sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Vân Đài Loại Ngữ - Quyển 8 - Chương 5

Rồi [28b] lời trưng vời của triều-đình cứ đến luôn, cuối cùng Tạ-An phải ra làm Đài-phụ[1169].

Lý-Bí[1170] được vua Túc-tông quyến mộ, ông cố từ chức Tể-tướng, lui về ở núi Hành-sơn. Ông Nguyên-Tái[1171] và Thường-Cổn[1172] được tiến dụng trước, còn Lý-Bí thì trái lại vẫn lận-đận ở chức mạc-liêu[1173] trong tám chín năm một cách khoan thai, chẳng bao lâu ở chức Thứ-sử được thăng làm Tể-tướng.

Hai ông Tạ-An và Lý-Bí được sự ngưỡng vọng của đương thời rất trọng mà vẫn thản-nhiên phóng đãng vui thú, lúc đầu không để ý đến nhiệm-vụ lớn-lao mà trọng-trách của quốc-gia và thiên-hạ đều đặt nặng vào mình cho đến lúc không thể được từ chối. Đó há là duyên cớ trong một sớm một chiều hay sao? Tất nhiên vì cách tự xử bấy lâu vậy.

Hàn Ngụy-Công[1174] là bề tôi danh-tiếng của nhà Tống, thường lấy trong sách Biệt-lục của Nham-Tẩu[1175] sưu-tập, có nhiều cách-ngôn chí luận, nay xin chép ra sau đây:

Ông thường nói: “Năng bình đắc hữu kỷ chi tâm tắc hiền hĩ 能平得有己之心則賢矣 = dẹp được lòng ích kỷ là người hiền-năng.

Người ta chẳng ai [29a] là không nói được điều nầy, đến khi thực-hành thì đối với phần lớn là việc khó. Phải để ý vào điều nầy, chớ cho là dễ.

Ông lại nói:“Nội cương bất khả khuất, nhi ngoại năng xử chi dĩ hòa giả, tắc sở tế[1176] đa hĩ” 内剛不可屈,而外能處之以和者,則所濟多矣 = Ở trong cứng cỏi bất-khuất mà ở ngoài cư-xử được ôn-hòa thì nhiều thành-công lợi ích.

Ông lại nói: “Duyệt nhân đa hĩ, cửu nhi bất biến vi nan” 閱人多矣,久而不變爲難 = Xem xét người đã nhiều, lâu dài mà không biến đổi là khó.

Ông lại nói:“Dĩ chi ngộ tắc khả dĩ thành công, dĩ chi bất ngộ tắc khả dĩ miễn họa, kỳ duy hối hồ? ” 以之遇則可以成功,以之不遇則可以免禍,其惟悔乎? = Mong rằng gặp thời thì có thể thành công, không gặp thời thì có thể tránh khỏi tai họa, thì còn hối tiếc nữa hay sao?

Ông lại nói:“Nhân tình vi xứ, đương thâm thể chi. Nhược trực dụng kỷ ý dĩ xử, tắc sở thất đa hĩ” 人情微處,當深體之.若直用己意以處,則所失多矣 = Chỗ nhỏ nhen của tâm-tình con người, mình phải thông-cảm sâu xa. Nếu dùng thẳng ý-kiến của mình mà cư-xử thì nhiều thất bại.

Ông lại nói: “Tri kỳ vi tiểu-nhân, tiện dĩ tiểu-nhân xử chi, cánh bất tu giảo[1177] dã” 知其爲小人,便以小人處之更不須較也 = Biết họ là tiểu-nhân, thì lấy tiểu-nhân mà cư-xử với họ, hẳn là chớ so-đo.

Ông lại nói:“Quân-tử tuần lý nhi động, tình dĩ tự cư. Họa phúc chi lai phi sở hoặc dã” 君子循理而動,静以自居.禍福之來非所惑也 = Người quân-tử theo lẽ phải mà hành-động, bình tĩnh mà ăn ở, việc họa phúc đưa đến không làm cho họ rối loạn buồn phiền.

Ông lại nói: “Quả dục, sự tự giản” 寡欲,事自簡 = Ít ham muốn thì mọi việc tự nhiên sẽ giản tiện.

Ông lại nói:“Năng thức lý tắc sự sự vô ngại hĩ” 能識理則事事無礙矣 = Hiểu biết được lẽ phải thì mọi việc không bị trở ngại.

Ông lại [29b] nói:“Dục thành đại tiết, bất tranh tiểu phẫn” 欲成大節,不爭小忿 = Muốn thành việc lớn-lao, chớ tranh hơn thua việc giận cỏn-con.

Ông lại nói:“Phú quý dị đắc, danh tiết nan bảo” 富貴易得,名節難保 = Giàu sang thì dễ được, còn danh-dự và tiết-tháo thì khó bảo-toàn.

Ông lại nói:“Tại tướng-phủ hữu nan xử sự, cái thiên-hạ vô hữu tận như ý giả, tu đương hàm nhẫn. Bất nhiên, bất khả nhất nhật xử dã” 在將府有難處事,蓋天下無有盡如意者,須當含忍.不然,不可一日處也 = Ở phủ Tể-tướng có điều khó xử sự, vì thiên-hạ không có việc trọn như ý mình. Phải nhẫn nại. Nếu không như thế thì không thể ở một ngày ở phủ Tể-tướng được.

Ông lại nói:“Đãi uy nhi hậu tế giả diệc thị dã. Nhiên diệc hữu bất tu uy nhi năng tế giả” 待威而後濟者亦是也.然亦有不須威而能濟也 = Dùng uy-quyền để nên việc cũng là phải. Nhưng cũng có khi không cần uy quyền mà cũng nên việc.

Ông lại nói:“Đại thần dĩ Lý-Cố,[1178]Đỗ Kiều[1179]vi bổn. Kỳ tệ do khủng vi Hồ-Quảng[1180], Triệu-Giới[1181]. Dĩ Hồ Triệu tự xử, tệ khả tri giả dã” 大臣以李固杜喬爲本.其弊猶恐爲胡廣趙戒.以胡趙自處,弊可知者也 = Làm bậc đại thần thì lấy Lý-Cố và Đỗ-Kiều làm gốc, tệ nữa thì sợ làm như Hồ-Quảng, Triệu-Giới. Tự xử như Hồ-Quảng, Triệu-Giới thì mối tệ có thể biết được.

Ông lại nói:“Xử sự bất khả hữu tâm[1182]. Hữu tâm tắc bất tự nhiên. Bất tự nhiên tắc nhiễu” 處事不可有心.有心則不自然.不自然則擾 = Quyết đoán công việc chớ nên cố ý. Cố ý thì không tự nhiên. Không tự nhiên thì làm phiền rối.

Ông lại nói:“Tài khí tu chu khả đương bát diện nhập thô nhập tế, nãi kinh luân sự nghiệp” 才器須周可當八面入粗入細,乃經綸事業 = Tài-năng và độ-lượng phải đầy-đủ để đương với tám phía, to cũng vào lọt, nhỏ cũng vào lọt, mới mưu đồ được sự-nghiệp.

Ông lại nói:“Thành đại sự tại đảm” 成大事在膽 = Làm nên việc lớn-lao là nhờ ở gan mật.

[30a] Sách Nhan thị đàm lục chép: Phàm tướng nhân yếu vu đắc thất vinh nhục chi tế quan kỳ động phủ tiện khả tri kỳ khí chi đại tiểu, nhiên hậu kiến kỳ nhân chi tiền trình 凡相人要于得失榮辱之際觀其動否便可知其器之大小,然後見其人之前程 = Xem tướng mạo người nào, cốt xem người ấy có động tâm hay không ở lúc được mất và vinh nhục thì có thể biết độ-lượng của người ấy lớn hay nhỏ, rồi sau mới thấy được tương-lai của người ấy.

Sách ấy lại chép: Tác quan tu sự sự yếu tri, như canh lê chi cụ diệc yếu tri chế tác, cái lâm chính lợi dân diệc hữu tiện xứ 作官須事事要知,如耕棃之具亦要知製作,蓋臨政利民亦有便處 = Làm quan phải biết mọi việc, như lưỡi cày cũng phải biết chế-tạo, bởi vì làm việc chính làm lợi cho dân cũng có chỗ thuận tiện.

Sách ấy lại chép: Tác quan tu thả tọa nhi quan chi, cửu nhi hậu khả phát 作官須且坐而觀之,久而後可發 = Làm quan phải ngồi mà xem xét cho lâu rồi sau mới có thể ra lịnh mà xử trí.

Sách ấy lại chép: Bất hoạn tác văn tự bất tinh, hoạn bất năng trì thân dữ lập sự nhĩ 不患作文字不精,患不能持身與立事耳 = Chớ lo làm văn không tinh, hãy lo không thể giữ thân và gầy dựng sự-nghiệp.

Sách ấy lại chép: Phàm năng hư thụ nhân tắc vô thành phủ[1183]. Vô thành phủ tắc vô nghi, vô nghi tắc thành hĩ 凡能虚受人則無城府.無城府則無疑,無疑則誠矣 = Hễ thừa tiếp người mà không có cố-chấp thành-kiến thì không có điều bí-ẩn trong lòng. Không có điều bí-ẩn trong lòng thì không nghi ngờ. Không nghi-ngờ thì thành thật.

Sách ấy lại chép: Phàm tại Trung-thư giả, tự bình sinh độc thư, học thánh chi đạo cập khả dụng chi xứ, phản bất dụng chi, kỳ bổn tắc lợi lộc sở cốt, tắc thông minh hữu sở tế [30b] dã 凡在中書者,自平生讀書,學聖之道及可用之處,反不用之,其本則利祿所汩,則聰明有所蔽也 = Hễ người ở chức vị Trung-thư (Tể-tướng) mà trái lại không đem dùng những điều từ bình sinh đã đọc sách, học đạo của thánh hiền và những chỗ có thể dùng, thì căn bổn phải bị lợi lộc làm chìm đắm và trí thông-minh cũng bị che mờ.

Trương-Vịnh[1184] không lấy tai và mắt ủy thác cho người ta mà đi tìm hỏi việc trong dân gian, tất nhiên được sự thật.

Lý-Điển[1185] hỏi là ý làm sao?

Ông đáp:“Vì người ta có điều ưa ghét làm loạn trí thông-minh của ta. Nhưng ở mỗi người, ta theo đảng phái của họ mà hỏi” .

Ông lại nói:“Hỏi người quân-tử thì được quân-tử. Hỏi đứa tiểu-nhân thì được tiểu-nhân, tuy có giấu-giếm, mình cũng được tám chín phần mười sự thật rồi” .

Ông Âu-dương-Tu thường nói:“Phàm trị dân, không cần hỏi: viên chức nầy có tài-năng hay không? Cách thi-hành xếp đặt như thế nào? Hễ dân khen viên-chức ấy là tiện nghi, thì đó là viên chức tốt” .

Có người hỏi:“Ông làm việc chính khoan-dung giản-dị mà việc không bỏ bê là tại làm sao? ”

Ông đáp:“Lấy không bó buộc làm khoan-dung, lấy sơ-lược làm giản-dị thì công việc bỏ-bê mà dân phải chịu điều tệ hại. Tôi khoan-dung là không hà-khắc, tôi giản-dị là không làm phiền-phức” .

Người hiểu biết cho là ông biết nói.

[31a] Lý-Nhược-Cốc dạy học-trò trong nhà ông rằng:“Người ta phải thanh (trong sạch), cần (siêng năng), hòa (thuận hòa) và hoãn (thong-thả)” .

Các học-trò thưa:“Người ta phải thanh bạch, siêng năng, thuận hòa, thì đã nghe thấy giảng rồi. Còn thong-thả (hoãn) là để làm gì? ”

Lý-Nhược-Cốc đáp:“Trong thiên-hạ bất cứ việc gì hễ làm trong hấp-tấp thì hỏng” .

Trong niên-hiệu Khai-nguyên (713-741) đời Đường, lời của vua Huyền-tông khuyên răn kẻ bề tôi có câu tự thành danh ngôn có thể làm phép tắc.

Dạy sứ-giả ở các châu tụ tập đến chầu có câu:

Kính kỳ-lão, tuất quỳnh[1186] độc, chính gian đạo, trượng cường hào, nhân bất cảm khi, lại bất cảm phạm, điền trù khẩn tịch, linh ngữ không hư, dao phú tất bình, bô đào tất phục, môn đỗ thỉnh thác, ngục vô trệ lưu. Nhược thị nãi vi phụng chức” 敬耆老,恤煢獨,正奸盜,杖强豪,人不敢欺,吏不敢犯,田疇懇闢,囹圄空虚,徭賦必平,逋逃必復,門杜請扥,獄無滞留.若是乃爲奉職 = Kính người già cả, thương kẻ mồ-côi và người già cả không con cái, sửa trị kẻ gian phi trộm cướp, đánh kẻ cường hào, thì người không dám dối trá, chức viên không dám xâm phạm, ruộng nương được khai-khẩn mở-mang, lao tù trống không, xâu thuế được nhẹ-nhàng, người trốn-tránh quay về, cửa đóng ngăn người đến cầu xin gởi gắm, việc xử án không đình trệ. Nếu được như thế mới là làm tròn chức vụ.

Dạy các Đô-đốc Thứ-sử có câu:

Chính tại dưỡng nhân. Thổ phiền tắc thảo mộc bất trường, thủy phiền tắc ngư biết bất đại tất dã. Khoan thứ quý hồ thanh tĩnh. Nghi vấn tật khổ, chửng bần lao, đỗ [31a] xâm ngư[1187], sát oan ngục, chí ư phú dịch vưu nghi tỉnh giảm. Kỳ hữu bất tiện ổn giả tùy sự điều tấu” 政在養人.土煩則草木不長,水煩則魚鱉不大必也.寬恕貴乎清静.宜問疾苦,拯貧勞,杜侵魚,察寃獄,至於賦役尤宜省減.其有不便穩者隨事倏奏 = Chính-trị là ở nuôi dưỡng nhân-dân. Đất xấu thì cỏ cây không cao, nước xấu thì cá ba-ba (cua-đinh) không lớn, đó là lẽ tất nhiên. Khoan thứ quý ở thanh-tĩnh. Phải thăm viếng người đau khổ, cứu giúp người nghèo khó lao nhọc, chận ngăn việc xâm đoạt, xem xét những án oan uổng. Đến như thuế-má và sưu-dịch, hơn hết phải giảm bớt, nếu có việc không ổn tiện thì tùy theo việc mà điều-trần tâu lên.

Dạy các viên sứ tụ tập về chầu có câu:

Nghi vấn tật khổ, sùng giản huệ, khuyến nông sắc, đôn học hiệu, lợi nhi vật hại, tĩnh tắc tự an” 宜問疾苦,崇簡惠,勸農穡,敦學校,利而勿害,静則自安 = Nên viếng thăm người đau khổ, chuộng giản-dị và ân-huệ, khuyến-khích việc cấy gặt, đôn-đốc việc học-tập, làm lợi chớ gây hại cho dân, trầm tĩnh thì tự yên.

Nhà vua lại bảo:“Đài sảnh xử phân bất tiện ư thời giả, cụ lợi hại tấu văn, vật y tùy dĩ tổn bách tính” 臺省處分不便於辰者,具利害奏聞,勿依隨以損百姓 = Các quan ở đài-sảnh[1188] phân-xử có điều gì bất tiện đối với thời-thế thì bày đủ những lẽ lợi hại mà tâu lên, chớ cứ noi theo mãi mà tổn hại đến trăm họ.

Dạy Đốc-tướng có câu: Biến vô tri chi tục vi bất bạn chi thần, tất dã nhân minh, tại hồ thanh chính. Nhược chi cao bất nhuận mao phát, vô kỳ bỉ đương ái quan lại như phụ mẫu, ngưỡng quốc gia như thiên địa. Chư phiên quy hàng, sắc loại phi nhất, phong tục vị thông, ngôn ngữ bất đạt, sở tại chư châu mục tướng nghi thường gia tồn tuất, thân kỳ oan, tận kỳ lý, vấn tật khổ, tri cơ hàn, [32a]công tư bất nghi hữu xâm, cự tế tất lịnh vô nhiễu 變無知之俗爲不叛之臣,必也仁明,在乎清正.若脂膏不潤毛髮,無期彼當愛官吏如父母,仰國家如天地.諸藩歸降,色類非一,風俗未通,言語不達,所在諸州牧將宜常加存恤,伸其寃,盡其理,問疾苦,知饑寒,公私不宜有侵,巨細必令無擾 = Muốn biến cái tục không hiểu biết thành kẻ bề tôi không phản-bội tất nhiên phải có nhân huệ sáng-suốt và do ở sự trong sạch chính đáng. Như dầu mỡ mà không làm trơn mướt lông tóc thì chớ mong họ thương quan lại như cha mẹ, ngưỡng trông quốc gia như trời đất. Các phiên thuộc quy hàng có nhiều giống người khác nhau, phong tục chưa thông, ngôn-ngữ không hiểu, thì các châu mục tướng sở tại phải thường thường hỏi thăm thương xót đến họ, giải tỏa nỗi oan uổng của họ, xét suy cho cạn lẽ, hỏi thăm nỗi đau khổ của họ, hiểu biết điều đói rét của họ, của công của tư không nên xâm phạm đến, việc to việc nhỏ hẳn nhiên chớ làm cho họ rối phiền.

Răn dạy các huyện lịnh có câu:

Vô đại vô tiểu, tất cung tất thân 無大無小,必躬必親 = Không kể việc lớn việc nhỏ, mọi việc mình tự làm lấy.

Răn dạy các quan có câu:

Thanh tĩnh giả chính chi bổn. Hòa bình giả quốc chi phúc 清静者政之本.和平者國之福 = Thanh tĩnh là gốc của chính-trị. Hòa bình là phúc của quốc-gia.

Răn dạy các quan ở ngoài có câu:

Châu huyện hữu hảo quan trưởng, đồng liêu khỉ cảm vi pháp? 州縣有好官長,同僚豈敢違法? = Ở châu huyện có trưởng quan tốt thì các đồng liêu há dám làm điều trái phép?

Răn dạy các quan Tuần-phủ có câu:

Ngự-sử xuất sử, cử-chi phi pháp, cẩu thân bất chính, an năng chính nhân 御史出使,舉止非法,苟身不正,安能正人 = Quan ngự-sử ra trấn nhiệm ở ngoài có những cử-chỉ phi-pháp, nếu bản thân không đứng-đắn thì làm sao sửa cho người đứng-đắn được?

Răn dạy các quan Thương-thư lang có câu:

Thượng-thư Lễ các, quốc chi chính bổn, như đãi ư chính, duy dưỡng vọng, án độc đỉnh ủng, điển lại thự cầu, dục sở tứ phương, hà dĩ thủ tắc? 尚書禮閣,國之政本,如怠於政,惟養望,案牘停壅,典吏受賕,欲使四方,何以取則 = Thượng thư bộ Lễ và Nội-các là căn-bổn của nền chính-trị quốc-gia, như biếng lười việc chính, chỉ nuôi danh vọng, giấy tờ đình trệ chồng chất, các điển-lại[1189] nhận của đút lót, như thế mà muốn sai khiến thiên-hạ trong bốn phương thì lấy gì làm phép tắc?

Những câu trên đây là những lời tinh thâm tha-thiết, người làm quan phải biết.

Đầu niên-hiệu Cảnh-hựu (1034- 1037) đời Tống Nhân Tông, quan ở Long-đồ các là Mai-Công-Chi ra làm Tri-châu ở Chiêu-châu có viết bài Chướng-thuyết[1190] cho khắc ở bờ [32b] đá như sau:

仕有五瘴

急征,暴敛,剥下,奉上,此租稅之瘴也.

深文以逞,良惡不白此刑狱之瘴也.

晨昏醉宴,废弛王事,此飲食之瘴也.

侵奪民利以寔私儲,此貨財瘴也.

盛揀姬妾以供聲色,此帷薄之瘴也.

有一於此,民怨神怒.得者必病.病着必殒,雖在毂下亦不可免,何但遠方而已.仕者或不自知,乃歸咎於土瘴不亦谬乎?

SĨ HỮU NGŨ CHƯỚNG:

1) Cấp chinh, bạo liễm, bác hạ, phụng thượng, thử tô thuế chi chướng dã.

2) Thâm văn[1191] dĩ sính, lương ác bất bạch, thử hình ngục chi chướng dã.

3) Thần hôn túy yến, phế thỉ vương sự, thử ẩm thực chướng dã.

4) Xâm đoạt dân lợi dĩ thực tư trừ, thử hóa tài chi chướng dã.

5) Thịnh giản cơ thiếp dĩ cung thinh sắc, thủ duy bạc chi chướng dã.

Hữu nhất ư thử, dân oán thần nộ. Đắc giả tất bịnh. Bịnh giả tất vẫn, tuy tại cốc hạ[1192] diệc bất khả miễn, hà đãn viễn phương nhi dĩ. Sĩ giả hoặc bất tự tri, nãi quy cửu ư thổ chướng bất diệc mậu hồ?

Dịch nghĩa:

Người làm quan có năm cái tệ hại:

1) Thúc giục thuế gấp quá, thu thuế nặng-nề quá tàn-bạo, bóc lột kẻ dưới, cung phụng người trên, đó là cái tệ hại về thuế má.

2) Dùng pháp-luật thâm-khắc để sính ý, không phân biệt người lương-thiện kẻ gian ác, đó là cái tệ hại về hình án.

3) Sớm tối say-sưa yến-tiệc, bỏ phế việc của vua, đó là cái tệ hại về ăn uống.

4) Chiếm đoạt mối lợi của dân để chứa đầy của tích trữ riêng, đó là cái tệ hại về tiền của.

5) Chọn hầu thiếp cho nhiều để cung ứng về âm-nhạc và nữ-sắc, đó là cái tệ hại về phòng the.

Có một trong những cái tệ hại nầy thì sẽ bị nhân-dân oán ghét, thánh thần phẫn nộ. Mắc phải những tệ hại ấy thì bị bịnh, đã bịnh thì phải chết, tuy ở tại kinh-đô cũng không thể tránh khỏi được, nào chỉ ở phương xa mà thôi đâu.

Làm quan, có người không tự biết như thế lại đổ tội cho chướng khí và phong-thổ thì chẳng là lầm hay sao?

Lời nói nầy, người làm quan phải ghi khắc bên chỗ ngồi[1193] để tự giới răn.

Sách Tây-sơn Chân thị[1194]tập chép bốn châm-ngôn của Vương-Mại[1195] như sau:

一曰:律巳以廉,惟士之廉猶女之潔,苟一毫之點污爲終身之玷缺.

無謂暗室,昭昭四知,汝不自爱,心之神明其可欺乎? 黄金五六駝,胡椒八百斛,生不足以爲榮,千載之後有余戮.

彼美君子,一鶴一琴,望之儼然清風古今.

二曰:撫民以仁,古者於民饑渴猶己,心誠求之若保赤子.

嗚呼!入室笑語飲醴囓肥,出則搞撲,曾痛痒之不知.人心不仁,一至於斯.

淑問之澤一世猶祀.酷暑之後,今其餘幾? 誰甘小人而不爲君子?

三曰:存心以公,厚姻婭,近小人,尹氏所以不平於秉鈞.

開誠心,布公道,武侯所以獨優於王佐.故曰:本心日月,利欲食之.

大道康莊,偏見窒之.德信偏,則枉道而惠奸.喜怒偏,則常僭而形濫,惟公則,生偏則生暗.

四曰:蒞事以勤,爾服之華,爾饌之豐,凡絲縷與穀粟皆民力乎爾供.居焉而曠厥官,食焉而怠厥事,稍有人心,胡不自愧.

昔者君子,靡素其餐,炎汗浹骨,日不辭艱,警枕計功,夜不遑安,誰為我師? 一范一韓.

Nhất viết: Luật kỷ dĩ liêm, duy sĩ chi liêm do nữ [33a] chi khiết, cẩu nhất hào chi điểm ô vi chung thân chi điếm khuyết.

Vô vị ám thất, chiêu chiêu tứ tri[1196], nhữ bất tự ái, tâm chi thần minh kỳ khả khi hồ? Hoàng kim ngũ lục đà, hồ-tiêu bát bách hộc, sinh bất túc dĩ vi vinh, thiên tải chi hậu hữu dư lục[1197].

Bỉ mỹ quân tử, nhất hạc nhất cầm[1198], vọng chỉ nghiễm nhiên thanh phong cổ kim.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx