sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Yêu thương và tự do - Chương 16 - Phần 1

Chương 16

THỰC TIỄN GIÁO DỤC CỦA

“YÊU THƯƠNG VÀ TỰ DO”

Một người bạn nói với con trai tôi: “Khi nhảy khỏi phi thuyền vũ trụ, cháu sẽ rơi vào vũ trụ!”. Con trai tôi nghĩ một lát nói: “Chúng ta hiện đang ở trong vũ trụ mà!”. Khái niệm của người lớn đã quá sai lệch. Con trẻ dùng đôi mắt của mình để nhìn nhận một thế giới khách quan, điều này không do ai dậy, mà đến từ nội tâm của trẻ, đến từ quá trình trẻ quan sát và thể nghiệm cuộc sống.

Tôi xin nói đến “cái đẹp và môi trường” trước. Đối với chúng tôi, đầu tiên môi trường là một loại cảm giác, chúng tôi mong muốn một môi trường đơn giản sạch sẽ, sáng sủa rõ ràng, hài hòa. Giáo dục Montessori có một quy định về màu sắc cho việc bố trí môi trường của lớp học. Các cô có thể lựa chọn một trong ba màu trắng, hồng, kem để làm màu cơ bản trong lớp học của mình.

Kiểu dáng và kích cỡ của đồ dùng gia đình cũng phải phù hợp với trẻ nhỏ, nên cũng có quy định. Việc cô giáo cần làm là làm đẹp môi trường lớp học trên cơ sở này. Tôi sẽ không nói về “cái đẹp”, vì mỗi người có một quan niệm thẩm mỹ khác nhau. Cũng giống như việc nhà bạn phải khác nhà tôi, phong cách của tôi không giống với phong cách của những người khác. Vì thế, mỗi người sẽ bố trí lớp học theo thẩm mỹ cá nhân của mình. Có cô giáo đem hoa ở nhà mình đến, có cô lại mang túi, mang sách…, lớp nào cũng rất đẹp, rất trang nhã. Nhưng phải ghi nhớ một điểm, thẩm mỹ của trẻ em cao hơn người lớn, nên không thể chủ quan mà cho rằng những bức tranh hoạt hình thiếu thẩm mỹ và gây cười sẽ có ích cho bọn trẻ, vì đó hoàn toàn chỉ là cảm giác và nhận định của người lớn. Khi các cô giáo treo trong lớp những bức danh họa của những họa sĩ nổi tiếng trên thế giới, chúng tôi đã phát hiện có một bé đứng đó nhìn chăm chú, cô giáo để ý thấy, bé đã đứng đó mười bốn phút. Vì thế, khi bố trí phòng học, phải lấy trình độ thẩm mỹ cao nhất làm điểm xuất phát, chứ không phải những cái gọi là “tâm hồn trẻ thơ”.

Chúng ta lại nói tiếp đến việc giảng bài như thế nào? Điểm đầu tiên cần ghi nhớ chính là lời Dante (1265 - 1321, nhà thơ, nhà thần học người Ý) đã nói: “Mỗi câu nói đều phải chính xác”. Chúng ta không nên hiểu câu này thành: “Nói được làm được, phải làm cho bằng được”, mà phải hiểu là: “Đừng nói những lời thừa. Đã nói thì không phải lời thừa, đã là lời thừa thì đừng nói”.

Về đồ dùng dạy học, giáo dục Montessori quy định không ai có quyền ép học sinh thao tác loại đồ dùng nào. Montessori nói, thông qua chế độ tự do, con trẻ sẽ bộc lộ khuynh hướng tự nhiên của mình ở trường học, chỉ có như vậy, trẻ mới tự biết mình cần thao tác cái gì, đi lấy đồ dùng dạy học nào. Vì thế ở trường Montessori, không có tiếng chuông vào lớp, không có tiết học cụ thể, trẻ tự do vào lớp học, tự do ra khỏi lớp. Ở giai đoạn này, trẻ được tự quyết định. Vì thế trường mầm non không có quy định bài này có giảng hay không, vì chúng tôi biết rằng, khi con trẻ mới bước vào phòng học, trẻ không thể có kỷ luật ngay. Trẻ phải qua một quá trình lâu dài, một quá trình hỗn loạn, mới dần dần hình thành nên khuynh hướng tự nhiên của mình, lúc đó cô giáo mới biết được con trẻ thích gì. Ở trạng thái ban đầu này, không có chỗ dành cho những tiết học tập thể, bởi vì khi cô giảng bài, có thể trẻ không nghe, cũng có thể trẻ sẽ ra ngoài. Điểm hứng thú của mỗi đứa trẻ bị phân tán thành nhiều điểm, trẻ lại chưa hình thành kỷ luật nội tại, nên các cô không thể ngăn trẻ ra ngoài, trừ phi là các cô khiến cho trẻ sợ hãi.

Thế nên, ở trường Montessori về cơ bản không có các tiết học tập thể. Con trẻ sẽ hoạt động dựa theo nguyện vọng của chính mình. Những bé mới vào trường dành phần lớn thời gian vào việc chơi đùa, ra ra vào vào, có lúc tụ tập làm ồn, có lúc đứng lên trên bàn, có lúc lại chui xuống gầm bàn… Nhưng hai tháng sau, khi trẻ đã tìm thấy những việc mình thích, có lúc trẻ chơi đi chơi lại một món đồ trong vườn trường, có lúc lại vào phòng học lấy một đồ dùng dạy học, rồi liên tục thay đổi đồ dùng dạy học. Trong quá trình này, trẻ dần dần học được cách quan sát, có được bước thành công đầu tiên, trẻ mới có thể bước vào trạng thái làm việc, cuối cùng là có được kỷ luật.

Ở trường Montessori dường như rất ít bài học tập thể. Chúng tôi gần như bỏ qua kiểu bài học tập thể vì nó không quan trọng. Vậy kiểu bài tập này nên dạy vào thời gian nào? Chính là khi con trẻ đồng thời đạt trạng thái tốt và bước vào thời kỳ nhạy cảm.

Montessori nói, hình thức đơn giản nhất của giảng bài là ngắn gọn, rõ ràng, khách quan. Đây cũng có nghĩa là điều chúng ta vừa nói, “Mỗi câu nói đều phải chính xác”.

“Rõ ràng” là một yêu cầu không dễ dàng. Trong quá trình giao lưu với chính con trai mình, tôi phát hiện ra, muốn nói một việc rõ ràng thật không dễ dàng gì, ví dụ như từ “kiêu”. “Mẹ ơi, sao câu này cũng là kiêu, câu kia cũng là kiêu thế ạ?”, con trai tôi hỏi. Đến hôm nay tôi vẫn không thể cắt nghĩa rõ ràng với con mình. Bởi vì tôi đã nói cả một tá những lý lẽ, đó cũng là một tá những khái niệm. Lấy khái niệm để giải thích khái niệm thì thật rối rắm với trẻ con. Trong quá trình tiếp xúc với trẻ, tôi cảm nhận thấy đây cũng là quá trình để các cô tự uốn nắn mình. Các cô tự rèn luyện và nâng cao tố chất của mình trong quá trình đối thoại và tiếp xúc với con trẻ.

Trong cuộc sống có biết bao nhiêu vấn đề chúng ta không hiểu, không rõ, điều đó bắt buộc chúng ta phải học tập. Ví dụ nói “vũ trụ”. Có một hôm, một người bạn của tôi nói với con trai tôi: “Khi nhảy khỏi phi thuyền vũ trụ, cháu sẽ rơi vào vũ trụ”. Con tôi lại nói: “Không phải, chúng ta đang ở trong vũ trụ mà”. Đúng vậy, chúng ta cũng là một phần của vũ trụ, tại sao lại rơi vào vũ trụ? Rõ ràng là con tôi đã xây dựng đúng khái niệm này. Khái niệm của người lớn đã sai quá nhiều. Trẻ con quan sát, sau đó nắm bắt và xây dựng khái niệm chính xác.

