Từ rằng:
1 . Mãi khi nước loạn biết tôi trung
Muôn hiểm nguy chẳng chút ngại ngùng
Nghĩa khí một nhà đều son sắt
Cúi đầu ai đó thẹn lòng chăng?
2. Đại tướng cầm quyền
Thời cơ chèo chống
Khi tĩnh khi động
Thắng bại ai ngờ
Gian thần chỉ mấy hàng thư
Khiến ba quân những thất cơ tan tành!
Theo điệu “Triều trung thố”
Từ xưa trung thần nghĩa sĩ, gặp lúc thái bình, người người khó thấy tấm lòng trung nghĩa, mãi tới khi loạn lạc, mới rõ tiết tháo: Lũ tiểu nhân lúc yên thì ngồi ở ngôi hưởng lộc, dựa uy ỷ thế, khua môi múa lưỡi, đến lúc này lại trông theo gió mà bỏ chạy. Một vài bậc tiết tháo trên, thề giữ lòng son, xông pha mũi kiếm rừng thương, liều thân, dẫu trăm sống một chết không sờn, đến lúc này thì từ thiên tử cho tới thứ dân mới đều kính phục, tên tuổi được truyền tụng mãi mãi. Lòng son dạ sắt đó của họ, vốn cũng chẳng là ý nguyện thuở ban đầu. Mong muốn của các bậc này là vua thì có đức độ, trăm quan thì trong sạch, vua sáng tôi hiền, hòa thuận, thân danh minh bạch, chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện chết, vì vua vì nước làm tốt. Nhưng tới bước cùng của thời loạn, để đến nỗi người người đều rõ gương trung nghĩa, thì còn đâu là sự may mắn của giang sơn. Lúc xã tắc bất hạnh này, cực chẳng đã mà phải hưng binh xuất tướng, gánh vác trọng yên nguy của trăm họ, tất phải biết thời thế, hiểu lẽ tiến thoái, không thể tiến thì dừng, có thể tiến phải tiến, mọi cử động đều phải đúng nơi đúng lúc từ ngoài cửa khổn (1) là đều thuộc quyền cai quản của đại tướng, nếu vì lời gièm pha của bọn quyền gian, mà nghi ngờ oan uổng, đòi tiến bức thoái, đến nỗi rơi vào kế sách của địch, binh bại, nước tan, kẻ trung thần phơi thây thì thật là đáng tiếc, đáng căm lắm thay, trời xanh lồng lộng, đất rộng mênh mông cũng phải ngậm ngùi không tiếc vậy.
1 Ngoài cửa khổn: "Sử ký" có câu “Khổn dĩ nội quả nhân chế chi. Khổn dĩ ngoại tướng quân chế chi". Khổn: là cửa ngoài thành. Từ cổng thành trở vào thì trẫm coi xét, từ cửa ngoài trở ra thì tướng quân coi xét. (Từ điển Thiều Chửu).
***
Lại tiếp chuyện Huyền Tông ban chiếu phục nguyên chức cho Tần Quốc Mô, Tần Quốc Trinh, hai người vào triều tạ ơn. Huyền Tông tìm lời an ủi một hồi, rồi hỏi sách lược trừ nghịch đảng. Hai anh em thay nhau trần tình. Đại khái cũng là dùng binh nên thận trọng, chọn tướng cho thích hợp. Đang lúc bàn bạc, thấy quan ở bộ lại vào tâu:
- Lâu nay thái thú Thư Dương vẫn khuyết, nghịch tặc An Lộc Sơn nhân cơ, tiến cử gian đảng Trương Thông Ngộ làm thái thú, vừa rồi đã bị Giả Bí huyện ủy Đan Phụ dẫn nha lại cùng chúng dân chém chết, nay cần tuyển một nhân viên thái thú mới đến, xin cử một vài người, kính mong bệ hạ chọn lựa rồi giáng chỉ tuyển dụng.
Quốc Mô liền tâu:
- Thư Dương vốn là đồn lũy hiểm yếu coi vùng Giang Hoài, nay lúc nghịch tặc lại hoành hành, chức phận thái thú rất nặng, người tầm thường khó có thể gánh vác, không nên câu thúc bởi những luật lệ bình thường. Theo chư thần biết: Cao Yếu úy Hứa Viễn, là người có chí khí, tiết tháo, tài lược, thật xứng đáng chức này, kính xin thánh thượng xem xét.
Huyền Tông bằng lòng, lệnh cho Lại bộ lấy Hứa Viễn làm thái thú Thư Dương, lại hỏi tiếp:
- Như ý hai khanh, bây giờ ai là tướng giỏi?
Quốc Trinh thưa:
- Từ xưa đã nói: "Thiên hạ nguy, chú ý soái". Nay các tướng mà bệ hạ đang dùng như Phong Thường Thanh, Cao Tiên Chi, dẫu có gánh vác nổi việc quân cũng không thể gọi là tướng giỏi. Trước đây Hàn Lâm học sĩ Lý Bạch từng dâng sớ xin tha tội cho biên tướng Quách Tử Nghi là bậc có tài đánh thành chiếm đất, ôm trí thao lược, bệ hạ đã nghe theo, cho chuộc tội. Quách Tử Nghi nhiều lần lập công, chủ soái là Kha Thư Hãn dâng biểu tiến cử, nay đã làm Cửu Nguyên Thái thú Sóc phương tả sương binh mã sứ, đó mới thật là bậc tướng giỏi, Lý Bạch tâu quả không sai vậy.
Huyền Tông gật đầu khen phải. Nhân đó hỏi tiếp:
- Kha Thư Hãn tài năng ra sao?
Quốc Mô tâu:
- Kha Thư Hãn từ lâu vẫn có uy, chỉ hiềm tính tình quá hà khắc, không thương sĩ tốt. Triều đình dẫu có giao trọng trách cho tùy nghi mà hành động; thì chẳng đến nỗi phụ sự ủy thác của thánh thượng, nhưng gần đây nghe nói ốm bệnh không làm được việc.
Huyền Tông phán:
- Kha Thư Hãn sẽ vì trẫm mà gắng sức vậy.
Liền giáng chỉ thăng Quách Tử Nghi làm Sóc phương Tiết độ sứ, còn Kha Thư Hãn làm Binh mã phó nguyên soái. Kha Thư Hãn liền dâng sớ cáo bệnh, Huyền Tông vẫn không nghe, liền cho cầm mười vạn quân phòng ngự An Lộc Sơn.
Lúc này, An Lộc Sơn đang vây hãm Linh Xương cùng Trần Lưu thanh thế rất lớn, lại vươn ra phá Vinh Dương, nhòm ngó Đông Kinh. Phong Thường Thanh đóng binh ở Vũ Lao để chống cự, nhưng vì binh lính vừa ít vừa chưa quen chiến trận, vốn là bọn lêu lổng ở thành thị, thấy thế giặc mạnh, chưa đánh đã sợ hãi bỏ chạy, Lộc Sơn đặc sai bọn thiết kỵ tới đánh, quan quân chạy dài mà không hề dám chống cự
Chính là:
Nếu biết việc quân là khó thế
Thì xưa trước điện chẳng huênh hoang.
Thường Thanh thu nhập tân binh, đánh nữa nhưng lại thua to, quân giặc thừa thế vây hãm Đông Kinh. Hà Nam thái thú Đạt Hề Tuân mở cửa thành ra hàng, chỉ riêng Lưu thú Lý Hằng, Trung thừa Lưu Dịch, Thái phỏng phán quan Tường Thanh không chịu đầu hàng, thành bị phá, mặc triều phục ngồi ngay ở công đường. Lộc Sơn sai lính giải tới trước hàng quân, cả ba đồng thanh mắng giặc, nên cùng bị Lộc Sơn giết một lần.
Thường Thanh thu góp tàn binh chạy về Thiểm Châu ở phía tây lúc này Cao Tiên Chi đang đóng binh ở đây. Thường Thanh tới gặp khóc lóc mà rằng:
- Tiểu nhân ngày đêm ngoài chiến trường, nhưng nghịch tặc quả là hung dữ khôn đương, trộm nghĩ Đồng Quan binh ít, chẳng may mà lũ phản nghịch kéo qua cửa này, thì Trường An quả là nguy. Chi bằng dẫn binh lính ở Thiểm Châu ra Đồng Quan mà giữ trước.
Tiên Chi nghe theo, liền cùng Thường Thanh kéo binh ra Đồng Quan, quả nhiên giặc tới, không vào được, đành phải quay lui, cho nên tính ra thì cũng là công lao của cả hai. Không ngờ giám quân sứ Biên Lệnh Thành, vẫn thường hay hạch sách nhũng nhiễu Tiên Chi mà không được toại ý, trong lòng rất giận, lại căm Thường Thanh không chịu hối lộ gì cả, liền mật tâu về triều đình, Thường Thanh rêu rao thanh thế Lộc Sơn để dọa binh lính, khiến quân đội chưa thấy đã bỏ chạy, còn Tiên Chi thì coi thường bỏ hẳn đất Thiểm Châu mấy nghìn dặm, thông đồng với nhau để lấy quân lương bỏ vào túi riêng, phụ sự ủy thác của triều đình rất lớn. Huyền Tông tin theo, cả giận liền hạ mật chiếu cho Lệnh Thành, chém đầu Thường Thanh cùng Tiên Chi.
Lệnh Thành dựa vào việc này, gọi hai người đến, chưa kịp chào hỏi. Lệnh Thành đã giơ tay:
- Có thánh chỉ bắt hai vị xử tử đây!
Rồi quát tả hữu:
- Trói lại cho ta!
Tuyên đọc mật chiếu. Thường Thanh nói:
- Tướng bại trận, dẫu có bị tội chết cũng không dám chối. Nhưng triều thần nói rằng An Lộc Sơn dễ diệt trừ, thì quả là không đúng. Thần dẫu có chết, cũng không dám coi thường lũ giặc này. Nay hãy tìm được tướng giỏi, luyện tập binh lính cho tốt mới mong trụ nổi?
Tiên Chi tiếp:
- Ta gặp giặc mà rút lui, tội thật đáng chết, nhưng nói rằng ta xâm trộm vào quân lương, thì há là oan quá sao?
Hai người chịu chết, bộ hạ sĩ tốt đều cho là oan uổng, tiếng vang khắp đất trời. Đời sau có thơ than rằng:
Quan hoạn đã cầm, nát việc quân
Gia hình hai tướng, lại càng oan
Can qua hệ trọng mà nghe bậy
Còn đáng tin vua không nữa đây?
Hai người đã chết, lệnh truyền Kha Thư Hãn thống lãnh tất cả, cùng với Phiên tướng Hỏa Bạt Quy Nhân cai quản hai mươi vạn quân, đóng ở Đồng Quan.
***
Lại nói Lộc Sơn vây hãm Hà Nam, sai bọn tay chân như Đoàn Tử Quang, Lý Đăng, Lư Dịch, Tương Thanh truyền dụ các nơi ở Hà Bắc phải thuần phục và nạp lương thực, vàng bạc. Lệnh truyền đến quận Bình Nguyên.
Thái thú Bình Nguyên là người vùng Lâm Nghi, họ Nhan, tên Châu Khanh, tự Thanh Thần, vốn là dòng dõi của phục thánh Nhan tử (1), vẫn mang lòng trung quân ái quốc. Ngay từ khi Lộc Sơn chưa khởi sự, Chân Khanh đã biết thế nào y cũng sẽ phản loạn. Gặp tiết mưa dầm, Chân Khanh liền mượn ngay cớ này, để đào hào đắp thành rèn luyện tráng đinh, tích trữ kho tàng, lặng lẽ xếp sẵn mọi thứ. Lộc Sơn xem Chân Khanh là lũ học trò, không xứng đáng để tâm. Đến khi dấy quân, các quan huyện ở Hà Bắc đều đầu hàng, ai nấy đều đoán là quận Bình Nguyên sớm muộn gì rồi cũng sẽ quy thuận, nhưng hịch truyền tới rồi, Chân Khanh lại càng phòng thủ thành quách, cửa sông ráo riết hơn. Chân Khanh nhận được hịch rồi, bèn sai tâm phúc, cầm thư hẹn với các quận xung quanh, mật ước thời gian nổi quân chống giặc. Mặt khác chiêu mộ dũng sĩ tới hơn một vạn người, khóc thề chết vì nghĩa lớn, ai nấy đều nghẹn ngào, căm giận lũ nghịch tặc, noi theo thái thú.
1 Tức Nhan Hồi, học trò giỏi của Khổng Tử, xem chú thích hồi 35.
Lúc này dân đảng Đoàn Tử Quang rầm rầm rộ rộ đem thủ cấp ba viên trung thần bị chém đến dọa, Chân Khanh bắt được ngay trên thành, trói lại đem chém ngang lưng cho mọi người đều được thấy. Đem ba thủ cấp, chắp đủ thân cổ vào, rồi dùng quan tài chôn cất, có tế lễ khóc điếu rất trang nghiêm. Huyện lệnh Thanh Trì Giả Tải, huyện lệnh Lam Sơn Mục Ninh, nghe biết những việc làm nghĩa hiệp của Chân Khanh, liền cùng nhau giết thái thú theo giặc của quận Cảnh Thành là Lưu Đạo Nguyên, đem thủ cấp, cùng vũ khí, giáp trụ tới hơn năm mươi thuyền, chở đến chỗ Trưởng sử Lý Vi. Lý Vi thấy bè đảng Lộc Sơn là Nghiêm Trang vốn người Cảnh Thành, bèn bắt trói họ hàng có đến mấy chục người, đều giết cả, đem thủ cấp Lưu Đạo Nguyên cùng với mọi thứ chỡ tới Bình Nguyên cho thái thú Nhan Chân Khanh.
Nhiêu Dương thái thú Lưu Toàn Thành, Hà Gian tư pháp Lý Hoán, Tề Dương thái thú Lý Tùy, đồng mưu đem những thái thú, trưởng sử do An Lộc Sơn ngụy phong giết sạch, cùng với binh Phiên hàng mấy nghìn người, tôn Nhan Chân Khanh lên làm minh chủ. Chân Khanh lên làm minh chủ, liền sai bản châu tư Pháp binh mã do Lý Bình cầm biểu văn, cùng với tờ hịch của Lộc Sơn, theo đường tắt về Trường An dâng lên Huyền Tông.
Lúc Lộc Sơn mới khởi loạn, Hà Bắc chấn động, nhưng chẳng một ai dám chống cự. Huyền Tông nghe tin, thở dài mà than:
- Cả hai mươi tư quận mà không một kẻ nghĩa sĩ nào cả sao?
Đến khi Lý Bình dâng biểu về, Huyền Tông cả mừng:
- Trẫm không biết Nhan Chân Khanh làm công trạng gì, nhưng lẽ nên như thế.
Liền ban ngay chiếu chỉ, phong Nhan Chân Khanh làm Thái phòng sứ Hà Bắc, nhận chức ngay ở nơi đang làm việc, kiêm chủ quản luôn các việc khác ở Bình Nguyên, cho miễn việc về kinh ra mắt thiên tử tạ ơn nhận chức.
Về sau trung thần nhà Táng Văn Thiên Tường (1), đi qua Bình Nguyên, có bài thơ vịnh sau đây:
1 Văn Thiên Tường (1236-1282): anh hùng dân tộc, nhà thơ lớn cuối Tống. Người Giang Tây, 20 tuổi đỗ đầu bảng tiến sĩ (hoàng giáp của Việt Nam), làm đến hữu thừa tướng. Kiên quyết chống Nguyên, bị giặc bắt, ung dung chịu hành hình ở Yên Kinh (tức Bắc Kinh nay) sau ba năm giam giữ. (Tống thi nhất bách thủ).
Nhan Chân Khanh thái thú Bình Nguyên
Vua ở kinh đô không biết tên
Trống trận Ngư Dương ầm ầm nổi
Suốt dọc sông không một thành bền
Anh em họ Nhan vung gươm lên
Hai mươi bảy quận cùng kết liên
Lũ giặc hãi kinh không dám tiến
Run chân hoảng hốt, bỏ chạy liền
Đường Minh Hoàng ruổi gấp vào Thục
Đường Thái tử Linh Vũ khởi binh
Tái lập nhà Đường nhờ Lý, Quách
Họ Nhan bị giặc chèn uy binh!
Nhan Thường Sơn dẫu giặc cắt lưỡi
Chân Khanh về triều, chí không đổi
Quanh co vất vả vẫn không xong
Hai chữ Trung Tiết bốn triều rọi
Lúc trước, họ Nhan thoát Lộc Sơn
Lần sau, lại khổ Lý Hy Liệt
Hy Liệt đâu có hại được ai
Mà bởi tên Ly Kỷ gian quyệt
Loạn thần tục tử ở nơi đâu
Vàng võ Trung Nguyên cây cỏ rầu
Hơn sáu trăm năm ai đã khuất
Trinh trung rực rỡ mãi về sau!
Trong bài thơ có nói: "Lần sau lại khổ Lý Hy Liệt", là nói chuyện đến đời Đức Tồn, bị gian thần Lư Kỷ (1) vì ghét Chân Khanh trung trực, nên mới sai đi dụ hàng nghịch tặc Lý Hy Liệt, nên cuối cùng Chân Khanh bị bọn này sát hại, lúc này đã bảy mươi tuổi rồi! Nhưng đó là chuyện về sau.
1 Lư Kỷ: Cũng là Lư Kỷ, gian thần trong chuyện "Nhị độ mai" từng hãm hại cha con Mai Bá Cao, truyện nôm của Việt Nam.
Còn việc "Nhan Thường Sơn bị giặc cắt lưỡi” là chuyện người anh họ của Chân Khanh, Nhan Cảo Khanh, vốn một lòng trung nghĩa, chẳng khác gì Chân Khanh. Khi Lộc Sơn phản loạn, Cảo Khanh làm thái thú Thường Sơn. Lộc Sơn kéo binh tới Cảo Thành, Thường Sơn nguy cấp, Cảo Khanh tự lượng Thường Sơn binh lương chẳng đủ, nhất thời không thể cự địch, liền bàn bạc với Trưởng sử Viên Phúc Khiêm, trước tiên hãy cứ ra hàng, để tránh nhuệ khí buổi đầu của giặc. Lộc Sơn mừng rỡ ra đón, ban cho áo bào tím lẫn đai vàng, rồi vẫn cho làm thái thú Thường Sơn như cũ.
Cảo Khanh cùng Lý Khiêm mật bàn khởi nghĩa, gặp lúc Chân Khanh sai con rể Lô Địch tới Thường Sơn, hẹn ước cùng Cảo Khanh kết binh để chặn đường quay về của Lộc Sơn. Lộc Sơn vừa tiếm hiệu xưng làm Đại Yên Hoàng đế, cải niên hiệu là Thánh Vũ nguyên niên. Cảo Khanh liền thác mệnh Lộc Sơn, triệu tướng giặc là Lý Khâm Thấu đang giữ Tỉnh Kinh dẫn tướng sĩ tới để khao thưởng nhân dịp lễ lên ngôi, cùng nhau tiệc rượu say khướt, trói ngay lại chém chết, hiểu dụ để giải tán đám quân sĩ. Các tướng giặc là Cao Mạc, Hà Thiên Niên vừa nhận lệnh của Lộc Sơn, đến Hà Bắc để kén lính, đi qua Thường Sơn, đều bị Cảo Khanh giết chết.
Lúc này bộ tướng của Lộc Sơn là Trương Hiến Thành nghe tin Sóc Quang Bật, cùng Vũ Phong sứ Cố Hoài An dẫn quân sĩ từ Tỉnh Kinh kéo ra. Hiến Thành nghe tin hoảng sợ. Cảo Khanh liền cho người tới thuyết phục giải vây cho Nhiêu Dương, Hiến Thành bèn dẫn quân bỏ trốn. Cảo Khanh lệnh cho Lý Khiêm vào Nhiêu Dương, khuyến khích quân sĩ, truyền hịch đến các quận, cả vùng Hà Bắc hưởng ứng. Cảo Khanh liền lấy thủ cấp Lý Khâm Thấu, Cao Mạc cùng Hà Thiên Niên dâng về kinh sư. Sai con là Nhan Tuyền Minh, Nội khâu thừa Trương Thông U, đem biểu văn tới kinh đô báo tin.
Thông U vốn là em ruột Thông Ngộ, Thông U sợ anh mình hàng giặc, tai họa cho cả nhà nên tìm cách để vớt vát, do biết rõ thái thú Thái Nguyên Vương Thừa Nghiệp, có đi lại riêng với Dương Quốc Trung, mới tìm cách triệt bỏ chuyện này, khuyên Thừa Nghiệp giữ Tuyền Minh lại rồi thay biểu văn, nói giả là công trạng của mình cả.
Cảo Khanh khởi nghĩa mới được mấy ngày, tướng giặc là Sử Tử Minh đột ngột kéo quân tới chân thành. Cảo Khanh sai người tới Thái Nguyên xin cứu binh. Bởi Vương Thừa Nghiệp đã làm việc cướp công, Cảo Khanh mà chết thì y càng có lợi, nên đóng binh không chịu cứu. Cảo Khanh đem hết sức ra chống giữ, lương hết, quân sĩ mỏi mệt, cuối cùng thành mất, bị giặc bắt, giải tới dưới trướng Lộc Sơn.
Lộc Sơn lớn tiếng quát:
- Ngươi sao dám phản ta?
Cảo Khanh trừng mắt lớn tiếng mắng.
Lộc Sơn giận lắm, lệnh cắt lưỡi, cùng với Viên Phúc Khiêm đều bị sát hại. Cả hai cho tới lúc chết, vẫn không thôi chửi lũ phản nghịch.
Chính là:
Thông U bỏ nước chỉ lo nhà
Thừa nghiệp tranh công cốt lợi ta
Khiến bộc trung lương oan trái chết
Máu cùng nước mắt những chan hòa.
Cảo Khanh tận tiết mà chết, nhân Thừa Nghiệp cướp công, Thông U toan tính mọi sự, Quốc Trung cũng giúp vào việc ám muội này, nên triều đình chẳng ngó ngàng đến cái chết của Cảo Khanh. Mãi đến năm Càn Nguyên đời Túc Tông, Nhan Chân Khanh khóc lóc tố cáo chuyện này với Túc Tông, rồi tâu lên Thái Thượng hoàng Đường Minh Hoàng. Lúc này Vương Thừa Nghiệp đã vì việc khác mà phải tội chết, chỉ còn Trương Thông U, Minh Hoàng liền ra lệnh dùng gậy lớn đánh chết, truy tặng Cảo Khanh làm Thái tử thiếu bảo, ban tên thụy là Trung Tiết. Còn con là Tuyền Minh, bị giặc bắt đi, sau này trốn thoát, tìm được thi thể cha cùng thi thể Viên Lý Khiêm, bỏ vào quan quách mà chở về. Phàm những nhà thuộc họ Nhan, vợ con các tướng sĩ thuở xưa của Cảo Khanh lưu lạc, đều được trọng đãi, kể có đến hơn năm mươi nhà, cộng hơn ba trăm người, đều được ngợi ca là cao nghĩa, nhưng đó là chuyện về sau. (1)
1 Nhan Chân Khanh còn nổi tiếng vì chữ viết rất đẹp của đời Đường. Cảo Khanh chính là người được Trần Quốc Tuấn nêu làm gương trong "Hịch tướng sỉ”: "Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung; Cảo Khanh một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn không theo mưu kế nghịch tặc". (Vế đầu là chuyện Uất Trì Cung, nói rõ ở hồi thứ 57).
***
Lại nói chuyện Chân Khanh nghe tin Cảo Khanh tử tiết, kinh sợ khóc lớn, khóc là khóc anh, sợ vì Thường Sơn thất thủ, giặc chiếm được nơi hiểm yếu, thật là đáng lo. Bỗng lại thấy thám mã về báo, Quách Tử Nghi vâng chiếu chỉ đánh Đông Kinh, đặc biệt tiến cử Lý Quang Bật làm Hà Đông tiết độ sứ, chia hơn một vạn binh, từ Tỉnh Kinh mà tới Đông Kinh. Chân Khanh cả mừng mà rằng:
- Như thế thì Thường Sơn có thể khôi phục được?
Lúc này huyện Thanh Hà, từ huyện lại tới dân chúng, cử trưởng ấp Lý Ngạc đến Bình Nguyên, hiến lương thực, khí giới cùng các loại quân trang, quân dụng, đồng khởi xin binh lính để giữ huyện. Lý Ngạc chưa đến tuổi đội mũ, nhưng khí phách hiên ngang, ngôn từ hào mại, Chân Khanh cho là người tài, cấp cho năm nghìn quân. Lý Ngạc nhân đó bèn thưa rằng:
- Triều đình đã phái binh ra Quách Khẩu, giặc dựa vào thế hiểm trở để chống giữ, quan quân không tiến được. Đại nhân nên dẫn quân đánh Ngụy Quận, rồi mở đường vào Quách Khẩu cho quan quân, nhân đó mà đánh Cấp Nghiệp cùng các quận huyện phía Bắc. Sau đó tập hợp binh lính các quận nam thì kéo đến Mạnh Tân, đóng giữ các nơi hiểm yếu, khống chế đường về phía Bắc của giặc. Lại dâng biểu tâu triều đình, kiên quyết cố thủ, không xuất chiến vội, chẳng qua trong vòng một tháng, thì lũ phản nghịch đến bỏ cả cơ nghiệp mà chạy vậy.
Chân Khanh nghe theo lời, sai tham quân Lý Trạch Giao, đem binh họp ở Thanh Hà, Bắc Bình đóng ở Đường ấp, lừa cho thái thú của giặc là Viên Tri Thái đến đánh. Quan quân đều gắng sức chiến đấu, quân giặc thua to, phải rút khỏi Ngụy Quận. Uy thế quan quân càng nổi. Thái thú Hạ Lan vùng Bắc Hải là Tiến Minh liền điều binh đến họp ở phía Nam thành Bình Nguyên, Chân Khanh đãi rất hậu, mới lấy công lao ở Đường ấp nhường cho. Tiến Minh không từ chối mà nhận, rồi tự dâng biểu văn tâu về triều đình. Chân Khanh cũng không lấy làm điều.
Lý Quang Bật khôi phục được Thường Sơn, Quách Tử Nghi cùng Bật Quang đã hội binh một nơi. Tướng giặc Sử Tử Minh tiến đánh, Tử Nghi dùng kế, đến nỗi Tử Minh phải xõa tóc, chân không, cầm giáo gãy mà chạy bộ, riêng một mình tìm cách trốn. Hơn mười quận ở Hà Bắc đều thoát khỏi tay giặc.
Lại nghe Ung Khâu Phòng ngự sử Trương Tuần đánh thắng mấy trận, liền cùng nhau mừng rỡ, thì có lệnh của triều đình đòi Kha Thư Hãn Phó nguyên soái phải ra quân ngay.
Lâu nay Kha Thư Hãn vẫn đóng quân ở Đồng Quan, để làm bình phong che cho kinh đô Trường An, nên vẫn giữ ý "án binh bất động", đợi thời mới ra tay. Hà Nguyên Phó sứ quân Vương Tư Lễ thừa cơ xúi với Kha Thư Hãn:
- Nay thiên hạ đều cho rằng kẻ gây nên chuyện loạn lạc này là Dương Quốc Trung, đều căm giận nghiến răng trợn mắt, xin chém đầu Quốc Trung để tạ thiên hạ, tất lòng người đều vui sướng, mà chẳng nghĩ đến cái chết để lập công.
Kha Thư Hãn lắc đầu không nghe, Tư Lễ lại bàn:
- Nếu như dâng biểu, sợ chưa chắc đã được như nguyện, tiểu nhân này xin ba chục người ngựa, bắt cóc được Dương Quốc Trung ra Đồng Quan đây mà chém đầu.
Kha Thư Hãn ngạc nhiên:
- Nếu như thế thì khác nào Kha Thư Hãn làm phản, chẳng đến phần An Lộc Sơn nữa rồi. Những lời này sao lại tuôn ra từ miệng ngài được?
Tư Lễ không dám nói nữa.
Về phía Dương Quốc Trung, cũng có người bàn với y rằng:
- Quân đội của triều đình đều nằm gọn trong tay Kha Thư Hãn, nếu lời người đúng thực, Kha Thư Hãn nhổ cỏ đi về phía tây, thì thật tể tướng không còn chỗ đứng.
Quốc Trung sợ lắm, không biết làm thế nào, bỗng nghe báo tướng giặc giữ Thiểm Châu là Thôi Cân Hựu, chỉ có không tới bốn ngàn lính, thế rất mong manh, chẳng thấy phòng giữ gì. Quốc Trung liền tâu với Huyền Tông, sai sứ thúc Kha Thư Hãn xuất quân khôi phục vùng Thiểm Lạc này. Kha Thư Hãn dâng biểu về tâu, đại lược rằng:
"Muôn tâu bệ hạ,
An Lộc Sơn vốn quen dùng binh, há khống biết phòng giữ sao, để trống chỗ này cho mọi người thấy, chính là nhằm dụ thần xuất binh. Nay mà thần coi thường ra quân, chính là rơi vào kế gian của kẻ địch. Xin hãy đợi, giặc từ xa tới, ở lợi chỗ đánh nhanh, binh của thần giữ nơi hiểm yếu, lợi ở chỗ phòng giữ.
Huống chi quân giặc tàn ngược, mất lòng dân chúng, ngày càng tan rã, thế nào cũng có lục đục nội tình, nhân đó mà đánh thì chẳng mất sức mà địch cũng chạy. Muốn là sự thắng cuối cùng, nhưng không thể vội vã. Nay các đội quân nhỏ, chưa kịp tập hợp. Kính xin hãy chờ ít lâu nữa!"
Quách Tử Nghi, Lý Bật Quang cũng dâng biểu tâu đại lược:
"Muôn tâu thánh thượng
...Xin dẫn quân bản bộ kéo lên bắc đánh vào Phạm Dương, lật đổ sào huyệt của giặc, bắt lấy vợ con của gian đảng làm con tin, để rồi chiêu hàng, thì tất lòng dạ của quân giặc sẽ hoang mang.
Còn như đại binh ở Đồng Quan, xin hãy cố thủ, không nên xem thường mà xuất binh vội."
Nhan chân Khanh cũng có sớ về tâu: “Đồng Quan là nơi hiểm yếu, là bình phong che chở cho kinh đô Trường An, lấy cố thủ là thượng sách. Lũ giặc đương bày kế để dụ ta. Xin đừng nghe theo những lời bàn tán mà lay động.”
Biểu sứ cứ thế tới tấp gửi về, nhưng Quốc Trung vẫn một mực giữ ý phải xuất quân. Huyền Tông tin lời, mấy lần sai trung sứ, đi đi lại lại giục phải xuất quân, lại còn tự tay chiếu chỉ trách mắng:
“Khanh giữ một đội quân lớn của Quốc gia, không nhân lúc quân giặc chẳng phòng giữ mà mau chóng thu hồi những nơi hiểm yếu chỉ biết ngồi chờ lũ nghịch tặc tự tan, đóng binh không chịu chiến đấu. Ngồi bó tay đến mất thời cơ.
Mưu kế của khanh, trẫm vẫn chưa hiểu, nếu chờ chờ đợi mãi, quân giặc từ chỗ không phòng giữ, chuyển sang giữ kín, quân ta ngày này sang tháng khác, chẳng lập nên công trạng gì. Quân pháp còn đó, trẫm cũng không dám coi thường vậy.”
Kha Tư Hãn tiếp được thánh chiếu, dày vò tính toán, thế không thể nào không xuất binh, đấm ngực khóc lóc một hồi, rồi chỉnh đốn quân ngũ, dẫn binh ra khỏi cửa quan, gặp quân của Thôi Càn Hựu ở Linh Bảo, gần Tây Kinh. Quân giặc dựa vào thế hiểm mà giữ, nam thì có Thư Sơn, bắc thì có sông Thư Hà, ở giữa là cửa ải, suốt bảy mươi dặm như thế. Năm vạn binh của Vương Tư Lễ ở phía trước, phó tướng Bàng Trung dẫn mười vạn binh tiến theo. Kha Thư Hãn tự dẫn ba vạn binh, trèo lên gò cao ở phía nam sông cờ giong trống gióng, để gây thanh thế.
Thôi Càn Hựu dẫn không quá một vạn quân, đội ngũ nhếch nhác, quan quân trông thấy, đều vỗ tay mà cười. Nào ngờ y đã phục tinh binh ở nơi hiểm yếu, chưa giao tranh, nên vẫn cuốn cờ im trống, chẳng khác gì cảnh định bỏ chạy. Quan quân đều ỷ thế chẳng phòng bị gì cứ thế hếch mắt mà xem. Bỗng pháo nổ liên tiếp, phục binh nhất tề đổ ra, quân giặc dựa thế cao hơn, lao gỗ đá xuống, quan quân bị giết vô số, tắc nghẽn cả đường đi, người người bị bắt trói, thương côn đều chẳng dùng được. Kha Thư Hãn với mấy chục chiến xa phủ lông thú làm tiền đội, cũng muốn xông ra khỏi trùng vi, nhưng Thôi Càn Hựu đã trữ sẵn mấy chục xe cỏ khô, ngăn ngay trước mặt, nổi lửa mà thiêu. Vừa lúc đó gió đông thổi mạnh, lửa réo gió giật, nương tựa lẫn nhau, khói bay mù mắt, quan quân chẳng còn nhìn thấy gì, nhắm mắt chạy càn, bắn hết mũi tên này đến mũi tên khác. Mãi cho đến khi chẳng còn, mới thấy rõ là chẳng có một tên giặc nào cả.
Càn Hựu lại sai tướng, dẫn mấy vạn binh, từ phía nam núi kéo lại phía sau quan quân, đầu cuối cùng đánh. Quan quân kinh hoàng, thua to mà chạy, hoặc vứt khí giới, giáp trụ tìm hang hốc lẩn trốn như chuột. Bọn chạy dài thì lại gặp sông chặn, nên chết đuối không tính hết. Hậu quân đã thấy tiền quân thua to, cũng tự tan. Quan quân phía bờ Bắc đều bỏ trốn sạch. Chẳng mấy chốc quân đội hai bờ tan hoang. Nhìn lại cuộc chém giết, chỉ thấy:
Đầu thì dụ địch, giả chểnh mảng, vu vơ
Sau mới giao phong, vẻ hào hùng, hăm hở
Phút chốc quân sau ùn tới
Thinh lình mai phục đổ ra
Pháo nổ rầm trời
Trống khua dậy đất
Gặp thù ngõ hẹp, chật chội không múa được gươm lớn giáo dài
Chiếm thế gò cao, hung hăng cứ lăn bừa gổ cây đá lớn
Lửa bốc nhờ sức gió, tối tăm hai mắt như mù
Tên bắn không trúng người, vun vút một hơi là hết
Thương hỡi ơi!
Toàn quân chốc lát tan tành
Chủ tướng cũng đành thúc thủ.
Quan quân đã thua to cả rồi, Kha Thư Hãn cùng đám tùy tùng khoảng hơn trăm người ngựa, vượt qua đoạn sông Thủ Dương Sơn, theo hướng tây mà chạy vào cửa quan. Tàn quân về đến cửa quan, thì trời đã tối, trước cửa quan là ba đoạn hào vừa rộng vừa sâu lại thêm lũy cao để đề phòng giữ quân giặc. Tranh nhau vào cửa quan, trong cảnh tối tăm hoảng loạn, tha hồ mà rơi vào hào rãnh, chẳng mấy chốc lấp đầy, người ngựa phía sau, cứ thế mà dẫm lên, như đạp trên đất bằng. Hai mươi vạn ra trận, thua chạy trở về được khoảng hơn tám nghìn người.
Càn Hựu thừa thắng đánh vào Đông Quan, Kha Thư Hãn lui về mãi trạm dịch Quan Tây, yết bảng thu nạp quân sĩ bại trận, định sẽ đánh lại. Bộ hạ của tướng Phiên Hỏa Bạt Quy Nhân đều chỉ muốn hàng, vừa nghe tin quân giặc tới nữa, đã vội giục Kha Thư Hãn lên ngựa ra khỏi trạm dịch. Hỏa Bạt Quy Nhân bàn:
- Chủ soái cầm hai mươi vạn quân trong tay, một trận chẳng còn gì, mặt nào trông thấy thiên tử, lại thêm tể tướng ghen ghét, chẳng thấy chuyện Phong Thường Thanh, Cao Tiên Chi sao? Chi bằng hãy chạy về phía đông (1), tìm cách mà tự lo lấy vậy.
1 An Lộc Sơn khởi loạn vùng Đông Bắc, ý nói hãy hàng giặc.
Kha Thư Hãn đáp:
- Ta thân làm đại tướng, há có thể hàng giặc sao?
Liền xuống ngựa, Quy Nhân quát quân lính, kéo hai chân cùng bụng của ngựa Kha Thư Hãn, chẳng cho nói nữa, ra roi mà chạy. Chư tướng cũng có người không theo đều bị trói lại. Gặp tướng giặc là Điền Càn Chân, kéo binh đến tiếp ứng, đem Kha Thư Hãn cùng đồng bọn dắt đến trước hành doanh An Lộc Sơn.
Lộc Sơn lâu nay vẫn bất hòa cùng Kha Thư Hãn, nhưng giờ không phải lúc kể oán thù cũ, nên Lộc Sơn phủ dụ quy thuận. Kha Thư Hãn đành nghe theo. Hỏa Bạt Quy Nhân bắt đầu khoác lác kể công trước bè đảng, nhất là việc làm cho Kha Thư Hãn hàng vừa rồi.
Lộc Sơn nghe ra, đùng đùng giận dữ:
- Quy Nhân phản bội triều đình, bức bách chủ soái, rõ là đồ bất trung bất nghĩa!
Liền lệnh chém đầu làm gương cho quân tướng. Thuở trước, Lộc Sơn xin dùng tướng Phiên, về sau lại làm phản, đều do công sức của Phiên tướng. Quy Nhân khoe khoang là Phiên tướng, lại dám múa lưỡi kể công, không ngờ bị Lộc Sơn giết chết.
Chính là:
Phản tặc không thể dung phản tặc
Tiểu nhân vẫn bản lĩnh tiểu nhân.
Kha Thư Hãn hàng giặc, Lộc Sơn phong làm tư không, bắt viết thư, kêu gọi Lý Quang Bật ra hàng. Quang Bật liền viết thư trách mắng. Lộc Sơn biết là không xong, liền bỏ tù Kha Thư Hãn ở phía hậu viện. Đời sau có người làm thơ than rằng:
Thư Hãn vốn tướng giỏi
Thua trận thực vô tội
Vì quyền gian giật dây
Đại tướng như con rối
Chưa nên đánh bắt đánh
Lòng tướng đã nguội lạnh
Nhục nước lại nhục thân
Ngàn thu vai nặng gánh.
Trận thua đau này, không thể lấy gì so được. Tin báo về triều đình, gây hoảng sợ không nhỏ.
Chính là:
Biên tái tướng quân tổn thất
Triều trung thiên tử kinh hồn.
Chưa biết sự thể ra sao, xin xem hồi sau kể tiếp.
@by txiuqw4