sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Tuổi thơ dữ dội (Tập 2) - Phần VII - Chương 13 - 14 - 15

13.

Ba ngày sau, các đội viên Thiếu niên Trinh sát công tác ở đồng bằng được triệu tập về chiến khu làm lễ truy điệu Quỳnh và nghe phổ biến nhiệm vụ mới của Đội.

Trước ngực áo rách vá của các em đều đính một miếng băng vải đen. Có được mảnh băng tang này là do công lao của Tư-dát. Nó ra chơi quán cắt tóc của ông Đỡm, ngồi kể lại cái chết của bạn, mụ Tào đang bán quán đằng trước cũng bỏ quán chạy qua nghe. Nó kể thế nào không biết mà mụ Tào bưng mặt khóc như chính con mụ chết. Tư-dát nói: "Mệ ơi, tụi cháu muốn để tang cho hắn mà không tìm mô ra vải đen. Mệ có miếng vải mô còn mới và sạch, cho tụi cháu một miếng làm băng tang". Mụ lột luôn cái khăn vải đen đang chít trên đầu chặm chặm nước mắt, rồi đưa cho nó, mếu máo nói: "Cháu cầm về cắt ra mà chia nhau".

Tư-dát lấy kéo cắt mười tám mảnh đều nhau, phát cho từng bạn trong đội, và một mảnh to gấp đôi dành cho đội trưởng. Còn lại chừng một phần ba cái khăn em đưa cho Mừng giữ.

- Mi nhớ cất cho kỹ, để khi mô đến lượt mi tao khỏi mất công đi xin.

Tư-dát nói chơi mà Mừng cứ tưởng thật, em ngó tấm vải đen nói:

- Nhưng nhỏ ri e sợ không đủ…

Tư-dát cười, miệng méo xệch:

- Không đủ thì bốc thăm. May nhờ rủi chịu…

Cái chết của Quỳnh-sơn-ca đã gây một chấn động thật sâu sắc thật dữ dội, trong lòng các đội viên Thiếu niên Trinh sát - có lẽ còn sâu sắc và dữ dội hơn cả cái chết của Vịnh-sưa.

Các em hỏi các chị y tá tại sao Quỳnh lại có thể chết đột ngột như thế. Các chị nói: "Em Quỳnh đang trong tình trạng sức khỏe hết sức mỏng manh, vì sốt rét và vết thương cũ ở bàn chân tái phát, tàn phá cơ thể vốn đã suy nhược của em. Gần đây bác sĩ còn phát hiện em có nhiều triệu chứng suy tim - em lại có một tâm hồn hết sức nhạy cảm. Một cơn sốc tình cảm quá căng thẳng, quá mãnh liệt, làm em vỡ tim. Máu ứa ra miệng em là máu tràn ra từ trái tim bị rạn vỡ, như nước sôi tràn ra cái cốc thuỷ tinh bị nứt".

Tư-dát quệt nước mắt nói với các bạn: "Hắn chết làm tao nhớ đến con chim chiền chiện bị tao ném chết ở dốc đồi gần đồn Sơn Quả dạo nọ… Bữa đó đang đi trinh sát, tao thấy con chiền chiện nhảy nhảy trên đất. Tao ngứa tay, lượm hòn đá ném chơi không ngờ lại trúng? Rứa là con chim bay vọt từ đất thẳng lên giữa trời như cái pháo thăng thiên. Từ giữa trời nó hót lên một tràng dài hay đến nỗi tao nghe phải nổi da gà. Rồi nó rớt thẳng đứng từ trên trời xuống đất, nằm chết ngay trước mặt tao. Tao lượm lên coi, thấy hai mép nó rỉ máu tươi. Lúc đó tao cứ nghĩ là tao ném trúng đầu nên mép nó mới chảy máu. Chừ thì tao tin là nó bị vỡ tim như thằng Quỳnh".

Mừng mắt đỏ hoe, hỏi:

- Nhưng con chim chết là tại anh ném đá, Quỳnh có ai ném chi mô và vỡ tim?

- Cả đời mi không khi mô cho hết hỏi những câu ngơ ngơ. Thì cha hắn ném chứ còn ai nữa? Cha đại Việt gian ném con Vệ Quốc Đoàn, cú ấy mới nặng? Mà có phải ném gạch ném đá mô? Cha hắn ném ô tô, ném nhà lầu, ném đàn dương cầm, ném cả nước Thuỵ Sĩ vô hắn, làm chi hắn chẳng vỡ tim mà chết! "

Trong đội chỉ có đội trưởng và Mừng là được chứng kiến cảnh Quỳnh chết. Các bạn bắt Mừng phải kể lại đầu đuôì.

Nhưng em kể chuyện dở hết chỗ nói, cứ lặp đi lặp lại: "Quỳnh ngồi ri, nói ri, rồi ngẩng mặt ri, rồi hát ri, rồi bổ ri, rồi chảy máu ri, rồi anh So bồng lên ri…". Em vừa kể vừa cố gắng bắt chước điệu bộ cùa Quỳnh. Nhưng em bắt chước lại càng dở hơn. Các bạn phải kêu lên: "Mi kể chán quá! Toàn ri, ri, ri… y như cái thằng nói ngọng!".

Mừng chỉ cho các bạn cái chỗ đất mà Quỳnh ngã xuống.

Mỗi lần đi qua chỗ đó, đứa nào cũng đi vòng tránh xa, như sợ giẫm lên người bạn.

Mừng kể chuyện không ra chi nhưng tình bạn của em với Quỳnh làm cho cả đội cảm động. Mỗi lần đi liên lạc vào núi, Mừng đều lượn đầy hai túi quả ươi bay. Các bạn xúm lại xin, em không cho, nhưng cũng không thấy em ngâm nước ăn. Các bạn tò mò theo dõi. Té ra, cứ chiều chiều Mừng lại chạy một mạch lên chỗ mộ Quỳnh, đặt những quả ươi bay lên nấm mộ đất còn mới, rồi ngồi đó mà khóc. Có bữa em còn cẩn thận mang theo cái ống bương, xuống sông Ô Lâu múc nước đặt trước mộ rồi bỏ quả ươi bay vô nước, ngâm sẵn cho bạn. Một lần em còn bỏ vô nước một cục đường đen, thút thít nói với bạn: "Quỳnh ơi, dậy mà ăn trái ươi bay đi Quỳnh!".

Rồi em đứng sững trước mộ bạn khóc hu hu.

Tư-dát biết chuyện, ngậm ngùi nói: "Chưa chắc cha mạ hắn đã thương hắn như thằng Mừng".

Bồng ở đồng bằng lên, vác trên vai một tấm ván dài chừng một mét, một đầu tấm ván bị cháy đen. Em nói: "Tao đi qua cái xóm vừa bị Tây càn, nhà cửa cháy gần hết. Tao thấy một mệ lôi tấm ván ni trong đống tro ra. Tao hỏi: "Cháy còn một khúc ri thì mệ để làm chi?". Mệ nói: "Chẻ ra mà làm củi thôi chớ còn làm chi được nữa?". Tao nói: "Rứa thì mệ cho cháu vác lên Xê-ca làm cái bia cho thằng bạn cháu. Hắn chết chôn giữa núi giữa non, không có bia, sợ đến ngày độc lập e tìm không ra mộ". Mệ nói: "Cho cháu vác đi mà làm bia. Gỗ kiền kiền đó, chôn xuống đất hai chục năm không suy chuyển mô?".

- Tư-dát ni! - Bồng nói - Mi chữ nghĩa hay ho, khắc tên họ hắn lên đây cho tao với.

Tư-dát đáng lẽ phải khắc tên, họ, ngày sinh, ngày mất của Quỳnh như thường lệ, nhưng nó bỗng nổi hứng làm thơ. Hì hục cả tuần liền, Tư-dát khắc lên bia bốn câu thơ:

"Sống, viết nhạc lên lá cây

Chết, bạn cùng quả ươi bay lên rừng

Sống anh dũng, chết thuỷ chung,

Nơi đây yên nghỉ bạn Thân Trọng Quỳnh"

14.

Chiều chiến khu. Các đội viên Thiếu niên trinh sát đang ăn cơm trước sân lán. Mâm cơm chiến sĩ năm đầu kháng chiến: một rá cơm gạo mục bốc mùi thum thủm vì gạo phải chôn dưới đất, và một tô nước ruốc đỏ lòm những ớt - mỗi đội viên được hai chén cơm lưng lửng. "Ăn rồi mà như chưa ăn". Bồng-da-rắn đứng dậy, gãi bụng sồn sột và nói vậy.

- Anh Kim về! Anh Kim trốn tù dưới Huế về! - Mừng từ ngoài đường xồng xộc chạy vào, vừa thở hổn hển vừa kêu, báo tin với cả đội. - Anh ấy cướp được cả khẩu tiểu liên "mát" của Tây!

Cả đội bỏ hết chén đũa xuống đất, xúm lại quanh Mừng rối rít hỏi:

- Hắn mô rồi? Hắn trốn về với thằng Lượm à?

- Không có anh Lượm! Anh ấy trốn tù với một anh du kích xã Phong Diêu. Hai người đang ngồi ngoài trạm gác a?…

- Ta ra coi đi! - Một em nào đó xướng lên. - Ta ra coi đi! Ta ra coi đi! - Cả đội hoà theo và rầm rập chạy như một đàn ngựa non, về phía trạm gác chiến khu cuối làng Hoà Mỹ.

Cả đội oà vô trạm gác tiền tiêu, một cái lán tranh nép mình dưới rặng lồ ô, sát bên lối mòn đi về làng Đất Đỏ.

Tất cả cùng nhảy lên, reo gọi:

- Kim! Kim-điệu!

- Hoan hô Kim-điệu!

Kim-điệu đang ngồi trước cái bàn tre cùng với một thanh niên lạ mặt - anh du kích cùng tham gia vượt tù với Kim-điệu.

Trên mặt bàn đặt dọc khẩu tiểu liên "mát" nước thép xanh biếc mà Kim đã đoạt được lúc vượt tù. Ngồi đối diện với hai người là anh tổ trưởng trạm gác. Kim-điệu đang sôi nổi kể chuyện gì đó với anh tổ trưởng. Bộ dạng, nét mặt, cử chỉ, giọng nói của Kim đúng là một tay tù vượt ngục chính hiệu. đầu tóc bù xù rối phủ kín gáy, mặt mũi có mấy vết gai xước rớm máu, bộ áo quần ka- ki rách toạc nhiều chỗ lấm lem bùn đất.

Kim điệu nhảy ra khỏi cái ghế ngồi làm bằng một khúc thân cây còn nguyên cả vỏ, chạy ra sân đón các bạn. Tư-dát ôm chầm lấy Kim trước tiên, hổn hển hỏi dồn dập:

- Thằng Lượm chừ mô rồi! Mi có được tin tức chi của hắn không? Mi bị bắt vô lúc mô?

- Tớ đang ngồi báo cáo công tác với anh Đồng-râu thì tụi hắn bốn phía ập vô. Anh Đồng-râu đạp phên cùng với tớ vọt ra vườn. Anh núp sau cây sầu đâu, bắn chặn tụi hắn cho tớ chạy. Nhưng chạy ra đến bờ sông, chưa kịp nhảy xuống thì tụi hắn đã phục sẵn ở đó rồi…

- Rứa thằng Lượm?…

Nghe nói hắn bị giam ở lao Thừa Phủ, rồi sau đó chở vô Tua- ran. Còn tớ, tụi hắn đưa về giam ở lao Toà Khâm.

- Làm răng cậu trốn được?

- Chuyện dài mà ly kỳ lắm. Bữa mô về đội tớ kể cho nghe.

Mừng xắm nắm cạnh Kim. Em chỉ khẩu súng để trên bàn, hãnh diện khoe như chính em cướp được:

- Các cậu coi tề! Khẩu súng đẹp chưa tề!

- Chừ cậu về đội luôn chứ? - Nhiều em hỏi Kim.

- Các anh bảo còn phải chờ báo cáo lại Ban tham mưu trung đoàn đầu đuôi mọi chuyện…

Sáng hôm sau, Kim được đưa vào Xê-ca Một gặp các anh ở ban Quân báo trung đoàn về cơ quan bảo vệ chiến khu. Kim báo cáo miệng, sau đó viết ra giấy, trường hợp chú bị bắt, anh Đồng-râu bị bắn chết, những lời cung khai của chú với cơ quan mật thám giặc, những hành động tra tấn của giặc đối với chú.

Thời gian qua chú bị giam ở đâu, bọn giặc bắt chú phải làm những công việc gì, và trong trường hợp nào chú đã vượt tù và cướp được súng của giặc v.v…

Kim ở lại Xê-ca Một, năm ngày, vừa viết báo cáo vừa bồi dưỡng, nghỉ ngơi.

Chú đã viết một bản báo cáo kín bốn trang giấy, với lời văn khá lưu loát và nét chữ khá đẹp. Chú kể:

"Bọn giặc đã đánh đập, tra tấn chú vô hồi kỳ trận để lấy khẩu cung. Chúng đưa chú hết sở này đến ở khác: ty An ninh, sở Mật thám phòng Nhì, rồi sở Mật thám Liên bang, nhưng chú một mực chỉ khai những điều mà chúng đã biết rõ và không thể chối được.

Sau đó, chúng đưa chú về giam tại lao Toà Khâm, trại gian tù binh… Ngay những ngày đầu tiên vào tù, chú đã nghĩ đến chuyện vượt ngục, trở về chiến khu. Nhưng bọn giặc canh gác hết sức nghiêm ngặt, nên mấy tháng đầu chú không có thời cơ.

Nửa tháng gần đây, bọn giặc chọn một toán ba chục tù binh khỏe mạnh đi làm cỏ-vê ở một kho đạn gần đồn Hiền Sĩ. Biết chú trước đây là học sinh "đơ-dem-an-nê" ở "lít-xê" Khải Định, bọn giặc bắt chú đi làm thông ngôn vì tụi giặc bảo vệ kho đạn toàn lính u- Phi. Chú thông ngôn khá giỏi và tỏ ra chăm chỉ, nên dần dần bọn giặc tin cậy chú. Chú nhận định đây là thời cơ tốt nhất để trốn tù. Chú bí mật bàn với anh Lẫm - một tù binh trước kia là tiểu đội trưởng du kích xã. Anh Lẫm rất thông thạo đường sá vùng này, tính tình lại kín đáo, gan dạ. Hai người đã thống nhất kế hoạch và ngày vượt tù.

Buổi chiều hôm đó, hết giờ làm cỏ-vê, bọn giặc chở tù binh từ kho đạn về nhà lao, trên hai chiếc ô tô G.M.C. Lúc lên dốc, xe chạy hơi chậm lại, chú ra ám hiệu cho anh Lẫm. Cả hai lập tức vọt xuống ô tô. Riêng chú đã nhanh tay giựt luôn khẩu tiểu liên "mát" của thằng lính Tây đen ngồi cạnh chú đang còn mải châm thuốc hút. Hai người chạy băng qua dãy đồi thấp cạnh đường số Một. Bọn giặc dừng xe lại, bắn đuổi theo như tưới đạn. Nhưng cả hai đã may mắn trốn thoát, chạy về đến xã của anh Lẫm. Nửa đêm hôm đó anh Lẫm đưa đường cho chú lên chiến khu".

Lời kể của Kim hoàn. toàn khớp với lời khai của anh Lẫm (cũng được giữ lại chiến khu để thẩm tra). Phòng Quân báo Trung đoàn và cơ quan bảo vệ chiến khu trong tuần đó cũng nhận được báo cáo của cơ sở vùng hai người trốn tù, tường thuật lại sự việc đúng như vậy.

Ban chỉ huy trung đoàn thông báo với các đơn vị sự việc một đội viên Thiếu niên Trinh sát là Lê Kim, trong tổ quân báo được cử về hoạt động tại thành phố, phối hợp với trận đánh đồn Hộ Thành, đã bị giặc bắt. Mặc dầu bị bọn mật thám giặc trá tấn rất dã man, nhưng em đã giữ đúng lời thề thứ năm trong mười lời thề danh dự của Vệ Quốc Đoàn: "Dù bị cực hình tàn khốc đến thế nào quyết không bao giờ phản bội xưng khai". Sau đó em đã dũng cảm, mưu trí, cùng với một chiến sĩ du kích trong đội tù giặc bắt đi làm cỏ-vê, mạo hiểm vượt tù trở về chiến khu. Đồng thời em Lê Kim còn cướp được một khâu tiểu liên "mát" của tên giặc canh gác tù. Ban chỉ huy trung đoàn đã cấp bằng khen thưởng em Lê Kim và đề nghị cấp trên tặng thưởng huân chương chiến sĩ hạng Ba.

Kim-điệu chốc lát đã trở thành một nhân vật được nhiều người trong chiến khu biết tiếng.

Tuần sau, Lê Kim được Ban Tham mưu trung đoàn cho trở về công tác tại đội Thiếu niên Trinh sát. Để khen thưởng tinh thần và công lao của Kim, trung đoàn quyết định thời gian chú bị tù được coi là thời gian tại ngũ. Một đồng chí ở phòng chính trị trung đoàn đã viết một bài tường thuật rất sinh động, hấp dẫn về thành tích của em Lê Kim, đăng trên báo "Giết giặc".

15.

Hôm sau Kim-điệu trở về đội, các đội viên khác đã phân tán hết về đồng bằng bám địch. Ở lại đội chỉ còn có Mừng. Đội trưởng giao cho Kim giữ chân thư ký đội. Công việc chẳng có gì nhiều. Thỉnh thoảng chú đọc những báo cáo của các tổ dưới đồng bằng gửi lên tập hợp tình hình và viết thành báo cáo gửi Ban tham mưu trung đoàn. Có trình độ văn hoá lại thông minh, nhanh nhẹn, Kim làm công tác thư ký đội khá giỏi. Mấy lần chú được đội trưởng biểu dương.

Dạo này Kim và Mừng đã trở thành một đôi bạn khá thân.

Trước đây hai đứa tuy cùng một tổ nhưng không chơi thân với nhau. Hay nói đúng hơn, Kim không thèm thân với Mừng.

Trong đội, Kim chỉ chơi thân với những bạn được học hành như nó, hoặc mặt mũi sáng sủa, xinh trai. Những đứa như Hoà-đen, Mừng, Tề, Bồng-da-rắn… ngoài miệng Kim cậu cậu tớ tớ, nhưng trong bụng vẫn có ý coi khinh. "Mấy đứa nớ còn thua cả thằng Rọm, đầy tớ nhà mình!". Kim thường ngắm nghía một số bạn trong đội mà nghĩ vậy.

Bồng-da-rắn là chú bé từng trải. Cuộc sống vật lộn để kiếm sống từ tấm bé đã cho em cặp mắt xét đoán người khá tinh.

Em đọc chữ còn bập bõm nhưng lại đọc rất nhanh những ý nghĩ dù đã được che giấu kín đáo của những người chụng quanh. Em đánh hơi rất thính sự khác ý, sự giả dối và cả lòng chân thật vụng về ở những người em tiếp xúc. Hồi ở Huế, mới về đội được haỉ hôm, thấy Kim anh anh em em với đội trưởng và với các anh lớn khác giọng ngọt như mía lùi, Bồng đã nói riêng với Hoà-đen: "Thằng nớ dạ trước mặt nhưng trẽ cặc sau lưng đó mi ơi! Loại con nhà nghèo như mi với tao ở đây cùng đội với nhau thì hắn phải cậu cậu tớ tớ rứa, chứ ở chỗ khác ạ, hắn chỉ ê một tiếng rồi ngắc tay gọi tụi mình như gọi đày tớ nhà hắn!". Hoà-đen có vẻ không tin: "Làm chi đến nỗi". Bồng cau mặt, xùy một tiếng: "Những đứa như hắn, tau còn lạ chi!".

Trong đội, bạn nào gọi Bồng là Bồng-da-rắn cũng được, riêng Kim gọi, là Bồng sừng sộ ngay: "Đề nghị anh Kim kêu tên tui cho tử tế! Kêu da rắn, da trăn là không xong với tui mô!".

Lượm kể với Bồng hồi làm liên lạc trung đoàn bộ ở đồn Mang Cá, Kim có cả một tá anh nuôi, chị nuôi, hầu hết là các anh chị y tá, cứu thương ở bệnh viện trunng đoàn. Và hai ông anh nuôi thân thiết nhất của Kim là Nguyễn Tri và Lê Thành. Cả hai thằng này mưu mô ăn cắp gạo của Vệ Quốc Đoàn, bị bắt tống vô cải hốì thất. Bồng nói: "Anh mô em nấy!".

Cái buổi chiều Mừng chạy về báo tin với đội: Kim vượt tù, cướp súng giặc, chạy lên chiến khu, Bồng cũng chạy theo các bạn ra trạm gác. Nhưng em không vồ vập đón Kim như nhiều bạn khác. Em đứng ở vòng ngoài lặng lẽ nhìn Kim. Trên đường trở về, Bồng nói với Tư-dát: "Hắn ở tù mà coi bộ béo tốt gớm!". Bồng nhớ đến những người tù bọn Tây đưa đến làm cỏ-vê ở mấy vị trí mà em làm nhiệm vụ bám địch; anh mô anh nấy chỉ còn da bọc xương, bị tụi lính Tây đánh đập suốt ngày bằng báng súng, roi cặc bò. Tư-dát nghe giọng mỉa mai của Bồng, liền bênh: "Hắn kể: May còn sống được trở về với chiến khu là nhờ có gia đình đến thăm nuôi thường xuyên". Bồng bĩu môi: "Chưa chừng vô đó hắn nhận vài thằng Tây, thằng Bảo vệ quân làm anh nuôi cũng nên!". Tư-dát khen chuyện Kim vượt tù mà còn cướp được súng của giặc: "Hắn cũng gan cóc tía đó chớ mi?". Bồng nhăn mặt: "Chó ngáp phải ruồi chứ gan cứt chi hắn! Hồi ở mặt trận Huế mấy lần đi trinh sát, liên lạc cùng với hắn, tau còn lạ chi!".

Mừng trở nên thân thiết với Kim, trước hết là vì em phục, em hãnh diện với chiến công của bạn. Chạy liên lạc vào các Xê-ca Mừng đến đâu cũng khoe: "Ở đội em có anh Kim, được cử về dưới Huế rải truyền đơn, đánh đồn Hộ Thành, bị Tây bắt đập gần chết. Rứa mà anh lập mẹo vọt khỏi ô tô lúc đang chạy, giật luôn cả khẩu súng thằng Tây gác tù, chạy lên chiến khu."

"Ui chao, anh nớ gan chi mà gan đã gớm!". Mừng còn hứng chí khoe thêm: "Bữa đó, tui biết anh Kim về đầu tiên? Tui chạy một mạch về đội báo tin các bạn mới biết chạy ra đón đó chớ!".

Những lúc rảnh việc, Kim đi dạo chơi vùng Tiền chiến khu Mừng đều đi theo, như bóng với hình. Em mượn được lây cái danh tiếng của Kim "Ban chỉ huy trung đoàn khen thưởng và đề nghị lên cấp trên tặng thưởng huân chương". Kim lại thường rủ Mừng vào các quán ăn mà trước đây gần như Mừng không khi nào bén mảng đến, vì em không có tiền. Kim thường cho Mừng ăn thả xăng, khi bánh bột lọc, khi chè đậu đen, khi bún bò… Được bạn cho ăn no nê, Mừng thích lắm nhưng cũng tò mò hỏi: "Ở tù mà răng anh có nhiều tiền rứa?". Kim nói: "Trước ngày định trốn tù, tau báo cho mạ tau biết. Mạ tau đến chỗ tau làm cỏ-vê, nhét vô túi tau cả một cục tiền: "Cho con để lúc lên Chiến khu mà ăn uống bồi dưỡng cho lại". Hôm đầu tiên, Kim dắt Mừng vô quán mụ Tào, nói:

- Mi thích ăn chi thì ăn đi.

Mừng thiệt thà:

- Tui thích ăn chè.

Chè chỉ có đường với gạo đập thêm tí gừng. Kim không thể nuốt trôi nửa chén. Mừng ăn luôn hai chén mà coi bộ còn thòm thèm. Kim mua thêm chén nữa đưa cho Mừng, hỏi:

- Mi không được ăn chè khi mô à?

- Tui làm chi có tiền mà ăn? Các cậu tê được về đồng bằng bám địch, hay được các mệ, các chị dưới đó cho ăn đủ thứ ngon. Tui ở trên ni, cả mấy tháng cũng chẳng được miếng chè. - Mừng thành thật trả lời - Mỗi lần qua quán ni, ngửi thấy mùi chè tui rệu nước miếng cục!

Khi đã thân thiết với Kim hơn, Mừng lấy số tiền mười đồng mà trung đoàn trưởng thưởng cho em, giấu trên mái lán, đưa ra khoe:

Tui cũng có tiền đây chứ anh tưởng!

- Ở mô mà mi có đó?

Trung đoàn trưởng thưởng cho tui vì tui chỉ được chỗ đặt đài quan sát ngon lành, ở Xê-ca Bảy. Nhưng thèm chè rệu nước miếng tui cũng không đem mua ăn. Tui muốn cất để dành, khi mô Huế giải phóng, tui đem về biếu mạ tui, nói với mạ: "Của trung đoàn trưởng thưởng cho con đó mạ nớ".

- Mi thuộc hết địa hình cả chiến khu hay răng mà chỉ được chỗ đặt đài quan sát ngon lành rứa?

- Thuộc làu làu như thuộc bài "Bao chiến sĩ anh hùng?" - Mừng nói không giấu được vẻ tự đắc. - Tui thuộc cả đường thẳng lẫn đường tắt. Từ Xê-ca Một đến Xê-ca Bảy, cơ quan mô, đơn vị mô đóng ở chỗ mô, tui ngó vô bản đồ, tui chỉ đúng phắp phắp. Bữa đó tui ngó vô bản đồ mà chỉ đúng chỗ đặt đài quan sát trung đoàn trưởng mới thưởng đó chớ!

- Rứa thì mi giỏi thiệt! - Kim khen, mắt chăm chăm nhìn Mừng, nói tiếp sau một lát nghĩ ngợi. - Tao mà ngó vô bản đồ cũng như anh mù chữ ngó vô tờ báo… Nhưng mi học cách răng mà coi được bản đồ?

- Nhờ tui mê coi bản đồ nên tui mới thạo. Mỗi lần tui đi vô liên lạc chỗ ban Hoạ đồ, tui đứng coi các anh hoạ địa đồ cả buổi không chán mắt. Đội trưởng cũng có tấm địa đồ chiến khu mình như của trung đoàn trưởng, thỉnh thoảng anh cũng cho tui coi. Tui chỉ chỗ mô trúng chỗ đó, đội trưởng khen tui: "Em đọc bản đồ thạo chẳng kém chi tham mưu trưởng trung đoàn. Em gắng học vài năm nữa, anh sẽ đề nghị với trung đoàn trưởng cho em về công tác ở ban Hoạ đồ trung đoàn".

Kim cười bả lả:

- Chắc là mi nói trạng chơi để lòe tao? Chừ mi thử lấy cái bản đồ của đội trưởng ra đây chỉ cho tao coi tận mắt, tao mới tin!

- Tui không nói trạng! Nhưng tấm địa đồ đó là tối mật, tự ý lấy coi có mà chết! Khi mô đội trưởng cho coi mới được coi!

Những chuyện huyên thuyên, ngây thơ, thật thà và có đôi chút khoe khoang kiểu con nít của Mừng lại làm cho Kim đặc biệt quan tâm. Nó thường làm như vô tình, hỏi đi hỏi lại Mừng không chán, và lần nào Mừng cũng hào hứng kể lại đúng như lần trước kể. Mừng không hề một thoáng thắc mắc tại sao anh Kim lại hay hỏi chuyện về cái tài đọc bản đồ của em, và nhất là về tấm bản đồ tối mật mà đội trưởng cất kỹ trong xà cột, đi mô cũng mang theo. Mừng còn cho Kim biết tấm bản đồ tối mật là tấm bản đồ bố phòng chiến khu.

Nếu Mừng có cặp mắt tinh đời như Bồng-da-rắn, có thể em sẽ tránh khỏi những tai hoạ bi thảm sẽ được kể trong những chương cuối của cuốn sách này. Và cũng có thể em sẽ trở thành một cán bộ quân đội tốt, có vợ, con, gia đình, được hưởng thụ những quyền lợi, những tiêu chuẩn, mà một chiến sĩ như em chắc phải được hưởng. Nhưng em ngây thơ quá, trong sạch quá. Em không hiểu và cũng không tin, trong cuộc sống mà em đang sống yẫn còn tồn tại cái ác, cái xấu xa phản trắc, những âm mưu lọc lừa… nên em đã phải vĩnh viễn sống mãi cái tuổi mười ba.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx