sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 1: Bị Bắt

Một du kích Việt Nam gầy gò nhô ra khỏi lùm cây, chĩa thẳng mũi súng tiểu liên do Trung Quốc chế tạo vào người chúng tôi, và như thế chúng tôi đã bị bắt, chỉ năm phút sau khi mới vừa ngờ ngợ rằng có gì đó không ổn.

Beth là người đầu tiên nhận ra chiếc xe mướn của chúng tôi là vật duy nhất đang di chuyển trong cảnh đồng không mông quạnh của vùng quê Campuchia.

"Hình như không gian yên tĩnh một cách không bình thường?" Beth nói.

Mike và tôi đều đồng ý rằng xa lộ vắng vẻ một cách kỳ lạ vào giữa trưa một ngày đầu tháng 5 đầy nắng. Không một bóng người trên lối mòn bùn đất giữa con đường dầu hắc và những cánh đồng khô cháy trải dài đến tận chân trời. Không tiếng khóc trẻ sơ sinh, không tiếng nô đùa trẻ nhỏ, không tiếng chó sủa bâng quơ đâu đó quanh những căn nhà lá, suốt dọc đường chính từ Sài Gòn đến Phnom Penh.

Người cuối cùng mà chúng tôi đã gặp là một lính gác Campuchia cách hai dặm ở ngoại ô thị xã Svai Riêng, nơi mà người ta dùng những thùng đựng dầu để chặn đường.

"Có lính phía trước không?" Beth đã hỏi anh ta bằng tiếng Pháp.

“Có”

“Chúng tôi đi tới được không” Beth lại hỏi.

“Được, nhưng không ích lợi gì."

Một từ mơ hồ, nhưng có lẽ anh ta muốn khuyên chúng tôi nên cẩn thận.

Ngay cả quang cảnh của thị xã Svai Riêng cũng làm chúng tôi cảnh giác rồi. Nhưng lúc đó là đúng ngọ, nên cuối cùng tôi tự lý giải rằng thành phố đang nghỉ trưa. Vấn đề lớn nhất của chúng tôi vào thời điểm đó là làm sao cố đuổi kịp đội quân xâm nhập của Mỹ và Nam Việt Nam mà lúc đó chúng tôi tưởng là đang đi phía trước chúng tôi.

Lưu ý của Beth khiến chúng tôi lo lắng rằng mình đã phạm một sai lầm không thể tha thứ là đi vào vùng trắng (no-man’s-land) - một thuật ngữ thường dùng trong những cuộc chiến tranh quy ước cũ, nơi mà chiến tuyến đã được xác định rõ ràng. Nhữmg lính chiến hai bên mặc đồng phục và có thể phân biệt rõ ai là bạn, ai là thù. Trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, kéo dài 9 năm, không có một chiến trường như thế (1).

Các lực lượng Mỹ, quân đội Sài Gòn, các chế độ Vientiane, Phnom Penh kiểm soát được không phận và các thành phố lớn ở miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia, và như vậy, hầu như có thể đi lại thoải mái vào ban ngày. Nhưng ban đêm thì du kích cộng sản lại xuất hiện ở nông thôn và lẩn đi khi mặt trời lên. Phần lớn Đông Dương đã trở thành “vùng trắng" như vậy. Cả ba chúng tôi - Elizabeth Pond của tờ The Christian Science Monitor, Michael Morrow làm việc cho hãng tin Dispatch News Service International, và Richard Dudman thuộc tờ Sant Louis Post - Dispatch - đã đi trước lực lượng xâm nhập mà chúng tôi tưởng là mình đang theo sau và còn trước cả các toán trinh sát đặc nhiệm của lực lượng Mỹ.

Chúng tôi ý thức rõ tình trạng nguy hiểm của mình vì ngay sau khi Beth cảnh giác rằng chỉ có một mình chúng tôi ở đó, chúng tôi nhận ra con đường đã bị cắt bởi một chiếc cầu sụp đổ hoàn toàn. Không có một vọng gác hay dấu hiệu báo động nào, duy nhất chỉ là những nhịp cầu gãy cắm dốc ngược bên dưới. Mike, một tài xế lành nghề, cố gắng quay xe trở lại hướng Svai Riêng.

Chạy không hơn trăm thước thì một thanh niên mặc áo thun xanh đậm bước ra khỏi lùm cây rậm rạp hai bên đường. Anh ta chĩa mũi súng AK-47 vào chúng tôi và nói một tràng tiếng Việt. Mike nhanh chóng dừng xe lại. Chúng tôi ra khỏi xe với hai tay giơ lên cao. Mike rành tiếng Việt, nói với anh ta: “Chúng tôi không phải lính. Chúng tôi là nhà báo quốc tế. Chúng tôi không phải người Mỹ. Chúng tôi là người Canada."

Một thanh niên Campuchia cũng mang một khẩu súng tương tự xuất hiện bên cạnh anh du kích đầu tiên. Họ ra lệnh cho chúng tôi bỏ máy ảnh và móc tất cả vật dụng trong túi ra bỏ xuống vệ đường.

"Quay lại."

"Tôi sợ các ông bắn chúng tôi," Mike nói.

"Tôi không bắn các anh đâu," người du kích nói. "Hãy quay lại và đi xuống đường đó, hai tay giơ lên khôi đầu." Mike dịch mệnh lệnh này cho Beth và tôi, rồi chúng tôi bắt đầu đi.

Cảm giác của tôi pha lẫn giữa lo sợ và thích thú. Tôi ý thức rằng mình có thể bị bắn ngay và vùi trong một nấm mộ sơ sài nào đó.

Một ngày thật ý nghĩa. Thứ năm, ngày 7 tháng 5 năm 1970, sáu ngày sau khi Tổng thống Nixon tuyên bố gửi bộ binh Mỹ đến Campuchia để tiêu diệt những căn cứ địa cộng sản trên vùng biên giới, nhằm bảo vệ an toàn cho các lực lượng Mỹ đang chiếm đóng miền Nam Việt Nam. Cách đó bảy tuần, Lon Nol và Sirik Matak đã làm một cuộc đảo chính lật đổ Hoàng thân Norodom Sihanouk và biến chế độ trung lập vùng đệm Campuchia thành một đồng minh của Mỹ và chế độ Sài Gòn.

Tôi ý thức rõ rằng thật dễ hiểu khi chúng tôi bị nghi ngờ là ngươi thuộc lực lượng xâm lăng. Chiếc xe mà chúng tôi mướn đêm trước tại Sài Gòn trông chẳng khác gì một chiếc xe Jeep nhà binh, mặc dù nó đã được sơn màu xanh biển - loại xe dẫn đường dân sự quốc tế.

Nhưng cả ba chúng tôi thì trông chẳng có gì là lính tráng cả. Mái tóc đỏ của Mike đã bắt đầu dài và tóc mai của cả hai chúng tôi đều đã mọc khá dài. Chiếc đầu hói của tôi cho thấy tôi đã quá già để có thể đi lính. Tôi đã 52 tuổi, còn Mike mới 24 và Beth 33. Không ai mặc đồ nhà binh như những phóng viên Mỹ thường mặc. Mike khoác chiếc sơ-mi sọc thùng thình và chiếc quần đen. Beth mặc áo khoác màu sáng và quần thun đen. Cô cột tóc bằng một dải khăn lụa nâu sẫm. Cả Beth và Mike đều cận thị và đeo kính dày cộm. Cả hai đều mang xăng-đan da. Nếu không có áo khoác kiểu phóng viên, tôi ăn mặc trông như đang đi đảnh gôn hay chơi quần vợt: áo thun trắng với nhãn hiệu cá sấu nhỏ trên ngực và quần thể thao trắng. Ba chúng tôi đều không mang theo vũ khí.

Từ lâu rồi, cả ba chúng tôi đều là những người phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam. Tôi vốn lạc quan và cảm thấy an ủi với hy vọng đây là dịp đầu tiên tiếp xúc với “phía bên kia” của cuộc chiến mà tôi đã viết hơn mười năm qua.

Trong lúc cuốc bộ dưới cái nóng đẩy hơi ẩm của buổi trưa, sau khi leo xuống bên này cây cầu gãy rồi lại leo lên phía bên kia, chúng tôi bắt đầu bớt sợ. Cuối cùng, chúng tôi đã vượt qua những giây phút chết người ban đầu và vẫn còn sống. Điều phải làm bây giờ là thuyết phục các du kích rằng chúng tôi thật sự là những phóng viên dân sự. Mike và tôi cùng vượt lên trước những người khác. "Nếu sống sót," tôi nói “chúng ta sẽ có một thiên phóng sự tuyệt vời".

Mike cố bắt chuyện bằng tiếng Việt với người du kích mặc áo xanh, hỏi quê của anh ấy ở đâu. "Bến Tre" anh thanh niên trả lời. Đó là một địa danh miền Nam Việt Nam nơi mà một đại tá Mỹ từng tuyên bố: "Chúng ta phải tiêu diệt ngôi làng ấy để cứu nó," nhằm hình tượng hóa toàn bộ chính sách của Mỹ ở phần lớn Đông Dương. Câu trả lời của anh du kích cho thấy anh có lý do đặc biệt để thù ghét người Mỹ. Điều đó cũng hé lộ cho chúng tôi biết rằng anh ấy là người miền Nam. Có lẽ là một Việt Cộng, hay chính xác hơn là một người lính Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Bỗng từ xa, chúng tôi nghe thấy tiếng máy bay trực thăng. “Đi, đi, đi”- người du kích thứ nhất la lên. Chúng tôi chạy, hai tay che trên đầu Không có gì che chắn cả, ngoài nhưng tán cây xanh rậm rạp hai bên đường. Vài cây ngã đổ, nằm chắn ngang con lộ như dấu hiệu cấm đường Những đám mạ khô cháy trải dài mút mắt bị chia cắt bỏi nhữg bờ ruộng phủ đầy cỏ xanh và rải rác nhữg bóng dừa cao.

"Ném giấy thông hành của anh đi," Mike nói nhỏ. Tôi vẫn còn giữ giấy thông hành màu xanh của Mỹ trong túi, không muốn mâu thuẫn với lời nói dối của Mike rằng chúng tôi là người Canada bằng cách bỏ giấy thông hành xuống vệ đường cùng những thứ vật dụng linh tinh khác. Bây giờ tôi quyết định không để lộ nó ra, khi so sánh nguy hiểm giữa một bên bị phát hiện là người Mỹ và một bên bị phát hiện cố tình che giấu quốc tịch của mình. Tôi bắt đầu mệt nhoài: "Tôi không biết sẽ chịu đựng được đến bao lâu nữa'?" Tôi bảo Mike. Beth đang lết bết ở đằng sau. Hai hay ba du kích đạp xe đạp gia nhập đoàn chúng tôi từ những chỗ núp hai bên đường. Một người cho Beth ngồi lên phía sau xe và cô đã vượt qua chúng tôi với một nụ cười tươi rói.

Đi được chừng hai dặm, chúng tôi được lệnh phải rẽ xuống một đương mòn và dừng lại trước một túp lều tranh. Khoảng sáu người, cả nam lẫn nữ xuất hiện. Họ ra lệnh cho tôi và Mike cởi bỏ quần dài và cả ba đều phải tháo giày dép và giao cho một trong những du kích nam. Anh này ra dấu cho chúng tôi ngồi xuống một chiếc ghế dài thấp trong khi thọc tay vào túi quần và khám xét cả giày dép. Anh tịch thu thẻ thông hành, con dao bỏ túi và chiếc khăn tay, rồi trả đồ đạc lại cho chúng tôi. Anh cũng trả kính đeo mắt cho tôi. Lúc chúng tôi mặc áo quân, một phụ nữ Campuchia mắt đen, trùm khăn trên đầu, mang tới một thau nước và đặt trước mặt chúng tôi, nói một câu gì đó bằng tiếng Việt. "Chúng ta có thể rửa tay, rửa mặt," Mike nói. Nước mát lạnh thật khoan khoái. Một phụ nữ khác mang một ấm trà bằng sứ và rót trà nóng vào ba tách thủy tinh.

Sau mấy phút nghỉ ngơi, chúng tôi được lệnh ngồi lên yên sau của ba chiếc xe đạp tiếp tục khoảng đường mù mịt bụi. Ba thanh niên đèo chúng tôi đi hết nửa dặm đường, đến một căn nhà khác - một nhà sàn - với khoảng hai mươi người tập trung trên sàn nhà có tam cấp đi lên. Phần lớn đàn ông có mang vũ khí. Còn lại là phụ nữ và trẻ em. Nơi đây trông có vẻ là bộ chỉ huy. Chúng tôi ngồi trên một chiếc giường thô sơ ghép bằng ba miếng ván và cuộc thẩm vấn đầu tiên bắt đầu:

“Các ông là ai?" một thanh niên mặc sơ-mi đỏ hỏi bằng tiếng Việt.

“Chúng tôi lâ những nhà báo quốc tế," Mike trả lời. “Tôi là người Canada, cô này cũng vậy" (chỉ vào Beth) còn anh này là người Mỹ" (chỉ vào tôi). Tôi đã dặn trước Mike là tôi muốn nói rõ tôi là người Mỹ tốt hơn là che giấu.

"Các ông làm gì ở đây?"

“Chúng tôi đi từ Sài Gòn sáng nay. Chúng tôi chạy theo Quốc lộ 1 qua Campuchia nhằm quan sát và viết tin tức về kết quả cuộc tấn công của Mỹ và các lực lượng Sài Gòn. Chúng tôi không hề biết mình đã đi vào vùng giải phóng."

"Xe này của ai?"

Mike bảo với anh ta xe đó do chúng tôi mới mượn đêm qua của một người bạn Mỹ ở Sài Gòn và nhấn mạnh đó không phải là xe nhà binh. Chủ nhân chiếc xe là một trưởng đại diện ủy ban trách nhiệm cứu trợ trẻ em Việt Nam bị thương và bỏng do chiến tranh.

Cuộc thẩm vấn tạm dừng. Hình như có vẻ hợp lý. "Chúng ta sẽ phải làm việc lại sau khi tất cả những chuyện này chấm dứt," tôi nói với Mike và Beth. "Vì vậy ngay bây giờ, Mike, tốt nhất anh hãy nói với họ trả lại chúng ta giấy, bút để chúng ta làm công việc phóng viên của minh." Nhưng một câu hỏi khác cắt ngang. Người đầu tiên thẩm vấn có vẻ có thẩm quyền, nhưng rồi anh ta dừng lại để nhường cho một người già hơn, chừng 45 tuổi, với một mắt bị hỏng. Chúng tôi để ý ông từ trước, với vẻ ngạo mạn và thiếu kiên nhẫn. Ông mặc quân phục ka ki, không quân hàm.

“Chúng tôi nghĩ các ông là nhân viên CLA." ông bảo Mike bằng tiếng Việt.

“Không đúng. Chúng tôi là nhà báo quốc tế. Chúng tôi không làm việc cho chính phủ Mỹ."

"Vậy các ông làm gì ở đây?"

Mike lại kể về chuyến đi từ Sài Gòn lên đây cho đến khi bị bắt.

Người đàn ông chột mắt lắng nghe một cách lạnh lùng, rồi bỏ dở, xoay ra khám xét những vật dụng của chúng tôi, kể cả cái túi ngủ qua đêm, lôi từ trong xe ra. Không thấy các máy đánh chữ của chúng tôi đâu. Khi những du kích phát hiện cuộn tiền Việt của tôi, thì người chột mắt hỏi bao nhiêu. Tôi đoán chừng 35 ngàn đồng mà tôi đã đổi tối qua để trả tiền khách sạn Continental ở Sài Gòn. Một người khác đưa máy ảnh của Mike lên cao và chỉ vào vết nút trên ống kính lọc và thắc mắc nó có bị làm hỏng không.

“Nó chỉ là cái kính lọc thôi," Mike nói. “Ống kính không hỏng, và có lẽ có vết nứt là do khi tôi bỏ máy ảnh xuống đường. Không sao đâu."

Một thanh niên nhìn chiếc đồng hồ đeo tay của tôi. "Tôi muốn mượn cái này," anh ấy nói và tháo nó ra khỏi cổ tay tôi. Tôi bảo Mike: “Nói giùm với anh ấy là cứ lấy đi, nhưng nhớ đó là quà tặng của cha tôi nhân sinh nhật 21 của tôi, đã ba mươi mốt năm rồi." Tôi không hiểu tại sao tôi cứ nghĩ câu nói đó có thể làm sự việc khác đi hoặc không biết là Mike có dịch không, anh ta vẫn thường “kiểm duyệt” tôi khi anh nghĩ là nên làm như vậy. Thôi, coi như cái đồng hồ đó đã bị hôi của, nhưng sau một cuộc thảo luận nó được xem như vật chung, và được đặt lại vào chiếc túi ni-lông của Beth cùng tiền bạc và máy ảnh của chúng tôi.

Một phụ nữ trẻ khác quấn xà-rông in hoa và tấm khăn che đầu dẫn Beth lên cầu thang đến phòng chính của căn nhà. Họ trở lại vài phút sau đó. Beth đã được lệnh cởi bỏ quần áo để khám xét. Sự tôn trọng quyền riêng tư cá nhân đối với Beth cho thấy đó là một dấu hiệu lốt lành.

Một thanh niên Campuchia nói được một ít tiếng Pháp bảo với Beth rằng anh ấy là sinh viên ở Phnom Penh được “phép” tham gia cách mạng - một đặc quyền chỉ dành cho những người lính đã được huấn luyện. Anh ta rất thích thú khi biết Beth đã ở Tiệp Khắc nhiều tháng. Nhưng Người Độc Nhãn đã quát anh ta bằng tiếng Việt. Cuộc nói chuyện thân mật bị cắt ngang bất ngờ và anh thanh niên bỏ đi.

Một du kích Campuchia vào, đội nón vải ka ki lính Mỹ, với chữ “EU.N.K." trên vành mũ lật lên phía trước. Chúng tôi đoán chắc đó là những chữ viết tắt của Mặt trận Thống nhất quốc gia Campuchia “From Uni National du Kampuchiea), phong trào chính trị mới do Hoàng thân Sihanouk lãnh đạo được Hà Nội hậu thuẫn.

Một người trông lớn tuổi hơn đi vào nhà, một người Việt khoảng 45 tuổi, mái tóc muối tiêu của ông dựng đứng, đã lâu không cắt. Sau vài phút to nhỏ với Người Độc Nhãn, ông bắt đầu cuộc thẩm vấn mới với chúng tôi. Vẫn những câu hỏi tương tự, những câu trả lời tương tự. Chúng tôi là ai? Chúng tôi ròi Sài Gòn lúc nào?. Tại sao chúng tôi xâm nhập “vùng giải phóng"'? Ông ta cau mày như không tin mấy những câu trả lời của Mike. Đó là một cuộc đối thoại dài dằng dặc bằng tiếng Việt.

“Ông đi xe đạp được không?" viên sĩ quan Độc Nhãn hỏi Mike. Ông nói chúng tôi có thể tự mình đi xe đạp với sự hộ tống của bốn du kích, súng quàng vai, dọc theo con đường lầy lội với những lối rẽ vuông góc giữa những cánh đồng lúa.

Chúng tôi đạp xe khoảng hai dặm cho đến khi gặp một chiếc xe tải nhà binh hai tấn rưỡi đậu bên lề xa lộ dẫn tới một ngôi làng khác. Tấm bạt phủ trên xe và thân xe được ngụy trang bởi nhữg cành cây tươi mới bẻ. Chúng tôi có thể thấy rõ chữ Skoda phía sau xe, chứng tỏ đó là một trong những xe tải Tiệp Khắc viện trợ cho quân đội Sihanouk khi ông vẫn còn là lãnh đạo Nhà nước Campuchia và được những người linh đào ngũ đem theo khi ông bị lật đổ.

Hai người đàn ông ngồi tựa phía sau xe và ra lệnh cho chúng tôi bước lên thùng xe bằng cửa sau. "Họ bảo ngồi xuống sàn xe và không được nhìn ra ngoài," Mike nói. Chúng tôi bò trên những khúc gỗ ra sát phía trước thùng xe. Sáu người Campuchia, phần lớn ở độ tuổi 20, mang súng lục, súng trường và một khẩu súng máy nhẹ, leo lên xe theo chúng tôi, đứng canh khi chiếc xe lăn bánh chạy dọc xa lộ.

Một lính gác chĩa mũi súng AK-47 vào ngực tôi. Trong một phản ứng tự nhiên, tôi ra dấu cho anh ta chĩa sang chỗ khác, mà quên rằng tôi không được phép có bất cứ yêu cầu gì. Anh ta bèn nhích mũi súng chĩa thẳng vào đầu tôi và giữ mãi ở đó suốt phần còn lại của hành trình.

Tôi chỉ biết nhìn mặt trời mà đoán mình đi về hướng Bắc hay hướng Tây. Anh sinh viên Campuchia - thông dịch viên, đã đổi thái độ từ một người hướng dẫn dễ thương thành một chiến binh đầy quyền lực. Anh ta tựa phía sau xe mỗi khi xe chạy qua một khu xóm hay làng mạc, đưa lên ba ngón tay và kêu một điều gì đó có cả từ "người Mỹ". Người ta đã quên điều Mike nói rằng Mike và Beth là người Canada và xem cả ba chúng tôi là những tên Mỹ bị bắt. Tại hai ngôi làng đầu tiên, xe chúng tôi chạy chậm lại, và tôi chợt nhìn thấy một vòm cổng chào dã chiến bằng gỗ, cắm đầy hoa trang trí với những dải ni-lông xanh, hồng và một khung ảnh Sihanouk treo trên cao. Tại một điểm dừng, có người leo lên xe kiểm tra xem những cành cây ngụy trang có chắc không. Mỗi khi xe dừng người ta dành một khoảng thòi gian cho dân chúng được xem tận mắt những tù nhân.

Tại ngôi làng thứ ba, điểm cuối hành trình, dân làng có đến 15 hay 20 phút thay phiên nhau leo lên xe nhìn chúng tôi. Đàn ông, các cậu bé và một người đàn bà leo lên xe, dán mắt vào chúng tôi và giơ nắm tay ra. Một thanh niên lật ngửa bàn tay với móng vuốt như thể muốn cấu nát chúng tôi. Một ông lão má hóp và đôi mắt trợn trừng trèo lên mui xe rồi bắt đầu hét tướng lên và ra dấu với bàn tay mở rộng. "Ông ta bảo hãy nằm xuống," Mike thông dịch. Chúng tôi lập tức nằm úp mặt xuống, hai tay vươn ra. Điều này hình như càng làm ông lão tức giận hơn, cho đến lúc Mike hiểu ra là ông ta muốn chúng tôi ngồi xuống sàn xe thay vì ngồi trên đống gỗ nhỏ.

Dân làng càng lúc càng hỗn loạn, khi một thanh niên Việt Nam, mặc quân phục mà không đeo quân hàm, đến và ra lệnh cho họ tránh xa chiếc xe tải. Cả anh này nữa cũng hỏi chúng tôi là ai và làm sao chúng tôi có thể đến đây và bị bắt.

“Các ông sẽ không bị bắn đâu," anh ấy nói - “Nhưng chúng tôi phải bịt mắt các ông lại trước khi chúng tôi dẫn các ông ra khỏi chiếc xe tải này." Những mảnh vải Thổ Nhĩ Kỳ bịt quanh mắt và cột lại phía sau cổ chúng tôi chặt đến nỗi cằm chúng tôi b! kéo xuống sát ngực.

Một người nào đó đỡ tôi bằng tay, giúp tôi bước qua miếng ván chắn sau xe xuống đất. Mike, Beth và tôi cầm tay nhau. Tôi tự nhủ bịt mắt chỉ là để đề phòng an ninh mà thôi. Beth lại nghĩ khác “Tôi không cho rằng kết cục sẽ như thế," Mike an ủi Beth. Nhưng Mike nghĩ anh đã nghe một giọng Việt Nam nói là "người ta phải giết tù binh chiến tranh". Mike bảo Beth nên nói chuyện lần nữa với người sinh viên Campuchia và chúng tôi nghe chị thuyết phục bằng tiếng Pháp với người này rằng chúng tôi không phải là nhân viên quân sự. Mike đưa ra tên một người quen trong phái đoàn Bắc Việt Nam tại Paris - người có thể xác minh nhân thân của anh. Cái tên hình như chẳng có ý nghĩa gì đối với họ.

Chúng tôi bị trói ở cổ tay và dẫn ngang qua đám đông dân làng. Chúng tôi có thể nghe họ gào thét và thỉnh thoảng cảm thấy bị đấm sau lưng. Rồi tay của Beth được tháo rời khỏi tay tôi và những bàn tay giữ tôi và Mike bắt đầu lôi hai người chúng tôi đi theo một con đường gồ ghề. “Đi, đi, đi”. Lần đầu tiên tôi thật sự sợ hãi rằng chúng tôi bị mang đi hành quyết, nhưng tốt nhất nên tập trung vào mỗi một chuyện mà chúng tôi có thể - bước từng bước một. “Cẩn thận không thì trật mắt cá bây giờ" tôi bảo Mike. Chúng tôi nắm tay nhau cho khỏi ngã.

Dừng lại một chút. Ai đó nới lỏng nút buộc sợi dây quấn quanh cổ tay chúng tôi. “Đi, đi, đi”, một giọng nói, rồi chúng tôi nghe tiếng nổ của xe gắn máy. Xe chạy, kéo chúng tôi chạy theo sau rất nhanh. Những tiếng reo hò, những nắm đấm giục chúng tôi phải chạy nhanh lên. Mike động viên tôi và kêu lên bằng tiếng Việt, "Ông bạn tôi đã 52 tuổi rồi. ông ấy không thể chạy nhanh như thế này được." Chẳng ích lợi gì. Tôi vấp, gắng đứng dậy, luôn tự nhủ với mình, “Không được ngã. Không được trật mắt cá."

Chúng tôi chạy loạng choạng như vậy dọc nửa dặm đường hay hơn thế nữa cho đến khi không còn nghe thấy tiếng của dân làng và cảm thấy con đường mỗi lúc dày thêm bụi hay cát. Trong đầu tôi bỗng lóe lên hình ảnh thành phố Huế sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân, nhưng ngôi mộ tập thể mà tôi đã thấy trong những đụn cát bên ngoài thành phố. Tôi ngờ rằng một chuyện tương tự cũng sắp xảy ra đối với chúng tôi. Ý nghĩ đó không làm tôi sợ hãi cho bằng nuối tiếc và thất vọng tràn trề. Tôi tự nhủ: “Mình đang tuổi trung niên. Còn quá nhiều việc muốn làm. Giờ đây toàn bộ câu chuyện sắp sửa chấm dứt chỉ trong một hai phút nữa."

Chiếc xe gắn máy dừng lại. Một người nào đó thay miếng vải bịt mắt cho tôi, những ngón tay ấn mạnh miếng vải vào hốc mắt để chắc chắn là tôi không thể nhìn thấy. Tay vẫn bị trói chung, Mike và tôi được dẫn thêm vài bước nữa. Chân tôi vấp phải một bậc thềm và màu đỏ thẫm sau miếng vải cột mắt đổi thành màu đen khí chúng tôi "ra khỏi" ánh nắng chiều để bước vào bóng tối của một căn phòng có sàn nhà dơ bẩn.

Bỗng thình lình tôi nghe một tiếng "rắc" khô khan, và cảm thấy Mike ngã quy xuống đất với một tiếng rên. Tôi nghĩ anh ấy đã bị bắn và người kế tiếp sẽ là tôi. Nhưng đó chỉ là một cú đánh bằng cây quật vào sau gáy tôi tích tắc sau đó, khiến tôi ngã xuống. Tôi nằm đó, mắt vẫn bị bịt kín, sẵn sàng bị đấm đá, nhưng chỉ một lát sau, Mike bảo tôi có ai đó ra lệnh bằng tiếng Việt: "Đừng đánh họ nữa". Tôi được lôi ngồi dậy, tay trói quặt sau lưng, chặt đến nỗi sợi dây có thể đã làm máu ngưng lưu thông nếu trước đó tôi không gồng lên khi các nút được buộc. Tôi cảm thấy Mike ngồi sát bên tôi, thì thầm: "Họ kêu chúng ta dang chân ra." Trong khi ngồi chờ đợi, tôi nghe từ xa tiếng phụ nữ kêu rên vì đau đớn. Tôi đoán chắc Beth đang bị tra tấn. Cùng lúc với nỗi lo về điều có thể đang xảy ra cho Beth và sắp xảy ra cho chủng tôi, tôi côn cảm thấy khổ sở khi phải ngồi thẳng người trong tư thế hai chân dang rộng mà không có gì để tựa sau lung. Lúc đó, điều tôi muốn duy nhất là được tựa lưng vào cái gì đó hay được co chân lên.

Một giọng đàn ông quát vào Mike: "Tụi mày là gián điệp Mỹ phải không?" “Tụi mày là CIA, đúng không?"

"Không" Mike trả lời với giọng khẩn khoản. "Chúng tôi là nhà báo quốc tế. Chúng tôi không có quan hệ gì với Chính phủ Mỹ hay cuộc tấn công vào Campuchia cả. Chúng tôi chỉ cố gắng nói cho người đọc của chúng tôi biết sự thật về cuộc xâm lăng mà thôi. Điều quan tâm của chúng tôi chỉ là sự thật và hòa bình." Anh lặp đi lặp lại rằng anh có quen một thành viên của phái đoàn Bắc Việt Nam tại hội nghị Paris, người đó có thể giúp xác nhận nhân thân của anh.

“Còn bạn tôi là trưởng văn phòng tại Thủ đô Washington của báo Sant Louis Post - Dispatch, một trong những tờ báo lớn ở Mỹ, tờ báo luôn phản đối cuộc chiến tranh Đông Dương từ nhiều năm nay. Và đồng nghiệp nữ là phóng viên của báo Christian Science Monitor (Người hướng dẫn Khoa học Đạo Cơ đốc), cũng là một báo lớn ở Mỹ. Cô ấy cũng đã viết nhiều bài chống lại cuộc xâm lược của Mỹ ở Đông Dương. Còn tôi là đặc phái viên của một hãng tin độc lập, Dispatch News Service International."

Không có lời đáp lại. Chỉ nghe tiếng chân bỏ đi. Mike khẽ dịch cho chúng tôi nghe về cuộc trao đổi giữa bọn họ.

“Anh có đau lắm không'?" tôi hỏi. "Không sao," anh trả lời. “Tôi chỉ bị bất tỉnh một lát thôi, nhưng có lẽ không bị gãy xương. Nhưng tôi lo về sự tuần hoàn máu ở chỗ tay bị trói".

Tôi bảo anh ấy có lẽ tôi bị đánh khá mạnh vào phần cứng trên đầu nhưng không đáng lo lắm.

Một giọng khác, cũng là tiếng Việt, nhưng lần này mềm mỏng và thiện cảm hơn ghé sát vào chúng tôi và nói: "Các ông có sợ không?"

"Có”, Mike nói, "Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra cho chúng tôi. Vì vậy chúng tôi có lý do để sợ?"

"Không phải sợ, nếu thật sự các ông là nhà báo. Các ông có muốn uống nước không?"

“Cho ông bạn tôi uống đi - ông ấy già hơn” Mike nói.

Tôi cảm thấy miệng ly thủy tinh chạm vào miệng tôi và tôi liền nốc ừng ực. Đó là lần uống nước ngon nhất trong đời.

"Ông ấy bảo chúng ta có thể dựa lưng vào những bao tải sau lưng," Mike nói. “Như vậy dễ chịu hơn. Và chúng ta cũng có thể co chân lên nếu muốn."

“Có phải dây trói quá chặt không?" người đần ông hỏi Mike. Anh ấy trả lời đúng như vậy, và ngươi đàn ông nhanh chóng nới lỏng những sợi dây trói, rồi nới lỏng thêm lần nữa khi Mike nói tay anh vẫn còn mất cảm giác.

“Thật không phải khi làm như thế này đối với các ông," người đàn ông bảo Mike.

“Ông là đại úy phải không?" Mike hỏi.

“Không, mới trung úy thôi".

Anh ta im lặng một lúc.

“Bây giờ chuẩn bị đi tiếp." Anh ta nói. "Các ông sẽ có thể tắm rửa, giặt quần áo và sẽ được cho ăn uống."

Anh ta cầm tay kéo tôi đứng lên và dìu tôi ra khỏi căn nhà, dọc theo con đường vài mét, đến một căn nhà khác. Tôi cảm thấy nền xi măng dưới chân tôi. Tôi được dìu cẩn thận băng qua gian phòng cho đến khi ống quyển tôi chạm phải một băng ghế dài. Chúng tôi được lệnh quay lại và ngồi xuống.

Rồi tôi nghe tiếng Beth. Cô ấy cũng được đưa vào gần như cùng lúc và đang phụ viên sĩ quan Việt Nam tháo dây trói cổ tay và băng bịt mắt cho chúng tôi.

Nhìn qua cánh cửa hé mở, chúng tôi có thể thấy bên ngoài trời đang tối dần. Ánh sáng ngọn đèn dầu lửa soi rõ Beth đang tươi cười vì được gặp lại chúng tôi, và viên trung úy tử tế, một người lính mảnh dẻ với khuôn mặt xương xương và khoảng chừng 35 tuổi. Anh ta đội chiếc nón cối màu kaki, mặc bộ đồ kaki, và mang đôi dép tắm cao su màu xanh trắng.

"Chúng ta sắp được ăn," tôi nói với Beth, "rồi có thể tắm và giặt quần áo."

Một người Việt mang vào phòng một thùng xăng 5 ga-lông đựng nước cùng bao đồ của Mike và tôi. Dưới ánh sáng tù mù, chúng tôi có thể nhận ra mình đang ở trong một phòng học, với vài băng ghế dựa sát tường và một chiếc bàn dài gần chỗ băng ghế ngồi của chúng tôi. Những người du kích lấy cái bảng đen làm thành một tấm bình phong và đặt thùng nước bên trong, cho thấy chúng tôi có thể tắm ở đó. Họ trao cho chúng tôi một bánh xà phòng rồi bỏ đi.

Beth tắm trước, cô dùng khăn mặt và khăn tắm của Mike. Cô ấy phải mặc lại bộ đồ cũ, hơi nhàu nát sau chuyến hành trình trên con đường đầy bụi và trong chiếc xe tải của du kích. Còn Mike và tôi đều đem theo một bộ quần áo để thay. Mở cái túi bay nhỏ của hãng hàng không Pan American màu xanh, tôi thấy trong đó không chỉ có áo thun, quần ka ki, quần lót và tất mà còn có cả bộ dụng cụ phòng tắm, dao bỏ túi nhỏ, và một cặp kính cận dự phòng.

Lần lượt, chúng tôi tắm, dùng một cái gáo múc nước để gột sạch xà phòng. Một người đàn ông mang thêm vào một thùng nước. Mike tình nguyện giặt quần áo giô của tôi và anh. Anh làm hết sức mình. Nước rất lạnh. Tôi hỏi Beth cô ấy đã bị đối xử ra sao.

“Không tệ lắm. Người sinh viên bảo với tôi rằng ông và Mike được đem đi thẩm vấn." Lúc đó, Beth đã được đưa đến một phỏng khác, đặt ngồi xuống, vẫn bịt mắt. Cô có thể nghe thấy dân làng ùa vào để xem người nữ tù phương Tây. Một người la lên giận dữ bằng tiếng Campuchia, rồi tháo đôi dép của cô, ném vào tường.

Sau đó, bị bỏ lại một mình với người gác, cô hỏi xin nước, uống, rồi xin thêm, và được thêm. Thu hết can đảm, cô tháo băng bịt mắt. Cô đang ở trong một phòng học. Một thanh niên Việt Nam đứng gác gần cửa. Anh tới gần cô, kéo chiếc nhẫn bạc từ ngón tay cô và làm một cử chỉ dè dặt như để chọc ghẹo cô. “Không cần phải như thế đâu," cô nói. “Anh là em trai. Tôi là chị gái mà." Cô nói bằng tiếng Anh. Anh ta đeo chiếc nhẫn lại vào ngón tay cô và không làm phiền cô nữa.

Lát sau viên trung úy có khuôn mặt gầy đến và bảo Beth là cô có thể nằm trên bàn nếu cô muốn ngủ trưa. Anh ta nói là cấp trên của anh vừa biết về việc bắt giữ và cử anh đến để bảo đảm cô không bị ngược đãi. Không lâu sau đó, một người lính khác nhặt đôi dép lên cho cô và đưa cô đi qua sân trường đến căn phòng nơi chúng tôi đang ở.

Lúc đó chắc là 9 hay 10 giờ. Chúng tôi khởi hành từ Sài Gòn lúc bình minh. Cả Mike và Beth không kịp ăn sáng. Hai người Việt mang vào một cái nồi đen, đựng cơm. Cơm hãy còn nóng, rõ ràng là phần còn lại từ bữa tối của du kích. Cạnh đó còn có một đĩa thịt mỡ heo rán, một ấm trà, ba cái ly, ba đĩa ăn và ba cái muỗng. Chúng tôi ăn hai hay ba đĩa, ngồi sát bên nhau chỗ bàn học.

Người lính có khuôn mặt gầy - người đã trở thành một khuôn mặt quen thuộc - bước vào phòng khi chúng tôi vừa ăn xong và báo rằng có vài người nữa sắp đến để nói chuyện với chúng tôi. Khi chúng tôi đứng lên thì ba người đàn ông bước vào, dẫn đầu bởi một người Việt cao lớn - khoảng 1,78 mét là cao đối với người Việt - với vẻ bề ngoài đỉnh đạc, mắt mở to và miệng rộng nhoẻn cười khi chào hỏi chúng tôi. Ông mặc quần áo ka ki nhà binh với cầu vai và để hở cổ ông ta khoảng 40 tuổi. ông nói bằng giọng mà sau đó Mike bảo là giọng Bắc rặt. Ông nói ông và những người lính khác đều là người gốc Việt (để tránh vấn đề quốc tịch) đang chiến đấu trong mặt trận cách mạng thân Sihanouk ở Campuchia.

Theo đề nghị của ông, Mike lặp lại câu chuyện của chúng tôi. Viên sĩ quan cao lớn gật đầu như nhận biết khi Mike nói tên người bạn Bắc Việt Nam của anh ở Paris.

"Nếu các ông thật sự là những nhà báo quốc tế. các ông sẽ được thả," viên sĩ quan nói, “Nếu các ông là gián điệp CIA, các ông sẽ bị xử theo luật quốc gia. Trong khi chúng tôi kiểm tra, các ông sẽ được đưa tới một nơi an toàn. Ở đây không an toàn lắm. Người Campuchia không biết rằng có người Mỹ tốt cũng như người Mỹ xấu. Họ chỉ biết xe tăng và máy bay của chủ nghĩa đế quốc Mỹ mà thôi. Do đó, thiếu an toàn khi ở đây. Tôi đã phân công sĩ quan này (hướng về phía người trung úy mặt gầy) chịu trách nhiệm về sự an toàn của các ông. Hãy theo sát anh ấy, mọi việc sẽ tốt đẹp".

Điều này cho chúng tôi niềm hy vọng đầu tiên rằng một lúc nào đó sẽ được thả. Tuy vậy, vẫn không được quên rằng mình là những tù nhân bị tình nghi là gián điệp. Khi ngồi trên băng ghế đối diện với những ngươi du kích, tôi đã ngồi bắt chéo chân trong một tư thế dễ chịu hơn.

“Ngồi thẳng lên, để cả hai chân xuống sàn." một người trẻ quát vào tôi.

Khi viên sĩ quan cao lớn chấm dứt chỉ thị, ông bảo chúng tôi nghỉ ngơi. Ông và những tùy tùng ra khỏi phòng. Chúng tôi nằm xuống cạnh nhau trên nền xi măng trần trụi.

Khoảng một giờ sau, tất cả trở lại chỉ trừ viên sĩ quan cao lớn. Chúng tôi được lệnh: “Chuẩn bị đi". Chúng tôi thu dọn quần áo hãy còn ướt bỏ vào bao, rồi ra đi dưới ánh trăng đêm, băng qua sân trường, dọc theo một lối mòn ngoằn ngoèo lầy lội, tiến đến một chiếc Land Rover, kiểu như xe Jeep lớn với thùng xe có bạt che ở phía sau đang chờ sẵn.

Một người có khuôn mặt rầu rĩ, đội chiếc mũ lính vành rộng thời đệ nhất thế chiến, áo xanh da trời, quần xanh lá cây, dẫn đầu với khẩu AK-47 vác trên vai. Chúng tôi đi theo. Viên sĩ quan mặt gầy và vài người khác đi phía sau. Một người khiến tôi chú ý khi chúng tôi leo lên xe và bắt đầu băng qua những con đường lầy lội giữa đêm. Anh ta là một thanh niên Campuchia, cao lớn và nặng nề hơn phần lớn người Việt mà tôi đã gặp với khuôn mặt rộng, đôi môi dày và cái miệng đầy những răng vàng.

Chúng tôi chạy khoảng một tiếng, thỉnh thoảng dừng lại khi có những ánh đèn hiệu từ những cánh rừng hai bên đường. Một người linh trên xe nháy đèn trả lời và những bóng đen bước ra khỏi những bụi cây và thi thầm trao đổi với toán người áp giải tù nhân.

Chúng tôi dừng lại trước một ngôi nhà khang trang, kiểu nhà sàn truyền thống, với cầu thang dẫn lên cửa trước.

Màu hồng của mái ngói và bốn bức tường bằng gỗ xẻ hiện rõ dưới ánh trăng. Sau khi toán áp giải thì thầm với chủ nhân người Campuchia, chúng tôi được lệnh cấp tốc leo lên thang gác. Người lính có đôi mắt buồn bã đưa chúng tôi đến một căn phòng lớn phía sau nhà, được ngăn ra bởi những kệ cao và tủ đứng và một cửa ra vào treo đầy những dải nhựa hồng, xanh. Bên trong kê hai chiếc ghế gỗ và một giường gỗ lớn với vạt giường gỗ có trải chiếu bên trên.

“Nghỉ đi" người lính bảo chúng tôi.

Beth nói, “Tôi muốn nằm giữa."

Tôi đoán chừng lúc đó đã là hai hay ba giờ sáng. Chúng tôi nằm xuống và rơi ngay vào giấc ngủ sau một trong những ngày dài nhất trong đời.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx