sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Tử thư tây hạ - Tập 1 - Chương 17 phần 1

Chương 17:

Người Đảng Hạng cuối cùng

1

_Cả đêm im lặng, khi Đường Phong tỉnh lại, ngoài cửa sổ đã là một thế giới trắng muốt. Đường Phong giật mình đẩy cửa phòng thì nhìn thấy Hàn Giang và Makarov đang đứng trước khoảnh sân của căn nhà gỗ ngắm nhìn tuyết trắng.

Hàn Giang quay lại nhìn thấy Đường Phong liền hỏi: "Sao rồi? Nghỉ ngơi khỏe chưa?"

Đường Phong thẫn thờ gật gật đầu, coi như trả lời Hàn Giang, nhưng vẻ mặt đầy kinh ngạc: "Thật là quá đẹp! Đây…" -Đường Phong há nửa miệng, ngạc nhiên nhìn chăm chăm về cảnh vật bọc trong tuyết trắng, hồ nước trắng, những rặng núi tuyết trắng, đại tuyết sơn phía xa xa càng thêm trang nghiêm tĩnh mịch…

"Không ngờ nửa đêm tuyết lại rơi nhiều như vậy, đây có lẽ là trận tuyết đầu mùa ở đây năm nay" -Hàn Giang nhìn về phía tuyết sơn xa xa, tự mình lẩm bẩm.

" Đúng vậy! Quả là một trận tuyết to" -Makarov nói.

"Mọi người xem…" -Đường Phong đột nhiên chỉ về ngọn núi tuyết phía xa xa, thốt lên kinh ngạc. Hàn Giang và Makarov nhìn theo hướng ngón tay Đường Phong chỉ: "Mọi người nhìn, nhìn thấy chưa?"

" Nhìn thấy gì ?" -Makarov không hiểu hỏi.

"Tuyết sơn, đỉnh đại tuyết sơn, đỉnh tuyết sơn rút cuộc cũng lộ ra rồi" -Đường Phong phấn khích hét lên kinh ngạc.

Hàn Giang và Makarov gần như cùng lúc cũng đã nhìn thấy, đỉnh núi tuyết vốn luôn bị mây khói bao phủ, không chịu lộ diện, rốt cuộc cũng đã lộ ra diện mạo của nó.

"Hùng vĩ quá, ngọn núi tuyết này tên là gì nhỉ?" -Hàn Giang không thể không thốt ra lời ca ngợi.

"Nó tên là A Ni Mã Khanh!" -Phía sau lưng mọi người bỗng nhiên vang lên giọng nói dịu dàng của Hắc Vân. Mọi người quay đầu lại nhìn thì thấy Hắc Vân đang chầm chậm bước tới. Đường Phong càng thêm kinh ngạc: "Cô nói ngọn núi tuyêt này tên là gì cơ?"

"A Ni Mã Khanh.!" -Hắc Vân nhắc lại lần nữa.

"A Ni Mã Khanh? Cô nói là A Ni Mã Khanh! Ở đây có thể nhìn thấy núi tuyết A Ni Mã Khanh? Thật là không thể tưởng tượng được!" -Đường Phong lập tức nghĩ ngay tới núi tuyết A Ni Mã Khanh ở mãi tận trong lãnh thổ Thanh Hải.

Hắc Vân thấy vẻ kinh ngạc của Đường Phong liền cười hinh híc đáp: "Tuy ở đây anh có thể nhìn thấy núi tuyết A Ni Mã Khanh, nhưng thật ra núi tuyết cách đây rất rất xa" -Hắc Vân dừng lại một lúc rồi tự thốt lên: "Đây là một ngọn núi thần, mỗi khi có ai nhìn thấy ngọn núi tuyết này thì sẽ bị sự thanh khiết, diễm lệ của nó chinh phục. Theo như những người cao tuổi nói lại thì, người nào có thể nhìn thấy toàn bộ diện mạo của A Ni Mã Khanh, họ sẽ hạnh phúc một đời, vận may sẽ thường ở bên người đó. Vậy nên những người thành kính thường đứng đó rất lâu, chờ đợi mây khói tản đi, hy vọng có thể nhìn được dung mạo thật sự của A Ni Mã Khanh. Vậy mà, mọi người đều hết lần này đến lần khác thất vọng, bởi vì A Ni Mã Khanh giống như một thiếu nữ tính khí đỏng đảnh, những lúc tức giận đều trốn nấp trong mây khói..."

"Nói như vậy thì chúng tôi may mắn quá rồi!" – Đường Phong ngắt lời Hắc Vân.

"Đúng vậy, các anh rất may mắn, vừa mới tới đây mà đã có thể nhìn thấy diện mạo thật sự của A Ni Mã Khanh" –Hắc Vân gật gật đầu đáp.

"May mắn? Khà khà, kể từ sau khi tôi bị cuốn vào sự việc này, cái từ may mắn đã rời bỏ tôi ra đi rồi; gặp phải trận tuyết to thế này, tôi thấy chỉ khiến chúng ta càng thêm đen đủi." -Makarov vốn im lặng hồi lâu giờ đã cất lời.

"Ý ông nói tuyết lớn phong tỏa núi, chúng ta càng không dễ để ra ngoài đúng không?" -Đường Phong nghi hoặc nhìn Makarov.

Makarov nặng nề gật gật đầu, lòng Đường Phong và Hàn Giang cũng trĩu nặng.

Ba người quay vào trong căn nhà gỗ. Khi đi qua cửa gian Phật đường, Đường Phong phát hiện, cửa chính Phật đường vẫn đang đóng im ỉm, Đại Lạt ma đâu? Ông ấy còn ở trong đó không? Đường Phong trong lòng đầy nghi ngờ cố ăn hết bữa sáng mà Hắc Vân chuẩn bị cho họ, sau đó đến phòng của Lương Viện. Thuốc mà Đại Lạt ma hôm qua cho Lương Viện uống quả nhiên công hiệu, cô đã hết sốt, chỉ có điều là vẫn hôn mê bất tỉnh.

Đường Phong ở lại phòng Lương Viện, đợi cô gái tỉnh dậy. Nhưng anh chưa đợi được Lương Viện tỉnh lại thì đã nhận được lời triệu lên của Đại Lạt ma. Đường Phong thấp thỏm bất an đi theo Hắc Vân, rồi lại đi vào gian Phật đường bí ẩn đó. Trước gian thờ Phật, Đại Lạt ma vẫn ngồi khoanh chân như cũ, nhắm mắt tịnh tâm, phía bên kia, Hàn Giang và Makarov đã ngồi đó chờ đợi khá lâu rồi.

2

_Đợi Đường Phong ngồi yên vị, Đại Lạt ma đột nhiên mở mắt, đôi mắt như hai ngọn đuốc, uy nghiêm nhìn khắp một lượt những người trong lễ đường. Sau đó ông lại cụp mắt xuống, xoay tràng hạt xương người, đọc một đoạn kinh văn, Đường Phong, Hàn Giang và Makarov nghi hoặc nhìn nhau, không biết Đại Lạt ma sẽ làm gì ngay sau đây?

Đọc xong một đoạn kinh văn, Đại Lạt ma cuối cùng cũng mở miệng hỏi: "Các vị, có thể nói cho ta biết sự việc đêm qua không?"

"Cái gì?" "Sự việc đêm qua?" -Trong lòng Đường Phong, Hàn Giang và Makarov đều kinh ngạc. Đại Lạt ma ám chỉ việc ba người tranh giành kệ tranh ngọc trên vách núi đêm qua sao? Nhưng... nhưng ông luôn ở trong, Phật đường đóng kín này thì sao lại biết về việc trên vách núi đó được?

Đường Phong định thần lại, thử hỏi thăm dò: Việc đêm qua? Đêm qua xảy ra chuyện gì vậy? Tôi ngủ một mạch rất ngon mà".

"Chàng thanh niên, lẽ nào còn cần tôi phải nhắc nhở cậu sao? Cậu phải biết rằng, ở đây, nhất cử nhất động của các cậu đều không lọt qua được mắt tôi đâu, đêm qua, trên vách núi...