Có một lần, mẹ một cháu nói với tôi, cứ chín giờ tối là chị bảo con đi ngủ, nhưng giờ đó con gái chị đang xem hoạt hình nên không muốn ngủ. Chị liên tục đứng bên cạnh thúc giục, con gái chị cuống lên nói: “Mẹ không cho con tự do à?”. Mẹ nói: “Mẹ cho con tự do còn gì!”. Con gái nói: “Không phải, cứ đến chín giờ, mẹ lại nhốt tự do của con trong cái đồng hồ!”.

Trước 6 tuổi, con trẻ xây dựng khái niệm dựa trên những trải nghiệm của mình với cuộc sống và sự vật chứ không dựa trên những điều học được từ người khác.

Có một lần, vì con trai làm sai nên chồng tôi đã nổi nóng, con tôi khóc mãi. Tôi ôm con lên và nói: “Bố yêu con, chỉ là bố quá nghiêm khắc”. Con tôi không khóc nữa, suy nghĩ một lúc, rồi nói với tôi: “Mẹ ơi, phải nói thế này, có lúc bố yêu con, có lúc lại không yêu”. Tôi cảm thấy thật may mắn, con tôi có thể hiểu ra hiện thực khách quan, nên chắc chắn cũng sẽ hiểu ra chân lý. Điều này có được không phải do ai dạy trẻ, mà đến từ bản thân trẻ, đến từ sự khái quát cao độ và sự thể nghiệm của trẻ đối với cuộc sống.

Một giáo viên Montessori ưu tú trước tiên sẽ không giảng giải gì, mà chỉ đảm bảo sự tự do cho trẻ. Nhớ lại quá trình trưởng thành của chúng ta, bao nhiêu quan niệm và khái niệm không đến từ những trải nghiệm của bản thân mà đến từ thế giới bên ngoài, đến từ bố mẹ, cô giáo và một đống những kiến thức sách vở không phù hợp với cuộc sống thực tế. Khi chúng ta trưởng thành, phát hiện thế giới không giống như những điều mà người khác hoặc sách vở đã nói, lúc đó chúng ta đã không thể xây dựng những thứ của chính mình. Có một lần, bác bảo vệ lớn tuổi trông vườn sau của chúng tôi trách mắng một bé, bé nhào vào lòng mẹ khóc nói: “Ông ấy nói dối, tại sao ông ấy lại thế, ông ấy còn là ông nữa”. Mẹ nói: “Ông ấy già rồi, con…”. Bé vẫn hét lên: “Không phải! Ông ấy chưa hề được yêu!”. Tôi tin rằng, ngày hôm nay, 70% người lớn chúng ta không biết thế nào là yêu, hoặc không hiểu rõ ràng khái niệm yêu là thế nào.

Con trẻ thường hay hỏi tại sao, cái gì? Nếu chúng ta không thể cho trẻ một câu trả lời chính xác, thì điều đầu tiên yêu cầu các cô là, nếu các cô không hiểu thì đừng bịa đặt lung tung. Trường chúng tôi có một cô ban đầu cũng có tật này, cô ấy không biết giáo dục Montessori yêu cầu mình làm thế nào, nhưng có thể tưởng tượng bà Montessori đang bảo mình làm thế này. “Cô ơi, tại sao lại thế này?”. Cô giáo nghĩ một lúc, rồi tự bịa ra câu trả lời. Tôi hỏi cô: “Tại sao cô không tra sách?”. Cô giáo nói: “Em cảm thấy chắc là thế”.

Trước đây tôi cũng đã nghĩ rằng, tưởng tượng một chút là có thể trả lời câu hỏi của con trai mà không cần quan tâm xem điều đó có đúng không, bởi vì người lớn luôn cảm thấy đúng hay không trước mặt con trẻ cũng không hề mất mặt. Nếu chúng ta nói với con: “Cô không biết cái này, chúng ta cùng đi tra sách nhé”, như thế kết quả có thể hay hơn nhiều. Tôi đã đọc câu chuyện trong một tạp chí về một du học sinh Trung Quốc đi dạy gia sư ở Mỹ, một lần bị học sinh hỏi liên tục mà cảm thấy rối tung, bạn gia sư này nói: “Cháu mà hỏi nữa thì mèo bắt đấy”. Mẹ cháu đang nấu cơm nghe thấy câu nói này, chị nghiêm khắc chỉ ra vấn đề và dừng ngay việc nấu cơm lại, mang cuốn “Bách khoa toàn thư” ra giảng cho con nghe “những động vật họ mèo”. Chị không muốn con mình còn nhỏ mà đã lại xây dựng khái niệm “mèo” một cách đáng sợ như vậy.

Chồng tôi hay lôi sói xám ra để dọa con. Bạn thử nghĩ xem nếu chúng ta thường xuyên nhắc đến việc sói xám sẽ ăn thịt con, buổi tối nào trước khi đi ngủ cũng dọa để con ngủ sớm, liên tục như thế thì hình ảnh sói xám trong đầu óc con trẻ sẽ thế nào? Trong một lần trắc nghiệm về trí lực có sử dụng hình ảnh của sói và dê. Tuyệt đại đa số trẻ nhìn thấy đều nói: “Sói xám ăn thịt dê”. Con tôi chẳng sợ gì, chỉ sợ mỗi sói xám. Sau đó, khi cô giáo giảng đến loài cáo, con tôi hỏi: “Cô ơi, cáo có đến lớp chúng ta được không?”. Cô giáo nói: “Tất nhiên là không, cáo ở trong rừng sâu, hoặc ở trong vườn bách thú, sao có thể đến lớp học được?”. Sau khi suy luận, con tôi cho rằng sói cũng không thể đến được. Khi về nhà, cháu nói: “Mẹ ơi, bố là kẻ lừa đảo, sói ở trong rừng sâu, hoặc ở trong vườn bách thú, không thể chạy đến đây được”.

Mẹ tôi không muốn cháu ra mương nghịch nước, nên nói ở đó có “con ma nước”. Con tôi hỏi: “Mẹ ơi, con ma nước là gì ạ?”. Tôi nói: “Con ma nước là con quỷ nước đấy”. Con tôi nghe xong thì cười hì. Nó không sợ. Nhưng từ hôm đó trở đi, con tôi không ở một mình với bà ngoại nữa, nó bảo: “Bà ngoại nói dối. Bà bảo có con ma nước, nhưng kỳ thực là không có! Thế mà bà bảo là yêu con, con không tin bà nữa”. Sau đó tôi cảm nhận thấy, nếu chúng ta không xây dựng cho con trẻ một khái niệm chính xác, điều đó có thể ảnh hưởng đến cả cuộc đời chúng, bởi vì có thể cả đời này bạn sẽ sử dụng một khái niệm không thay đổi được hình thành từ thời niên thiếu. Đây là điểm đầu tiên.

“Rõ ràng” chính là không nói lời thừa. Ví dụ nói về hình vuông, giáo viên khi giảng bài thường nói với học sinh: “Các con nhìn xem!”. “Các con nhìn xem” chính là lời thừa. “Các con nhìn xem, đây là hình vuông, hình vuông có bốn cạnh bằng nhau…” liệu có phải là lời thừa không? Toàn là những lời thừa. Giảng đến hình tam giác, “Các con nhìn xem, trong tay cô đang cầm cái gì nào? Đây là hình tam giác, hình tam giác có ba góc, một góc, hai góc, ba góc”. Toàn là những lời thừa. Phương pháp đúng đắn là, cầm hình tam giác lên, nói: “Hình tam giác”. “Cái nào là hình tam giác?”. “Cái này”. “Đây là cái gì?”. “Hình tam giác!”. Đây chính là cách giảng theo “tam đoạn thức”.

Tôi đã tiến hành phương pháp giảng “tam đoạn thức” với chính con mình. Có một lần chúng tôi đến vùng nông thôn tìm thợ làm vườn nghệ thuật. Ngoài cổng đang có một con bò kêu “ò ò”. Tôi nói với con: “Con nhìn xem, đây là con bò. Con bò cho chúng ta sữa uống hàng ngày. Đây là phân của con bò”. Tôi nói với con bao nhiêu là thứ, lúc đó con tôi hơn 2 tuổi. Nói xong, chúng tôi lại ra sau vườn, ở đó có một cái chuồng lợn. Tôi sử dụng phương pháp tam đoạn thức. Tôi chỉ vào con lợn nói: “Lợn, lợn”. Tôi lại hỏi: “Đây là con gì?”. Cháu nói: “Lợn”. Đến chiều, tôi nhớ đến thực nghiệm này, liền bế con đến chỗ con bò, hỏi: “Đây là con gì?”. “Không biết”. Tôi lại bế con ra chuồng lợn: “Đây là con gì?”. “Lợn”. Thật là hiệu nghiệm! Sau đó tôi thường bế con ra ngoài, dùng phương pháp “tam đoạn thức” để dạy con, cháu nhớ rất tốt. Nếu không dùng phương pháp này thì cháu quên nhiều hơn, nhớ ít hơn. Đây có thể là một trong những nguyên nhân khiến cho khái niệm của con trẻ không rõ ràng.

“Rõ ràng” là một cách hay để dạy con trẻ. Nó bóc tách từ ngữ, chỉ thẳng vào đối tượng. Nó loại bỏ những “sóng nhiễu” xung quanh đối tượng chú ý, trực tiếp chỉ ra từ ngữ chính của hoàn cảnh tức thời. Làm nổi bật từ ngữ chính, bỏ qua những thứ vặt vãnh chung quanh - phương pháp này vô cùng đối ứng với đặc điểm “ngôn ngữ điện báo” trong thời kỳ đầu của con trẻ.

Một giáo viên Montessori ưu tú sẽ không có một lời thừa nào. Cô giáo dài dòng lôi thôi sẽ khiến con trẻ rối loạn, bởi vì cô không cách ly con trẻ với khái niệm cần nắm bắt, cô cũng không thể biết trẻ đang chú ý vào câu nói nào của mình. Ví dụ nói về màu sắc, khi tôi đến một trường mầm non ở Bắc Kinh, một cô giáo đang giảng: “Các con nhìn đây, đây là quả bóng bay màu đỏ… các con nhìn xem lớp chúng ta có những màu gì?”. Lúc thì lớp học, lúc thì quần áo, lúc thì…, con trẻ không thể hiểu sao mà lại lắm khái niệm đến thế? Tất cả lộn xộn hết lên.

“Rõ ràng” là phương pháp quan trọng nhất trong giáo dục Montessori, phương pháp này cố gắng cách ly một khái niệm với những sự vật khác. Cũng giống như việc ta sắp đũa khi ăn cơm, chúng ta muốn dùng những đôi đũa để xây dựng khái niệm số cặp ở trẻ, nhưng con trẻ lại tập trung toàn bộ sự chú ý của mình để xem ai còn thiếu đũa chứ không hề tập trung vào bản thân con số. Điều này đã đi chệch khỏi mục đích, cũng chính là những “thứ thừa” trong mục đích giáo dục vốn dĩ của chúng ta.

Trí nhớ của con trẻ rất lạ lùng, giống như những bức tranh âm tiết mà chúng tôi đã nói ở trên. Chữ “A” trong bức tranh bác sĩ cầm ống nghe, một em bé há miệng rất to: “A…”. Chữ “O” trong bức tranh con gà trống. Chữ “E” trong bức tranh em bé. Khi chúng tôi chỉ vào chữ “A”, các con nói “Ống nghe!”, chỉ chữ “O” hỏi: “Đây là chữ gì?”. “Con gà trống”. Chỉ chữ “E”, các con nói “Em bé!”.

Dùng tranh trợ giúp trí nhớ là phương pháp ghi nhớ có tính phụ trợ, có ích cho người già, có ích cho người có trí nhớ kém, người có bộ óc đã chịu tổn thương mà không hề có bất cứ ích lợi nào cho con trẻ. Không những là không có ích, mà còn đem lại hậu quả tệ hại, đều là những “thứ thừa”. Vì thế, trường chúng tôi đã dán giấy trắng che đi toàn bộ phần hình ảnh, rồi mới hỏi: “Đây là chữ gì?”. Trẻ đáp: “A”. “Đây là chữ gì?”. Trẻ nói: “O”. “Đây là chữ gì?”. Trẻ nói: “E”. Trẻ được trực tiếp nhìn thấy bản thân chữ cái, từ đó trở đi, nếu trẻ thấy chữ trên ti vi, trên màn ảnh rộng, cho dù là chữ gì, trẻ cũng sẽ nói: “Đây là chữ cái”. Rõ ràng trẻ hiểu được chữ cái là một ký hiệu trừu tượng, trẻ đã xây dựng được khái niệm “chữ cái” cho mình.

Tôi xin nói thêm một mẩu chuyện vui về phương pháp ghi nhớ có tính phụ trợ. Bức tranh dạy chữ “Q” vẽ hai mẹ con trâu nghé đang đi dạo bên một gốc cây và đống rơm, xa xa là những ngôi nhà, núi non…, nói chung là phong cảnh làng quê. Rất nhiều đứa trẻ vừa nhìn thấy đã bảo con trâu. Có thể lúc này trẻ đang ở thời kỳ nhạy cảm, thích thú với những con vật, nên không hề để ý đến những thứ xung quanh. Những đứa trẻ lớn hơn thì lại nói “Nhà”… Thật là hay ho! Tôi nghĩ, không có ai giải quyết vấn đề này? Chỗ nào cũng có lời thừa, vật thừa. “A” phải chính là “A”, “O” phải chính là “O”, “Q” phải chính là “Q”.

Giáo viên của chúng ta soạn giáo án, viết mục tiêu dạy học, viết phương pháp dạy học, nhưng dạy học thực sự là thế nào? Một hôm, tôi bảo con thao tác “thẻ số”, con thao tác một lượt với tốc độ nhanh nhất, rồi nói với tôi: “Được chưa mẹ? Con cất đi nhé?”. Ý của con là: Mẹ đã vừa ý rồi chứ! Tôi nói: “Mẹ dạy hay là con tự học được điều này?”. Con tôi nói: “Con tự học ngày kia”. Con tôi còn chưa biết cả hôm qua, hôm kia, ngày kia, thì tôi nên dạy toán cho con như thế nào?

Có lần trong phòng học, một bé 2 tuổi đi thẳng tới, khuôn mặt không hề biểu lộ cảm xúc, đặt phịch mông xuống, ngồi cả lên tấm thảm làm việc của em bé phía sau. Em bé này đang đổ đầy bản cắm đinh ra đất, thấy vậy thì lấy bàn chân nhỏ xíu đạp vào mông bé đằng trước. Đạp một cái, em bé chúi về phía trước một tí, rồi đạp liền mấy cái, nhưng dù có đạp thế nào, em bé vẫn ngồi yên ở đó mân mê mấy con số của mình, “8”, “5”… liên tục như thế. Sau đó em bé kia phát hiện có đạp cũng không ích gì, đành mặc kệ. Em bé 2 tuổi vẫn hoàn toàn không biết gì, vẫn ở đó mà mân mê thẻ số… Đây thật là một cảnh tượng mê đắm lòng người! Hóa ra, khi học tập trẻ em có thể tập trung đến vậy. Thật là đẹp!

Khi thu dọn đồ dùng dạy học, tôi đặt theo thứ tự: “10”, “9”, “8”…, em bé thấy vậy, lại xếp ngược lại. Xếp “1” ở đầu tiên, rồi “2” cho đến hết thì mới vừa ý. Như vậy, “trật tự” của em bé này đã được thiết lập.

Điểm quan trọng thứ ba trong việc dạy học là “khách quan”. Montessori nói: “Trong lúc giảng bài, người giáo viên không được thể hiện cá tính của mình mà phải làm nổi bật đối tượng khách quan mà học sinh đang chú ý tới”. Ví dụ khi cho trẻ nhận biết màu sắc, chúng ta chỉ hướng sự chú ý của trẻ tập trung vào màu sắc, tránh việc trẻ chú ý tới giáo viên. Bởi vì tính cách và thói quen của mỗi giáo viên là khác nhau. Tôi phát hiện các bé ở trường chúng tôi có các hành động tương tự một số hành động của cô giáo. Sau đó, tôi quan sát kỹ hơn, do trong trường có cô để tóc dài, khi làm việc, tóc cô thường xõa xuống phía trước nên phải lấy tay vuốt ra phía sau. Lâu dần, các bé cũng học theo cô y như vậy. Vì thế tôi yêu cầu các cô phải búi tóc lên, vì khi các cô đang làm việc, nếu tóc tai lòa xòa, sẽ xao nhãng sự chú ý của các bé. Khi tính năng động của các cô quá mạnh, các bé không đạt được trạng thái khách quan. Tại sao giáo dục Montessori lại yêu cầu các cô phải quỳ thế nào, ngồi xếp vòng tròn ra sao, yêu cầu tất cả mọi động tác đều phải nhất quán. Điều này hoàn toàn là để quy phạm mọi hành vi của giáo viên.

Ngay cả việc đi bộ, mỗi cô có dáng đi khác nhau, dáng đi của mỗi lớp cũng khác nhau, có cô đi bước dài khiến học sinh đi như chạy theo sau, có cô đi khá chậm, nên các bé trong lớp cũng đi chậm theo. Khi ra đến ngoài, mỗi lớp đi một kiểu khác nhau.

Con trẻ đang phát triển. Khi con trẻ không đạt được khả năng của người lớn, chúng sẽ nhìn bạn, mô phỏng bạn và tiếp thu bạn. Giống như việc làm bánh sủi cảo của người Trung Quốc, có đến 90% kiểu dáng bánh của bạn là giống với bánh mẹ làm. Rất nhiều thói quen, phương thức hành vi của chúng ta được hình thành từ ngày nhỏ, sẽ được sử dụng trong suốt cuộc đời mà bạn không hề có cảm nhận trên tầng diện ý thức. Những thói quen và phương pháp này có thể đến từ môi trường của tuổi ấu thơ, mà ngay cả bản thân chúng ta cũng không hề biết.

Vì thế tôi yêu cầu giáo viên hết sức khách quan. Khách quan đến mức nào? Vứt bỏ hoàn toàn tất cả những thói quen không văn minh của các cô! Đừng có cho rằng quan niệm về đạo đức, giá trị, thẩm mỹ của các cô đều chính xác, và càng đừng bao giờ có ý đồ áp đặt lên con trẻ. Ngay như việc đi vệ sinh, tôi đã đến rất nhiều trường mầm non hàng đầu, trẻ phải đi vệ sinh ở một phòng chung, nhiều lúc còn có cả cô giáo đứng ở đó. Đứa trẻ nào cũng có tính xấu hổ bẩm sinh, con trẻ không thích có người đứng bên cạnh hay bị ai nhìn thấy khi đang làm những việc này. Nhưng không có ai tôn trọng điều này, người lớn không cảm thấy làm thế sẽ tạo ra những hậu quả gì. Hãy nhìn thế giới của những người lớn mà xem, khạc nhổ bừa bãi, lớn tiếng xì mũi giữa bao nhiêu người, đâu có khác gì với việc đi vệ sinh ngay trước đám đông? Chúng ta đang phá hoại cảm giác xấu hổ của cả một lớp người kế tiếp.

Nghĩ cho kỹ, chúng ta chỉ còn cách cẩn thận kiểm điểm lại bản thân, cố gắng khắc phục mọi thành kiến, nhược điểm, và tầng ý thức thấp, cố gắng hết khả năng để nói những lời hay nhất, làm những hành động đẹp nhất trước mặt trẻ, mới có thể gọi là khách quan.

Một giáo viên tốt phải tổ chức tốt trật tự ở lớp, tạo cho con trẻ trạng thái khách quan để thoải mái làm việc không bị quấy nhiễu. Khi dạy học có thể sẽ xảy ra những tình huống như, con trẻ không có cảm hứng thì phải làm thế nào? Dừng lại. Trẻ có sai không? Không sai. Tuyệt đối không được nói “Con ngu (ngốc) lắm”, cũng không được ám thị trẻ. Vì con trẻ không có hứng thú với việc này, nên không được khiển trách trẻ. Montessori yêu cầu giáo viên nắm vững hai điểm: Một là, trong những trường hợp thế này thì trẻ không cần phải tiếp tục; hai là, đừng để trẻ cảm thấy mình đã sai, hoặc trẻ cảm thấy không hiểu vấn đề này. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể chờ đợi thời cơ, đến khi con trẻ có hứng thú sẽ tìm hiểu vấn đề này. Sự tự tin của con trẻ được xây dựng từ việc nắm chắc khả năng của mình, chứ không phải từ việc so đo trí thông minh của mình với người khác, bởi vì bạn mãi mãi không thể so trí thông minh của mình với bất cứ ai. Tự nhiên ban tặng cho mỗi người chúng ta một đặc tính độc đáo khác nhau, chúng ta không cần phải tự ti khi thấy bản thân mình kém hơn so với người khác về một điều gì đó, chúng ta phải phát triển bản thân mình, thì thế giới này mới trở nên phong phú và nhiều màu sắc. Hãy để con trẻ được phát triển bản thân mình trong một môi trường trật tự, đó chính là một thái độ khách quan vô cùng tuyệt vời.

Montessori từng kể một câu chuyện có tên “Người chú triệu phú của tôi”. Người chú tên là Fufu, khi học mầm non, trong một lần đang định ăn cơm thì phát hiện ra một bạn gái đang rất đói nên đã ấn phần cơm của mình vào tay cô bé kia và chạy đi. Sau khi chạy khỏi chỗ bạn gái vài bước thì đưa hai cánh tay lên che mắt. Lần đầu tiên Fufu có cảm giác xúc động, một sự xúc động lương thiện, Fufu không biết phải diễn đạt cảm giác ấy thế nào nên đã chạy đi. Cô bé kia đi đến, kéo tay Fufu xuống, hôn cậu một cái, Fufu cũng thuận theo, hôn và ôm cô bé kia. Montessori nói: “Lúc này lần đầu tiên Fufu cảm nhận được sự xúc động lương thiện”. Nhưng đúng vào lúc đó, cô giáo đang đứng ở đằng xa rít lên những tiếng chói tai: “Hai con đang làm gì thế hả? Về lớp học ngay”. Montessori nói: “Cảm giác xúc động lần đầu tiên của đứa trẻ đã bị giọng nói thô bạo kia bóp nghẹt”.

Montessori nói, sự gợi ý, khai sáng của cô giáo tương đương với điều gì? Giống như một người đang đi dạo bộ trong rừng sâu, yên tĩnh, vui vẻ, trầm tư, mặc cho thế giới nội tâm của mình từ từ hé mở. Lúc này, từ xa vẳng đến tiếng chuông du dương nhịp nhàng, tiếng chuông ấy thức tỉnh bạn, khiến bạn cảm nhận rõ ràng hơn sự tĩnh lặng và nét đẹp của nơi này. Sự gợi ý, khai sáng của người lớn chính là tiếng chuông giúp cho những cảm giác mông lung của con trẻ trở nên rõ rệt.

Tuy rằng trẻ em có một tiềm năng to lớn, nhưng trẻ cần một quá trình phát triển từ từ. Quá trình ấy cần sự gợi mở của người lớn. Đồ dùng dạy học chính là công cụ để những năng lực tiềm tàng của trẻ được thực thể hóa, đồ dùng dạy học là môi trường tự nhiên của trẻ. Nếu các cô mượn đồ dùng dạy học của trẻ, thì nhất thiết phải trả từng đồ dùng về đúng vị trí. Nếu đồ dùng dạy học không về đúng vị trí, liệu cô giáo có đủ năng lực để sáng tạo ra những đồ dùng dạy học tốt hơn không? Nếu không, con trẻ sẽ không được sử dụng đồ dùng dạy học đúng mục đích, bởi vì trẻ không có được thứ mình cần thì trẻ sẽ “chơi” chứ không phải là “làm việc” với đồ dùng dạy học. Vì thế, thao tác đồ dùng dạy học cần phải chuẩn xác, như những linh kiện tiêu chuẩn của xe hơi, đây là yêu cầu đối với các cô, chứ không phải yêu cầu đối với trẻ. Đồ dùng dạy học chính là môi trường khách quan phù hợp với cơ cấu trưởng thành nội tại của trẻ.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx