không vào giường ngủ đi?’ cha với tay về phía con và vỗ vỗ lên giường mẹ.
“ ‘Được thôi,’ mẹ đáp, không tỏ dấu hiệu gì phản đối. Thực ra mẹ còn mỉm cười, cúi xuống hôn cha trước khi nằm xuống giường. Cha đã ôm mẹ một lúc, cảm nhận sức lực của đôi bờ vai, làn da cổ mịn màng của mẹ. Rồi mẹ duỗi người, kéo chăn đắp và có vẻ như chìm vào giấc ngủ rất lâu trước khi cha đọc hết chương sách và thổi tắt ngọn đèn lồng.
“Cha tỉnh dậy vào lúc trời hừng sáng, cảm thấy một cơn gió hiu hiu thổi qua phòng. Không gian rất yên tĩnh; con nằm thở đều đều bên cạnh cha, dưới tấm chăn len trẻ con, nhưng giường của Helen trống trơn. Cha yên lặng ngồi dậy, mang giày và áo khoác vào. Dãy hành lang phía ngoài tối lờ mờ, khu sân trong một màu xám xịt, đài phun nước là một khối mờ mờ ảo ảo. Cha chợt nghĩ chắc hẳn còn lâu ánh mặt trời mới chiếu đến nơi này, bởi trước tiên nó phải vượt qua những đỉnh núi khổng lồ ở hướng Đông kia. Cha nhìn quanh tìm mẹ, nhưng không gọi to vì biết mẹ con ưa dậy sớm và có thể đang ngồi suy tư trên một chiếc ghế dài nào đó, chờ bình minh lên. Không có dấu vết gì của mẹ, tuy nhiên, khi bầu trời sáng lên một chút, cha bắt đầu sục sạo nôn nóng hơn, một lần nữa đến chỗ chiếc ghế dài mà chúng ta đã ngồi ngày hôm qua và một lần nữa đến ngôi nhà nguyện im lìm sặc sụa mùi hương khói.
“Cuối cùng, cha cũng bắt đầu lên tiếng gọi mẹ, ban đầu là khe khẽ, sau đó là to hơn, và rồi là hoảng hốt. Một vài phút sau, một tu sĩ xuất hiện từ phòng ăn, chắc hẳn họ đang yên lặng dùng bữa ăn đầu tiên trong ngày ở đó, và hỏi cha liệu ông ta có thể giúp được điều gì không. Cha giải thích là vợ mình đã đi đâu không thấy, ông bắt đầu sục sạo cùng cha. ‘Có lẽ bà nhà đi dạo chăng?’ Nhưng cũng không có dấu vết nào của Helen trong khu vườn cây ăn quả, hoặc khu vực đậu xe, cả trong khu hầm mộ tăm tối cũng không. Khi mặt trời vượt qua đỉnh núi thì chúng ta đã lùng sục khắp mọi nơi, vị tu sĩ kia đã đến gặp một vài tu sĩ khác, một người trong số họ nói sẽ lái xe xuống thị trấn Les Bains để trình báo. Cha khẩn khoản yêu cầu ông ấy mời cảnh sát về theo. Sau đó cha vội trở về trong căn nhà ngủ tập thể vì nghe tiếng con khóc, sợ con lăn ra khỏi giường. Cha nhanh chóng cho con ăn và bồng con trong tay trong khi chúng ta lùng sục mọi nơi một lần nữa.
“Sau cùng, cha yêu cầu tập họp tất cả mọi tu sĩ để hỏi lại. Cha tu viện trưởng bằng lòng và đã gọi mọi người tụ tập trong khu vực hành lang. Không ai nhìn thấy Helen sau khi chúng ta rời khỏi nhà bếp vào tối hôm qua. Mọi người đều tỏ ra lo lắng - ‘La pauvre - Ôi, tội nghiệp cô ấy,’ một tu sĩ buột miệng, câu nói đó bất chợt khiến cha nổi cáu. Cha gặng hỏi, ngày hôm qua liệu có người nào đã nói chuyện với Helen, hoặc chú ý nhận thấy có điều gì bất thường không. ‘Chúng tôi không tiếp chuyện với phụ nữ, đó là quy tắc chung,’ cha tu viện trưởng nhẹ nhàng trả lời.
“Nhưng một tu sĩ bước lên phía trước, cha nhận ra ngay đó là vị tu sĩ già có nhiệm vụ ngồi trong hầm mộ. Trong tâm trạng khá hoang mang cha vẫn chú ý nhận thấy dưới ánh đèn lồng gương mặt ông vẫn nhân hậu và trầm tĩnh như ngày hôm qua. ‘Cô ấy đã dừng lại để hỏi tôi,’ ông ta nói. ‘Tôi không muốn phạm luật, nhưng cô ấy tỏ ra rất điềm tĩnh và lịch thiệp, vì vậy tôi đã trả lời.’
“ ‘Cô ấy hỏi ông điều gì?’ Tim cha vốn đã thình thịch trong lồng ngực bây giờ lại bắt sang một nhịp điệu dồn dập khốn khổ.
“ ‘Cô ấy hỏi ai được chôn ở đấy, tôi đã trả lời đó là một trong các cha tu viện trưởng đầu tiên, và chúng tôi có nghi thức tưởng nhớ đến ông. Cô lại hỏi cha tu viện trưởng đó đã thực hiện được những việc lớn lao nào, tôi đã giải thích là chúng tôi có một truyền thuyết’ - đến đây ông liếc nhìn cha tu viện trưởng, ông này gật đầu để ra hiệu ông ta tiếp tục - ‘chúng tôi có một truyền thuyết kể rằng ông ấy đã sống một cuộc đời thánh thiện nhưng lại bất hạnh vướng phải một lời nguyền sau khi chết, vì vậy đêm nào ông ấy cũng ra khỏi quan tài để hãm hại các tu sĩ khác, và do vậy thi hài ông ấy phải được tẩy uế. Lúc đã được tẩy uế, một bông hồng trắng sẽ mọc lên từ tim ông ấy, tượng trưng cho sự tha thứ của Đức Mẹ Thiêng Liêng.’
“ ‘Và đó là lý do vì sao phải có người ngồi canh chừng ông ấy?’ cha xẵng giọng hỏi.
“Cha tu viện trưởng nhún vai. ‘Đơn giản đó chỉ là truyền thống của chúng tôi, để tưởng nhớ ông ấy.’
“Cha quay sang ông thầy tu già, cố kìm nén cái ước muốn được bóp cổ ông ta và nhìn thấy gương mặt hiền từ kia tái tím đi. ‘Có phải đó là câu chuyện ông kể cho vợ tôi nghe?’
“ ‘Cô ấy hỏi tôi về câu chuyện của chúng tôi. Tôi không thấy có gì sai trái trong việc trả lời các câu hỏi của cô ấy.’
“ ‘Và cô ấy nói gì sau khi ông trả lời?’
“Ông thầy tu già mỉm cười. ‘Cô ấy cảm ơn tôi bằng một giọng rất dịu dàng và hỏi tên tôi, tôi đã xưng mình là Frère Kiril.’ Ông lão trả lời, chắp hai tay ngang thắt lưng.
“Phải mất một lúc cha mới hiểu ý nghĩa của những tiếng đó, cái tên trở nên xa lạ vì cái cách nhấn trọng âm vào âm tiết thứ hai đặc Pháp, vì cái từ vô thưởng vô phạt frère_(1) kia. Cha ôm con chặt hơn như thể sợ làm rơi con xuống. ‘Có phải ông đã nói tên ông là Kiril? Có phải ông đã nói như vậy? Ông có thể đánh vần cái tên đó được chứ?’
“Ông thầy tu ngạc nhiên, miễn cưỡng làm theo yêu cầu của cha.
“ ‘Cái tên này xuất phát từ đâu?’ cha hỏi, không thể giữ cho giọng nói của mình đừng run run. ‘Có phải đó là tên thật của ông? Ông là ai?’
“Cha tu viện trưởng xen vào, có lẽ vì ông thấy vị thầy tu già có vẻ lúng túng thực sự. ‘Đó không phải là tên thật của ông ấy,’ ông ta giải thích. ‘Khi thề nguyện tất cả chúng tôi đều nhận một tên mới. Bao giờ cũng có một người tên là Kiril - luôn như vậy - và một sư huynh mang tên Michel - như Sư huynh này...’
“ ‘Ý ông muốn nói,’ cha hỏi, ôm con còn chặt hơn, ‘có một Sư huynh Kiril trước ông này, và một ông khác trước ông đó nữa?’
“Ồ, đúng vậy,’ cha tu viện trưởng trả lời, rõ ràng cũng bối rối vì sự tra vấn gay gắt của cha. ‘Theo như truyền thống của chúng tôi mà ai cũng biết. Chúng tôi hãnh diện về những truyền thống của mình - chúng tôi không ưa chuộng những lề thói mới.’
“ ‘Vậy thì truyền thống này xuất phát từ đâu?’ cha gần như hét lên.
“ ‘Điều đó thì chúng tôi không biết,’ cha tu viện trưởng trả lời, giọng kiên nhẫn. ‘Từ bao lâu nay ở đây vẫn vậy.’
“Cha bước sát đến, gần như gí sát mũi mình vào mũi ông ta. ‘Tôi muốn ông mở cỗ quan tài đá trong khu hầm mộ ra,’ cha gằn giọng.
“Ông ta lui lại, vẻ kinh hoàng. ‘Anh nói cái gì vậy? Chúng tôi không thể làm việc đó.’
“ ‘Hãy đi với tôi. Đây…’ Cha trao con cho vị tu sĩ trẻ, người đã hướng dẫn chúng ta rảo quanh đây đó ngày hôm qua. ‘Xin giữ hộ con gái tôi.’ Anh ta bồng con, đu đưa con trong tay, không vụng về lúng túng như cha nghĩ. Con bắt đầu khóc. ‘Đi nào,’ cha nói với cha tu viện trưởng. Cha kéo ông ta về hướng khu hầm mộ, ông ra dấu bảo các tu sĩ khác hãy ở yên tại chỗ. Chúng ta nhanh chóng xuống các bậc cấp. Trong cái hầm lạnh lẽo đó, vẫn còn leo lắt hai cây nến do Sư huynh Kiril để lại, cha quay qua ông tu viện trưởng. ‘Ông không phải kể với ai về việc này, nhưng tôi phải nhìn xem bên trong cỗ quan tài đá kia.’ Cha dừng lại để nhấn mạnh. ‘Nếu ông không giúp tôi, bắt buộc tôi phải nhờ đến pháp luật để đối phó với tu viện các ông.’
“Ông ta ném vào cha một cái nhìn - sợ hãi? căm giận? thương hại? - rồi không nói một lời, đi thẳng đến một đầu cỗ quan tài. Chúng ta cùng hợp lực đẩy nắp quan tài qua một bên, vừa đủ rộng để có thể nhìn vào bên trong. Cha đưa cao cây nến. Cỗ quan tài trống rỗng. Cha tu viện trưởng trợn trừng mắt và vội đẩy mạnh nắp hòm trở lại. Chúng ta nhìn nhau. Ông ta có một gương mặt đặc trưng của người Pháp - thanh tú, lanh lợi - mà hẳn cha sẽ rất mến trong một tình huống khác. ‘Xin ông đừng tiết lộ với các sư huynh khác điều này,’ ông ta trầm giọng nói nhỏ, rồi quay người leo lên khỏi hầm mộ.
“Cha bước theo, cố suy nghĩ xem nên làm gì tiếp theo. Cha quyết định sẽ đưa con quay xuống thị trấn Les Bains ngay tức khắc và chắc chắn là cảnh sát đã được báo động. Có thể Helen đã quyết định về Paris trước chúng ta - tại sao, cha chưa thể hình dung được - hoặc thậm chí bay về nhà trước. Cha cảm thấy như bị một cú đấm trời giáng vào mang tai, tim như nghẹn lại trong cuống họng, máu muốn trào ra miệng.
“Khi cha bước vào lại hành lang, ánh mặt trời đã tràn ngập chỗ đài phun, chiếu lấp lánh trên mặt sân lát đá, lũ chim ríu rít líu lo và cha đã biết chuyện gì xảy ra. Cha cố gắng, một cách khó khăn, trong cả giờ đồng hồ để đừng nghĩ đến điều đó, nhưng giờ thì hầu như cha không cần biết cái tin mà hai tu sĩ vừa chạy về hướng cha tu viện trưởng vừa hét toáng lên thông báo ấy nữa. Đó là hai tu sĩ được phân công tìm kiếm khu vực bên ngoài các bức tường tu viện: vườn cây ăn quả, trong vườn rau, khu rừng nhỏ đầy những cây khô, những tảng đá nhô ra ở bên dưới triền dốc đứng. Họ vừa trở về từ dưới đó - một trong hai người trỏ vào rìa hành lang mà hôm qua Helen, con và cha đã ngồi trên một chiếc ghế dài nhìn xuống cái vực sâu thăm thẳm ấy. ‘Thưa cha tu viện trưởng!’ một trong hai người thét lên, tựa như ông ta không thể gọi cha trực tiếp. ‘Cha tu viện trưởng, có máu trên các tảng đá! Ở dưới kia, dưới kia kìa!’
“Không có lời nào có thể tả lại những khoảnh khắc như vậy. Cha chạy đến các rìa hành lang, địu con trên lưng, cảm nhận cái má mượt mà như một cánh hoa của con áp vào cổ mình. Những giọt nước mắt đầu tiên trào dâng trong mắt cha, nóng bỏng và cay đắng hơn bất kỳ những gì mà cha đã từng trải nghiệm. Cha nhìn qua bức tường thấp. Trên một tảng đá nhô ra cách khoảng năm mét phía dưới là một vệt màu đỏ tươi - không lớn, nhưng có thể nhận ra rõ ràng trong ánh nắng ban mai. Dưới đó nữa là cái vực sâu đang há miệng toang hoác, sương mù cuồn cuộn, lũ đại bàng đang bay lượn săn mồi, vách núi đổ xuống hun hút đến tận cùng chân chúng. Cha chạy về phía cổng chính, loạng choạng bước quanh những bức tường phía bên ngoài. Vách đá đó quá dựng đứng, ngay cả nếu không phải bồng con cha cũng không thể an toàn leo xuống chỗ hòn đá nhô ra kia được. Cha chỉ biết đứng nhìn làn sóng mất mát tràn qua không gian thánh thiện ấy, qua buổi ban mai tươi đẹp ấy, ập xuống đầu mình. Rồi nỗi khổ đau chạm đến cha, cháy bỏng như một ngọn lửa mà không một lời nào có thể tả được.
Chú thích:
1. Nguyên văn tiếng Pháp: Sư huynh.
@by txiuqw4