"Đúng! Tôi thừa nhận, đêm qua trên vách núi chúng tôi có xảy ra một chút hiểu lầm nho nhỏ, nhưng hiện giờ chúng tôi đều đã giải quyết xong rồi" -Đường Phong Đại Lạt ma đã biết chuyện đêm qua, nên không đợi Lạt ma nói xong liền cướp lời.

"Ba người các cậu không phải cùng một đường" – giọng Đại Lạt ma sang sảng.

"Không sai, chúng tôi vốn không phải cùng một đường, nhưng hiện giờ chúng tôi đều đang bị người ta truy sát, thế nên.."

"Nói chính xác hơn, các người cùng vì một mục đích nên mới đi cùng nhau" -giờ thì đến lượt Đại Lạt ma ngắt lời Đường Phong.

Ba người lại giật thót tim, Đường Phong nghĩ trong bụng: xem ra Đại Lạt ma đã nhìn thấu mọi chuyện, không cần thiết phải tiếp tục che giấu nữa, ngược lại còn khiến Đại Lạt ma nghi ngờ trong lòng, sẽ bất lợi cho mình. Nghĩ tới đây, anh nhìn Hàn Giang, Hàn Giang gật gật đầu với anh, vậy là Đường Phong nói với Đại Lạt ma: "Không sai, chúng tôi cùng một mục đích, đến đây là vì một báu vật của vương triều Tây Hạ!"

Khi Đại Lạt ma nghe thấy hai từ "Tây Hạ", lông mày ông khẽ động đậy. Đây là một cử động rất nhẹ nhưng đã bị Đường Phong nhìn thấy, tức khắc, anh gần như có thể đoán đinh, Đại Lạt ma chắc chắn biết chút gì đó ? Và những gì Đại Lạt ma biết nhất định là thứ mà họ hứng thú.

Đường Phong tiếp tục nói: "Đó là một báu vật đến từ vương triều Tây Hạ một nghìn năm trước, kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu…"

Đường Phong nói tới đây, Đại Lạt ma lại lần nữa mở to đôi mắt như hai ngọn đuốc, nhìn thẳng vào con ngươi của

Đường Phong, khiến Đường Phong sợ tới nỗi nuốt lời lại.

" Kệ tranh ngọc Tây Hạ ? Nói như vậy thì các người bị truy sát cũng không có gì lạ. Nếu như tôi nói không sai, thì trong ba lô của các người có một tấm kệ tranh ngọc phải không" -Đại lạt ma vẫn nhìn Đường Phong chằm chằm như thế.

Đường Phong bất giác gật đầu, nói: "Đúng vậy, trong tay chúng tôi có một tấm".

"Các người còn muốn đoạt được mấy tấm còn lại ?" -Đại Lạt ma nói một câu trúng phóc, khiến ba người kinh ngạc tới nỗi không thốt nên lời.

Đại Lạt ma lại nói tiếp: "Để ta nói, tấm kệ tranh ngọc mà các người có trong tay chính là tấm mà Kozlov đào được tai cổ thành Hắc Thủy. Trong bốn tấm kệ tranh ngọc thì chỉ có kệ tranh đó là có khả năng bị các người đoạt được".

"Sao ông lại biết?" -Đường Phong ngạc nhiên hỏi,

"Bởi vì chỉ có kệ tranh đó mới từng xuất hiện trên thế giới".

"Nói như vậy thì ba tấm kệ tranh còn lại chưa từng rời khỏi vị trí mà chúng vốn được cất giấu ở đấy?" – Đường Phong tò mò hỏi.

"Không! Theo như tôi biết, còn có một tấm đã rời khỏi vị trí vốn cất giấu nó".

"Ồ! Là tấm nào vậy?" -Hàn Giang truy hỏi.

"Cụ thể là tấm nào tôi không !" -Đại Lạt ma nói tới đây, dừng lại một lúc, nhìn mọi người trong phòng một lượt, sau đó mới hạ giọng xuống nói: "Các người đã từng nghe tới Hắc Lạt ma chưa?"

"Hắc Lạt ma? Hắc Lạt ma nào ? Lạt ma của các ông còn phân thành Hắc Lạt ma và Bạch Lạt ma ư?" -Hàn Giang lắc đầu mụ mị nhìn Đại Lạt ma.

"Ý ông nói về Hắc Lạt ma, thủ lĩnh thổ phỉ từng uy danh thiên hạ vùng đại sa mạc Tây Bắc những năm 20,30 thế kỷ trước?" -Với học thức uyên bác của mình, Đường Phong đột nhiên nhớ lại Hắc Lạt ma được nhắc đến trong truyền

thuyết cuộc thám hiểm miền tây của Marc Aurel Stein, Sven Anders Hedin... mà mình đã từng đọc.

"Không sai, người mà tôi nói chính là Hắc Lạt ma này. Nghe nói, vào những năm 20, 30 của thế kỷ trước. Tiếp theo nhà thám hiểm người Nga Kozlov sau khi phát hiện ra một kệ tranh ngọc tại thành cổ Hắc Thủy, lại có người phát hiện ra một tấm kệ tranh ngọc khác. Tấm kệ tranh ngọc đó được phát hiện ở đâu, phát hiện như thế nào, tình hình cụ thể hiện giờ vẫn chưa được khám phá, nhưng có truyền thuyết nói rằng, sau này kệ tranh ngọc đó đã rơi vào tay Hắc Lạt ma".

"Rơi vào tay Hắc Lạt ma? Với thực lực của Hắc Lạt ma lúc đó, hoàn toàn có khả năng này? Nhưng, tôi còn nhớ, do luôn đối kháng với chính quyền ngoại Mông nên sau này Hắc Lạt ma đã bị chính quyền ngoại Mông và nhân viên đặc công được Liên Xô phái tới, đánh chết rồi. Nếu như trong tay HắC Lạt ma có tấm kệ tranh ngọc, vậy sau khi Hắc Lạt ma chết thì kệ tranh ngọc trong tay ông đi đâu mất?"

"Kệ tranh ngọc đó đi đâu mất không ai biết. Người thì nói nó bị thuộc hạ của Hắc Lạt ma lấy đi, cũng có người nói nó bị đặc công Liên Xô đoạt lấy, còn có người nói, kệ tranh ngọc đó đã bị Hắc Lạt ma cất giấu ở một nơi mà không ai

biết, vì nơi cất giấu báu vật đó chỉ có một mình ông ta biết mà thôi. Sau khi ông ta chết đột ngột thì cũng không còn ai có thể biết được tung tích của kệ tranh ngọc đó nữa".

"Nhưng có người cho rằng Hắc Lạt ma đó chưa chết, người mà bị chính quyền ngoại Mông đánh chết vốn không phải là Hắc Lạt ma thật, mà chỉ là thế thân của ông ta" -Đường Phong tiếp tục hỏi.

"Đúng vậy, hành động đột kích Hắc Lạt ma lần đó của chính quyền ngoại Mông tuy rất thành công, nhưng nhiều người vẫn tin rằng Hắc Lạt ma chưa chết, mà người bị đánh chết chỉ là một người thế thân. Nếu đúng như thế, vậy thì, rất có khả năng Hắc Lạt ma đã đem theo kệ tranh ngọc cao chạy xa bay, vĩnh viễn biến mất rồi. Tóm lại, kể từ tử thư Tầy đó trở đi, mọi tin tức và truyền thuyết của kệ tranh ngọc này đều chấm dứt tại đó".

"Thật không ngờ lại phức tạp như vậy. Nhưng, điều mà tôi càng hứng thú hơn là, ông, một người xuất gia sao lại hiểu biết nhiều như vậy?" -Hàn Giang đổi chủ đề câu chuyện, đột nhiên hỏi.

Đại Lạt ma bị Hàn Giang đột ngột hỏi vậy, sau chút sững sờ liền cười lớn, đáp: "Được rồi, đã nói đến đây rồi, vậy thì chúng ta hôm nay cũng không cần phải che giấu và sẽ nói hết ngọn nguồn đầu đuôi câu chuyện".

3

_Đại Lạt ma buông tràng hạt xương người trên tay xuống, thở dài, quay lại hỏi mọi người: "Trước khi tôi kể lại ngọn nguồn đầu đuôi toàn bộ câu truyện, tôi muốn hỏi các anh trước đã, các anh có biết những người chúng tôi là người gì không?"

"Người gì?" -Đường Phong giật mình nhìn Đại Lạt ma, không hiểu ý của ông.

"Các ông là người dân tộc Tạng -Hàn Giang suy đoán.

Đại Lạt ma lắc lắc đầu.

"Người dân tộc Khương?" -Makarov cũng suy đoán.

Đại Lạt ma vẫn lắc lắc đầu.

"Dân tộc Mông Cổ..." -Hàn Giang càng đoán càng thiếu tự tin.

Đại Lạt ma bật cười. Ông cười vang, sau đó chậm rãi nói:

" Thật ra, tiểu huynh đệ của các anh đã đoán gần đúng rồi"-nói xong, Đại Lạt ma khẽ chỉ Đường Phong.

Đường Phong ngạc nhiên đến nỗi không khép được miệng, ấp úng thốt ra: "Các ông là người Đảng Hạng?"

Đúng, người Đảng Hạng cuối cùng!" -Đại Lạt ma trả lời rất nghiêm túc.

"Không! Thế này thì quá ly kỳ, dân tộc Đảng Hạng đã mất từ lâu rồi mà, tuy tôi có nhận ra tập tục của các ông, nhưng bất luận thế nào đi chăng nữa cũng không dám tin, các ông hóa ra... hóa ra là người Đảng Hạng?" -Đường Phong không thể tin đây là sự thật.

"Chúng tôi chính là người Đảng Hạng di dân tới đây sau khi Tây Hạ bị diệt vong tám trăm năm trước, người Đảng hạng cuối cùng. Là hậu duệ của người Đảng Hạng, tôi nghĩ tôi có quyền mời các anh đưa kệ tranh ngọc ra đây để tôi được tận mắt nhìn thấy diện mạo của nó" -lời nói của Đại Lạt ma vô cùng khảng khái.

Đôi tay của Đường Phong giống như không còn thuộc về bản thân anh vậy. Mất tự chủ, anh lôi kệ tranh ngọc từ trong ba lô ra, cung kính đặt lên tấm phản trước mặt Đại Lạt ma. Hàn Giang nhìn ra, đôi tay Đại Lạt ma khi bưng kệ tranh ngọc lên khẽ run rẩy, ông cẩn thận tỉ mẩn nhìn ngắm hồi lâu, rồi lại rón rén đặt kệ tranh ngọc xuống phản. Thông qua nàng loạt động tác của Đại Lạt ma, Hàn Giang chẳng mấy chốc đã phán đoán ra, chắc là Đại Lạt ma cũng chưa từng nhìn thấy kệ tranh ngọc, ít nhất cũng chưa từng nhìn thấy kệ tranh ngọc này.

Đại Lạt ma đặt kệ tranh ngọc xuống, thở dài một cái, tiếp tục nói: "Tôi đã sớm đoán được, cái ngày này nhất định sẽ đến trong cuộc đời, sau đây tôi sẽ nói về lịch sử của kệ tranh ngọc này. Tất cả những điều này đều phải bắt đầu kể về lịch sử của dân tộc Đảng Hạng chúng tôi. Người Đảng hạng chúng tôi đúng như những gì các anh đã biết, khởi nguồn từ khúc đầu sông Hoàng Hà, trong rừng rậm thảo nguyên ven sông Bạch Hà. Sau đó, người Đảng Hạng đã không chống lại được sự tấn công của người Thổ Phiên nên đã chọn lựa chọn con đường di dân khó nhọc. Tổ tiên của chúng tôi đã vượt núi tuyết sơn A Ni Mã Khanh thánh khiết, hướng về phía bắc, đi mãi cho tới tận bình nguyên Ninh Hạ mới dừng chân, rồi dần dần định cứ tại đây. Sau đó, dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh vĩ đại của dân tộc chúng tôi, thủ lĩnh Hạo Vương Suất, cũng chính là Nguyên Hạo mà các anh vốn đã biết tới, trải qua mấy đời đổ máu và hy sinh, cuối cùng đã xây dựng nên Bạch Cao Đại Hạ Quốc, uy chấn sa mạc phương bắc, cũng chính là Tây Hạ mà các anh thường nói".

"Chúng tôi đều đã biết về những lịch sử này, ông hãy kể thẳng về kệ tranh ngọc này đi" -Hàn Giang có vẻ sốt ruột.

Đại Lạt ma căn bản khỏng bận tâm tới lời Hàn Giang, vẫn kể lần lượt theo trình tự: "Tổ tiên của chúng tôi sinh sống giữa rất nhiều những bộ lạc dân tộc khác, tin thờ sói là phép tắc của những dân tộc sinh sống trên thảo nguyên và sa mạc; kẻ mạnh nuốt kẻ yếu, nếu anh không lớn mạnh thì sẽ bị người khác nuốt chửng. Vậy là, trong cuộc tranh đấu với các bộ lạc và các dân tộc khác, người Đảng Hạng đã hình thành nên tục tính anh dũng thiện chiến. Người Đảng Hạng nếu kết thù với ai, thì bắt buộc phải giết kẻ địch trả thù, nếu không thì sẽ không còn mặt mũi nào sống trên thế gian này nữa. Nhưng cũng chính vì người Đảng Hạng anh dũng thiện chiến nên đã khiến cho người Đảng Hạng luôn ở trong tình trạng rời rạc, không thống nhất, bị người ta lợi dụng, tự thảm sát lần nhau. Là Hạo Vương! Là Hạo Vương Suất đã lãnh đạo dũng sĩ Đảng Hạng chinh chiến tứ phương, không có đối thủ; dùng máu tươi để gắn kết người Đảng Hạng anh dũng thiện chiến lại với nhau, khiến người Đảng Hạng trở thành một dân tộc, một quả đấm đầy sức mạnh.

Người Đảng Hạng tác chiến, thường là toàn dân hòa cùng binh lính, chính một đội quân như vậy đã khiến cho Hạo Vương đánh bại quân Tống tại trận Hảo Thủy Xuyên và Tam Xuyên Khẩu, rồi lại đánh lui quân Khiết Đan tại Địạ Cân Trạch. Uy danh đại chấn, khiến cho Tống – Liêu không dám coi thường Tây Hạ, nhưng đồng thời, do nhiều năm chinh chiến nên sức lực của đất nước Tây Hạ cũng hao tổn rất lớn. Vì vậy mà trong những năm cuối đời, Hạo Vương đã cải biến quốc sách, chấm dứt chiến tranh, nghỉ ngơi an dưỡng, tôn sùng Phật giáo. Bên cạnh đó, Hạo Vương đã lợi dụng việc nắm giữ sự lưu thông của con đường tơ lụa nên đã áp dụng sưu cao thuế nặng với những thương gia qua lại trên con đường đó. Hàng loạt những chính sách này, đã khiến cho Tây Hạ trong những năm cuối thời Vương Hạo cai trị trở nên giàu có sung túc, ngọc ngà châu báu khắp nơi đều hội tụ về đây. Người Đảng Hạng sau khi giàu có sung túc, đặc biệt là những công thần lập công lớn trong chiến tr ận, đã dần dần bắt đầu ham thú hưởng lạc, sự anh dũng thiện chiến ngày nào đã bị thay thế bằng thói ngạo mạn, xa xỉ, dâm loạn trác táng".

"Đúngvậy! Tất cả những dân tộc dũng mãnh quật khởi từ thảo nguyên, sa mạc, sau khi gây dựng giang sơn tại trung nguyên phía nam, đều đã mất đi sói tính anh dũng thiện chiến trong con người họ. Đây cũng chính là nguyên nhân tại sao các đế quốc đã từng huy hoàng lại đến và đi vội vàng như vậy." -Đường Phong không khỏi xót xa.

4

_Đại Lạt ma mỉm cười gật đầu, dùng ánh mắt tán thưởng nhìn Đường Phong: "Không sai, đến cả con người của quân đội như Hạo Vương trong những năm cuối đời cũng bắt đầu trở nên ngạo mạn xa xỉ, và chính sự ngạo mạn xa xỉ của ông cũng là gốc rễ để ông bị chôn vùi trong trận bộc phát chính biến triều đình, sự cố đã cướp đi sinh mạng của ông những năm cuối đời. Nhưng Hạo Vương rút cuộc vẫn là Hạo Vương, theo như truyền thuyết mà đời đời tổ tiên của chúng tôi truyền lại, thì trong vài năm cuối cùng của đời mình, Hạo Vương hình như có dự cảm không lành, nhưng ông đã không còn sức để cải biến triệt để những quý tộc Đảng Hạng ngạo mạn xa xỉ đó. Vì sự lâu dài và yên ổn của vương triều, ông đã âm thầm sai đại cận thần Một Tạng Ngoa Bàng báo cáo rằng biên giới tây bắc có chiến sự, sau đó, Hạo Vương liền phái một viên đại tướng dẫn theo hàng vạn hùng binh được tuyển Thứ chọn kĩ lưỡng, khởi hành về phía tây bắc. Nhưng đội quân người ngựa này, ngoài những võ sỹ dũng mãnh thiện chiến ra, còn có cả một đoàn thợ từ tứ phương tập hợp lại cùng với rất nhiều gia quyến của tướng sỹ".

"Biên giới tây bắc có chiến tranh sao ? Theo như tôi biết lúcHạo Vương còn trị vì, phía tây bắc của Tây Hạ tương đối ổn định, chưa từng nghe thấy có chiến tranh gì mà! Lúc đó, kẻ địch chủ yếu của Tây Hạ là Khiết Đan ở phía đông bắc, triều Tống ở phía đông nam, Thổ Phiên ở phía tây nam và Hồi Cốt ở phía tây, có thể coi là tứ trận bủa vây, nhưng rõ ràng là phía tây bắc không có kẻ địch nào cả" -Đường Phong nghi ngờ nói.

"Chàng thanh niên, đừng quên rằng tại sao Tây Hạ lại vong quốc?" -Đại Lạt ma hỏi lại Đường Phong.

Đường Phong nghe thấy vậy, suy nghĩ một lúc, bỗng ngạc nhiên tới nỗi mắt trố ra, mồm há hốc: "Ý ông là... ý ông là người Mông Cổ. Tây Hạ cuối cùng là bị người Mông cổ đến từ tây bắc đánh bại! Nhưng... nhưng sao lại như vậy được, thời Hạo Vương đó, trên thảo nguyên Mông Cổ vẫn chưa thống nhất, liên kết về một mối, cơ bản không có lực lượng để tấn công Tây Hạ, sao Hạo Vương lại có thể dự đoán việc của hơn một trăm năm sau được... Lẽ nào Hạo Vương có thể tiên đoán được trước tương lai ?

Đại Lạt ma lắc lắc đầu: "Tình hình cụ thể tôi cũng không biết hết, tóm lại, câu chuyện truyền thuyết mà đời đời tổ tiên của chúng tôi truyền lại là như vậy. Lúc đó rất nhiều người đều cảm thấy kỳ lạ, vậy là có đủ loại truyền thuyết. Nghe nói, lúc đội người ngựa ra đi đã bí mật mang theo rất nhiều hòm lớn. Nhiều người cho rằng bên trong những chiếc hòm lớn đó đều đựng của cải của Hạo Vương. Đội người ngựa và đó cũng không phải là đi đánh trận mà là thay Hạo Vương bí mật xây dựng một thành phố mới tại một ốc đảo tít sâu trong sa mạc, trong thành phố này cất giấu châu báu của Hạo Vương. Đội người và ngựa đó sau này cũng không quay lại, họ đi đâu? Không ai biết, nhưng truyền thuyết này thì được lưu truyền mãi về sau".

"Vậy kệ tranh ngọc thì sao?" -Hàn Giang sốt ruột hỏi

"Kệ tranh ngọc nghe nói là có bốn tấm. Năm đó, khi Hạo Vương nảy ra ý nghĩ kỳ lạ đó, vừa vặn lãnh thổ phía tây tiến tặng ông một tảng đá ngọc Hòa Điền to lớn, nguyên vẹn. Vậy là Hạo Vương hạ lệnh, mời thợ ngọc đệ nhất thiên hạ tới chế tác bốn kệ tranh ngọc. Đằng sau kệ tranh ngọc khắc lên một bản đồ hướng tới ốc đảo sa mạc -thành trì bí mật Hạn Hải, và chỉ khi nào bốn kệ tranh ngọc ghép lại với nhau thì mới có thể nhìn thấy toàn bộ diện mạo của bản đồ.

Sau đó, trên mặt chính của mỗi kệ tranh ngọc, Hạo Vương đều ra lệnh khắc lên bốn mươi bốn chữ, cũng chính là phần chữ trên mặt chính của kệ tranh ngọc mà các anh có trong tay. Bốn mươi bốn chữ này tiết lộ ra một tin tức quan trọng, đó là: Hạo Vương đề phòng con cháu gặp nạn nên đã chuẩn bị trước một lượng của cải đáng để kinh ngạc, cất giấu ở mật

thành trong sa mạc. Ngoài ra, còn có một đội quân dũng mãnh thiện chiến canh giữ ở đó".

"Hạo Vương đã chôn giấu kho báu trong một thành trì bí mật, cái này thì dễ hiểu, nhưng một đội quân canh giữ ở đó, câu này thì tôi không sao có thể hiểu được!" -Đường phong hỏi.

"Cái này thì chỉ có ông trời mới biết được" -Đại Lạt ma bó tay than thở, nhưng lập tức lại nói với Đường Phong: "Nhưng, có một điều ta có thể khẳng định: văn tự Đảng hạng khắc trên mặt chính kệ tranh ngọc của các anh chắc chắn không phải là do Hạo Vương khắc lên năm nào".

"Cái gì? Ý ông là... kệ tranh ngọc này là đồ giả?" – Đường Phong ngạc nhiên đến nỗi trợn tròn mắt.

5

_Đại Lạt ma lắc lắc đầu, chậm rãi nói: "Ý ta không phải vậỵ. Kệ tranh ngọc này là thật hay là giả, ta cũng không thể đoán định, bởi vì ta cũng chưa từng nhìn thấy kệ tranh ngọc thật sự. Ta nói văn tự Đảng Hạng trên kệ tranh ngọc này không phải là của Hạo Vương khắc ban đầu; là vì khi Hạo Vương hạ lệnh khắc lên bốn kệ tranh ngọc, ông ta vốn không hề đem chúng đi cất giấu tại bốn nơi khác nhau, mà luôn cất giữ chúng trong cung. Bởi vậy đương nhiên ông cũng không thể khắc tên nơi cất giấu của từng kệ tranh ngọc lên bề mặt của chúng. Còn một điều nữa, văn tự mà ban đầu Hạo Vương khắc cũng không phải là văn tự Đảng Hạng, mà là Hán tự".

"Hán tự? Theo như ông thấy, phần chữ to hơn là văn tự Đảng Hạng trên kệ tranh ngọc rút cuộc nói lên điều gì? Có giống với phán đoán của chúng tôi, nói rõ nơi cất giấu của kệ tranh ngọc thứ hai ?" -Hàn Giang đứng bên cạnh xen vào.

Đại Lạt ma bưng kệ tranh ngọc lên, ngắm nghía hồi lâu, gật đầu nói: "Quan điểm của ta cũng giống như các cậu. Nếu như ta đoán không sai, trên mỗi kệ tranh ngọc đều lần lượt khắc tên vị trí cất giấu của kệ tranh ngọc tiếp theo. Kệ

tranh ngọc trong tay các cậu chắc là kệ đầu tiên trong số bốn kệ tranh ngọc, phần văn tự trên mặt chính của nó tiết lộ vị trí cất giấu của kệ tranh ngọc thứ hai. Từ đó suy đoán, kệ tranh ngọc thứ hai chắc chắn có khắc tên vị trí cất giấu của kệ tranh ngọc thứ ba, chắc là như vậy".

"Vậy theo như ý ông nói thì văn tự trên kệ tranh ngọc này được khắc vào thời nào và do ai khắc?" -Đường Phong tiếp tục hỏi.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx