sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

An Tư - Chương 06 - Phần 2 + 3

Chương VI

Phần 2

Trong khi ấy thì các tráng sĩ Đại Việt tấp nập sửa soạn. Chưa biết ai được đi, nhưng ai cũng tưởng như sắp được nhẹ gánh quan ăn, và sắp được dịp trổ tài cùng quân giặc.

Nhất là quân bản bộ của Chiêu Văn Vương, quân Tinh Cương và sáu trăm trai của Hoài Văn Hầu thì lại càng sôi nổi.

Chiêu Văn Vương đã mấy lần muốn vào yết kiến Hưng Đạo Vương để xin đi đánh mà không được vào. Bấy giờ chánh tướng đã chọn rồi, nhưng Quốc công chưa cử ai đi giúp Chiêu Văn Vương. Người ta xì xào nói đến Chiêu Thành Vương, đến Hoài Văn Hầu, đến tướng quân Nguyễn Khoái. Chiêu Thành Vương thì hồi hộp nhất. Thủ đoạn lẫy lừng của Phạm Ngũ Lão làm cho vương ghen tức bao nhiêu, thì cái ý ra Bắc để cứu người yêu lại làm cho vương hi vọng bấy nhiêu. An Tư đi, đã hơn một tháng trời; tin tức về nàng không có mấy, chàng vẫn hàng ngày nóng ruột, không hiểu nàng ra sao. Ở giữa hang hùm, đã đành là tiết trinh của nàng chẳng vẹn, nhưng liệu nàng có toàn tính mệnh để đợi chàng không? Đêm đêm chàng thường giật mình lo cho số phận người yêu, nhất là mấy bữa gần đây, nghe tin bệnh dịch tả đã bắt đầu phát ở kinh thành, chàng ngồi đứng không yên; chiếc thân đào tơ liễu yếu, mà bao nhiêu nguy hiểm quanh mình! Chàng chỉ mong chóng được kéo quân ra Bắc, dấn mình trong vòng gươm giáo, tiến vào chỗ nàng bị giam cầm. Miễn là cứu được nàng ra khỏi trùng vi, thì muôn trùng ngăn cản, muôn bẫy hiểm nghèo chàng cũng vượt hết.

Các tráng sĩ mong mỏi ngày xuất trận một thì chàng mong mỏi mười. Nhiều đêm, những người thân tín thường bắt gặp chàng nói trong mơ:

- An Tư công chúa! Chị đấy ư? Đợi tôi ra đánh tháo cho công chúa!

Chờ đợi bao lâu, nay đã đến ngày, chàng lại thêm cái lo không biết Quốc công có cử mình đi không? Chàng tự nhủ: “Có lẽ nào ta lại không được đi? Quốc công đã biết cảnh ngộ ta, Quốc công chắc cho ta theo Chiêu Văn Vương, không khi nào Quốc công lại nỡ giữ ta. Không khi nào cả!”

Cho nên chàng săn đón nhất.

Chàng cứ đưa thoi từ trại mình đến dinh Quốc công. Nhưng chỉ thấy cửa dinh đóng im lìm. Quốc công vẫn còn hội đàm với Chiêu Văn Vương. Chắc hai vương đang cắt cử những tướng sĩ.

Đương lúc nghe ngóng, chợt thấy Trần Quốc Toản, nhanh như cắt, tươi như bông hoa, chạy lại hỏi:

- Chú đã biết tin tức chưa?

Vương nắm đốc kiếm, hồi hộp:

– Chưa? Việc gì? Tôi có được…

- Cháu được đi rồi.

- Thế à? Sao biết? Còn tôi?

- Hình như có.

Vương nhảy lên:

- Sướng quá. Thực không? Tôi chỉ sợ không được đi.

- Cháu cũng thế. Nhưng mới nghe thấy đồn thế thôi. Chú đừng nói ra, việc quân nhỡ ra Quốc công…

- Tôi biết rồi. Phải.

Tuy vậy, vương không giấu nổi cảm động. Vương hấp tấp chạy về trại bảo quân sĩ sửa soạn. Mừng quá, vương không nói lên nhời. Chợt có tướng lệnh của Quốc công vời vương lên. Đang dặn dò mọi người, vương bỏ đấy, theo sứ đi ngay. Tới nơi, đã thấy đông đủ các tướng tá trước sân dinh Tiết chế. Vương đứng nép bên Hoài Văn Hầu khi ấy đang mải nhìn lên thềm. Bốn bề im lặng. Quốc công bỗng truyền ra:

- Triều đình đã cử Chiêu Văn Vương làm chánh tướng ra Bắc. Ta lại nhờ được Triệu tướng quân giúp sức đánh Toa Đô.

Trong hàng tướng tá, ta đã xin cử tướng quân Nguyễn Khoái, Hoài Văn Hầu và Chiêu Thành Vương làm tiền bộ tiên phong. Cơ khôi phục non sông đã tới. Các ngươi là những người tâm huyết, ngày đêm nằm gai nếm mật, nay là lúc nỗ lực hi sinh cho quốc gia. Đuổi được giặc hay không, ta trông cậy vào trận này. Các người đừng nên phụ lòng ta tin cậy.

Các tướng còn đang nhìn nhau, Chiêu Thành Vương đã nhanh nhảu bước ra thưa:

- Quốc công đã có lòng tin, cho chúng tôi đi trước anh em, thực là vinh hạnh cho chúng tôi. Trước mặt Quốc công chúng tôi xin thề tử chiến: nếu không thắng trận này, chúng tôi xin gửi đầu về tạ tội Quốc công.

Ngay hôm đó Chiêu Văn Vương khởi hành, kéo binh thuyền ra Bắc. Vương dụ tướng sĩ:

- Ta trông quan gia, Quốc công và mọi người, nét mặt ai nấy đều hớn hở. Ta đoán là có tin mừng. Từ ngày thua ở Khả li, Lộc Châu, chúng ta nằm gai nếm mật, bây giờ ta mới lại được cùng chúng giao chiến. Quân giặc đã đến buổi vận cùng. Các ngươi mong tuyết hận, đây đã đến ngày tuyết hận. Các ngươi nên cố một phen, để cái tiếng của đoàn quân ta vang lừng trong trận này. Ta có đoàn ca nữ, chúng theo ta vào đây, nay cũng tình nguyện theo ta ra Bắc để hát mừng quan quân ngày thắng trận. Các ngươi đừng để họ chê cười.

Mọi người đều nói:

- Khăn yếm còn biết nghĩ thế, huống chi bọn râu mày chúng tôi.

- Chúng tôi được theo đại vương, như đã cầm sẵn chiến thắng trong tay. Đại vương không phí một tên quân, bình định được loạn Trịnh Giốc Mật thì đại vương cũng chắc thắng được Toa Đô. Chúng tôi quyết không phụ lòng chị em.

Sau Quốc công Hưng Đạo, vương là người được quốc dân trọng nhất: có cái đảm lược ôn hòa, vương đã được ví dũng như Quan Vũ và Lạn Tương Như. Vương tinh thông thao lược, đã từng đề tựa cho cuốn Bình thư của Hưng Đạo Vương. Nhưng vương không ưa chiến tranh, chỉ thích học các tiếng nước ngoài. Vương muốn làm nhà bác ngữ hơn làm trang võ tướng. Vậy mà khi cầm quân thì không ai mau lẹ, táo bạo như vương. Trước khi ra Bắc, vương gọi vợ con hãy ghi ngày vương ra đi làm ngày cúng giỗ, để tỏ cho mọi người cái ý quyết liệt với quân thù.

Dưới quyền chỉ huy của một đại tướng đã có một huân công kỳ lạ và có những đức tính làm mê lòng người như thế, các tướng sĩ kéo binh thuyền ra Bắc, mắt anh hùng đăm đăm như khuất phục cả cồn sóng bạc đầu…

Trong khi ấy, ở Thanh Hóa người ta sống như cơn sốt rét đợi chờ. Ngày ngày đã nối nhau ra đi, vô vị và lạnh lùng. Bể ngoài khơi vẫn réo và cái nóng kinh người vẫn làm chúa khắp nơi. Hoàng hậu và các cung tần phi chúa thì đi lễ các đền chùa, cầu nguyện các đấng linh thần ủng hộ đoàn quân của Đức Ông Tư. Thượng hoàng và vua Thiệu Bảo tỏ ý sốt ruột, ngày nào cũng hỏi ý kiến. Hưng Đạo Vương tâu:

- Xin Thượng hoàng và quan gia cứ yên tâm. Lão phu liệu thế giặc, xin cam đoan rằng trận thắng về ta. Chỉ vài hôm nữa có tin mừng.

Quốc công là người bình tĩnh nhất trong đợi chờ. Nhưng đêm đêm ngài vẫn cúi xuống cái bản đồ của Vũ Trí Thắng, liệu những đường lối mà Toa Đô thế tất phải qua, và nơi gặp gỡ giữa quân mình và quân địch. Ngài yên trí:

- Chỉ còn đợi xem trận đánh ra sao. Nhưng quân sĩ là những quân tinh nhuệ, tướng tá toàn là những kẻ có đảm lược, có tài trí, không thể thua được.

Ngày cứ lặng lẽ trôi, vua tôi thấy bặt mãi tin, đều lấy làm lo lắng, Quốc công phải nói:

- Thua trận này, không những Chiêu Văn Vương phải nộp đầu, mà chính ta cũng vậy.

Và tướng sĩ đánh đố nhau:

- Một là quân Toa Đô không gặp quan quân và đã hội với quân của Thoát Hoan, hai là quân Chiêu Văn Vương đã gặp quân địch và đã phá tan. Khi vương đi, đã dặn lại rằng nếu có sứ về thì tức là thắng, mà không tức là thua. Vì thế nên càng đợi lâu bao nhiêu thì người càng lo ngại bấy nhiêu. Người ta chỉ được chút yên tâm là thấy Quốc công rất vững, Quốc công đã quyết thế nào, thì thường trăm phần đúng cả, nhất là về việc hành binh thì ngài sáng suốt vô cùng. Trăng rằm đã lặn, rồi trăng mười sáu, rồi trăng mười bảy, rồi trăng mười tám. Tính ra Chiêu Văn Vương đi đã được mười lăm ngày.

Một hôm, giữa lúc đợi chờ đã đưa người ta đến một chán nản, gần như thất vọng, thì một người lính canh ngoài bờ bể báo tin:

- Thuyền Hoài Văn Hầu!

- Hoài Văn Hầu đã về!

- Có thực không?

- Hoài Văn Hầu đâu?

Và tin Hoài Văn Hầu về chỉ trong chốc lát đã lan đi khắp nơi. Tuy kỷ luật nghiêm minh, người ta cũng đổ ra nghe ngóng tin tức. Những người đi chậm, đã nghe thấy tiếng reo ầm ầm, rồi thấy tướng sĩ xúm xít vây quanh Trần Quốc Toản, khiến cho ngựa chàng không sao tiến lên được. Người thì hoa chân múa tay, người thì nhảy lên bạn hữu, người thì tung khăn giơ kiếm, ai nấy đều mặt đỏ bừng bừng, mắt sáng như điên, tiếng hoan hô om xòm, át cả tiếng bể gầm:

- Thắng rồi! Đại thắng! Hàm Tử Quan! Quân giặc thua rồi! Toa Đô tan vỡ! Quân giặc thua rồi! Toa Đô tan vỡ! Thắng rồi! Đại thắng rồi!

- Sướng quá! Đại thắng! Đại thắng! Khôi phục Thăng Long! Vạn tuế! Vạn tuế! Sát Thát! Khôi phục Thăng Long.

Người ta còn nhận rõ những tiếng hô Quốc công, Chiêu Văn Vương, Chiêu Thành Vương, Hoài Văn Hầu, Nguyễn Khoái, Triệu Trung, như những tiếng pháo nổ trong ngày rước đám.

Hoài Văn Hầu nói:

- Để ta vào bẩm mệnh Quốc công đã. Ta mang tướng lệnh của Chiêu Văn Vương, hãy để ta đi, các người.

Những nét vui vẻ hiện rõ trên nét mặt những vị tướng, nụ cười duyên nở trên môi, cố kìm giữ nỗi mừng, bảo quân sĩ:

- Anh em hãy dạt ra để Hoài Văn Hầu đi đã. Việc quân nhỡ ra thì phải làm thế nào?

Lại tiếng hô:

- Hàm Tử Quan! Cho chúng biết mặt trai nước Nam. Hàm Tử Quan! Đánh cho chúng không còn một mảnh giáp. Khôi phục Thăng Long phen này đến lượt anh em chúng ta.

Và họ giãn ra cho Hoài Văn Hầu đi. Người thiếu niên vừa tế ngựa, vừa ném ra bốn phía cầu:

- Đại thắng ở Hàm Tử Quan!

Lời nói của chàng trong và nhẹ như tiếng suối ròn reo, đượm vẻ ngây thơ hào hùng. Hầu đã tiến vào dinh Quốc công, Thượng hoàng, vua Thiệu Bảo cũng hấp tấp chạy ra và hoàng đệ Tá Thiên đại vương Đức Việp đang tập trận cũng chạy về xem tin mừng có thực. Trong khi ấy các tướng sĩ cơ nào đội ấy, trở về đội mình, sửa soạn tấp nập, yên trí là đến lượt họ đi khôi phục Thăng Long nay mai…Những tiếng ca, tiếng huyên náo trong các dinh trại nổi lên, hòa với tiếng đao kiếm chạm nhau, tiếng thử cung tên và tiếng hô “Sát Thát”…

Hưng Đạo Vương hỏi Hoài Văn Hầu:

- Cháu về chắc có tin mừng cho chú?

Hoài Văn Hầu quỳ dưới thềm, thưa:

- Cháu vâng tướng lệnh Chiêu Văn Vương, về dâng tin thắng trận. Hiện có thư của Văn Vương và sổ công lao, trình hai Thánh và Quốc công.

Hưng Đạo Vương cho Hầu đứng lên, tiếp lấy thư và sổ, thân mật hỏi Quốc Toản:

- Cháu lập công đầu chứ?

- Bẩm Quốc công, cháu chỉ làm quẩn chân tướng sĩ. Công đầu là ở Triệu Trung tướng quân cả. Thực là một hổ tướng anh hùng.

Thượng hoàng phán:

- Hoài Văn Hầu có mặt ở trận nào là thắng trận đó.

- Tâu Thượng hoàng, đó là hồng phúc của quốc gia, thần vũ của hai Thánh, chứ hạ thần có công cán gì.

Vua Thiệu Bảo chỉ một cái ghế và phán:

- Hầu ngồi đây, trẫm muốn hỏi chuyện vài câu.

Hoài Văn Hầu bái tạ, ngồi xuống ghế. Thượng hoàng, vua Thiệu Bảo và Quốc công Hưng Đạo cũng xúm lại xem thư của Chiêu Văn Vương, Thượng hoàng tươi cười phán:

- Đợi mãi mới có ngày nay. Quốc công liệu định thật đúng như nhời. Được có ngày nay đều nhờ Quốc công cả.

Chương VI

Phần 3

Vua hỏi Hoài Văn Hầu:

- Trận đánh ra sao? Trẫm phiền Văn Hầu kể lại tường tận cho nghe.

Hầu nói:

- Thưa quan gia, ngày mồng ba quân ta lên đường, Chiêu Văn Vương sai ngả cờ im trống, truyền lệnh cho quân sĩ mặc đồ như thường dân, chia làm nhiều toán, ngày thì tản mát đi, đêm thì tụ lại; lại lập nhiều đội binh liên lạc các toán để cho toàn quân không rời rạc. Chiêu Thành Vương và tiểu tướng được lệnh đi trước để tụ tập những chiến thuyền, vì ngày vào Nam, Quốc công đã ký thác cho những đại, tiểu tư xã các làng ở vùng Tràng An, Lý Nhân, Thiên Mặc.

Văn Hầu nhìn Quốc công để tỏ lòng cảm phục rồi lại tiếp ngay:

- Chiếu trong sổ, không có một chiến thuyền nào thiếu, các đại tiểu tư xã còn đóng sẵn nhiều chiến thuyền cung cấp cho quan quân. Vào các đình nào cũng thấy họ đã sửa soạn từ lâu. Chỉ một tiếng mỏ rao, là dàn ra như kiến, sung vào đội ngũ, tình nguyện tòng chinh. Khí giới, quân nhu, nhất nhất đều sẵn sàng, ai nấy đều có thích chữ “Sát Thát” ở cánh tay. Tiểu tướng không ngờ lòng dân hăng hái đến bực ấy.

Vua ngạc nhiên bảo Hưng Đạo Vương:

- Trẫm cũng không ngờ.

Hưng Đạo chậm rãi nói:

- Lão phu đã biết lòng dân, nên trong buổi ba đào, lão phu vẫn không nản chí.

Hầu lại tiếp:

- Thành thử quân của triều đình chỉ có một vạn người, và các chiến thuyền lớn nhỏ có đến ba trăm chiếc. Vừa tới Hàm Tử, thì có tin Toa Đô đang đánh lên, chỉ còn cách hai mươi dặm. Chiêu Văn Vương trỏ khúc sông và bảo các tướng sĩ:

- Ta chết sống ở chốn này. Không cho Toa Đô qua nữa. Toa Đô sa vào lưới của Quốc công rồi. Tướng sĩ! Các ngươi đừng làm uổng bao nhiêu công lao trù tính của Quốc công. Dịp may này chỉ có một lần, ta nên sống chết ở chốn này, các ngươi nên tận lực.

Tiếng hô “Sát Thát” vang lên. Vương chia binh thuyền phục sẵn các ngành sông. Sau khi đã bày binh bố trận đâu đấy cả rồi, vương thân dẫn một chiếc thuyền con đi thanh tra các nơi cho thực chu đáo. Rồi vương về thuyền riêng, cùng Triệu Trung đánh cờ. Bấy giờ là tảng sáng ngày 13 tháng 4. Theo lệnh vương, quan quân được nghỉ ngơi từ sáng đến gần trưa.

Trưa 13 thì có tin Toa Đô đã gần. Quân ta nhìn nhau, nghẹn thở vì vui mừng. Trời như thiêu như đốt, nắng chang chang. Thám tử báo quân Toa Đô đều mệt nhoài và người chết bị quẳng xuống sông nhiều lắm. Chúng nghiễm nhiên đi, chiến thuyền lộn xộn, cờ hiệu không tề chỉnh, và tiếng trống nghe ra cũng chểnh mảng. Không phải kỷ luật họ không nghiêm, chính thực thì họ không phòng bị. Họ không ngờ quân ta đón đường. Mà quả vậy. Dù bắt gặp mấy chiếc thuyền của ta đi trinh sát, họ cũng không để ý, cho là thuyền đánh cá hay thuyền chở hàng không đáng quan tâm.

Quân Toa Đô đương vô tình, thì một tiếng pháo lệnh nổ ran, quân ta nán chờ từ bao nhiêu ngày tháng, nhất tề lăn xả vào thuyền giặc. Triệu tiên sinh và ba trăm tử đệ đi trước, nêu cao ngọn cờ nhà Tống. Triệu tiên sinh mỗi tay cầm một ngọn kích, gạt những tên bắn quanh mình, hăng hái mở đường cho quân ta. Chiêu Văn Vương đã tuyển một nghìn quân ta cũng cho ăn bận theo lối quân nhà Tống, phao tin lên rằng quân Tống đã khôi phục được nước và nay đem viện binh sang giúp nước Nam đánh bại quân Mông Cổ. Quân Toa Đô trông thấy Triệu tiên sinh, có người nhận ngay ra là một tướng cũ nhà Tống. Tưởng nhà Tống đã khôi phục được nước Tàu rồi, họ sợ hết vía, kêu khóc như ri, hoang mang không có lòng đánh trận nữa; lại thêm mệt mỏi, họ không nghĩ cả đến việc chống cự. Triệu Trung cứ thúc thuyền sấn sang trận giặc, và chỉ nháy mắt, mười chiếc thuyền tiền đội của Toa Đô bị đánh đắm.

Quân ta càng nô nức đánh ùa xuống. Tiểu tướng cùng Chiêu Thành Vương nhảy sang một thuyền giặc, chém được một đầu mục, vứt đầu lâu ném sang một thuyền khác, đánh ngã luôn mấy đứa quẳng xuống sông. Vận may đã đến, sức đánh rất hăng, gươm giáo cũng khôn ra. Tướng sĩ vui mắt đua nhau làm theo, tha hồ chém giặc như băm dưa,đoạt được đến sáu chục chiến thuyền lớn. Toa Đô xông xáo, thét quân đứng lại, sai chèo thuyền sấn lại đánh Triệu tiên sinh. Hai tướng đấu nhau thực là vui mắt. Thấy vậy, quân Nguyên Mông nổi loạn thêm. Oai phong lấy lại bình tĩnh chúng đánh rất hăng, không nhường một bước. Bấy giờ quan quân mới thực là gặp địch thủ. Triệu tiên sinh quả là hết lòng với nước Nam, trổ hết thần y đánh với Toa Đô. Quan quân không tiến được mấy nữa và chật vật mãi mới đánh chìm được một chiếc chiến thuyền. Ba trăm tử đệ của Triệu tiên sinh đánh hăng hơn cả quân nhà; họ chết đã quá nửa, nhưng những người còn sống vẫn thản nhiên. Nghĩ mình đánh cho mình, chết là phải rồi, nhưng thấy họ chết cho người, thực là ân hận thay cho họ… Chiêu Thành Vương và tiểu tướng thấy Triệu tiên sinh đánh mãi Toa Đô không đổ, xông lại giúp, nhưng các tướng Mông Cổ đổ cả ra đối địch, phút chốc trên mũi thuyền toàn là các tướng đánh nhau.

Đang lúc bất phân thắng phụ, người nổi lềnh bềnh trên mặt nước và máu đỏ loang sông, thì viện binh Ô Mã Nhi tới. Quân Nguyên càng thêm hăng, quân ta cũng chẳng kém, bảo nhau:

- Thách cả Ô Mã Nhi, chúng ta khôn cần, anh em cứ vững tâm.

Ô Mã Nhi sấn lại đánh Chiêu Thành Vương, mười tướng xúm lại mà đỡ, thảy đều loạng choạng, rút cả xuống. Mã Nhi thực có một sức khỏe thiên thần, đang hăng máu nó càng hung mãnh.

Tướng sĩ vẫn cứ lăn xả vào chống Ô Mã Nhi để Triệu tiên sinh đánh Toa Đô, nếu không có tiên sinh, thì thế trận của ta vỡ từ bao giờ. Toa Đô thực là vô địch. Đương lúc quân ta có phần núng thế, thì tiếng chiêng trống vang lừng nổi lên: Chiêu Văn Vương và Nguyễn Khoái dẫn đại binh, lẻn đi một ngành sông khác đánh vào sườn quân Toa Đô. Thuyền tướng quân Nguyễn Khoái đi nhanh như gió. Đứng trước mũi thuyền, Nguyễn Khoái nói to:

- Anh em cứ vững tâm đánh đi, giặc mắc mưu vương gia rồi. Khoái đến đây thì trăm Ô Mã Nhi cũng không đáng sợ.

Thấy Chiêu Văn Vương quân sĩ đã nức lòng, lại thấy có Nguyễn Khoái mọi người lại càng vững. Quân ta reo vang lừng:

– Tướng quân Nguyễn Khoái, mau đến đây đánh Ô Mã Nhi giúp anh em, không có thì hỏng cả.

Chỉ một nháy mắt thuyền Nguyễn Khoái đã lẫn với thuyền giặc. Biết Nguyễn Khoái là tướng giỏi. Mã Nhi không dám luyến chiến với những người khác. Xoay ra đánh với Nguyễn Khoái. Chiêu Văn Vương đứng trước mũi thuyền thúc trống. Các tướng sĩ như thêm sức, và những người đã mệt nhoài bỗng thấy mình khỏe lại. Thuyền nhà và thuyền giặc lẫn lộn nhau, có khi thuyền nhà quân giặc dùng, có khi quân ta đứng trên thuyền giặc, hết đâm chém, đến giằng co nhau mẩu gươm mẩu giáo, hay cầm mũ trụ phang nhau, hay vật lộn nhau trên mạn thuyền, ngã lăn cả xuống sông mà không bỏ nhau ra, cào cắn nhau cho đến khi cả đôi cùng chìm lỉm xuống dưới nước. Dân quân cũng như quân triều đình đánh cũng không kém. Có người đã cụt một cánh tay, ngã vật xuống nước, còn một tay vẫn cố bơi đến thuyền giặc, nghiến răng chuyển hết sức bình sinh lôi cả chiến thuyền, tuy không làm đắm được nhưng cũng làm tròng trành khiến cho quân giặc loạng choạng, giở tay không kịp bị quân ta giết chết.

Lại vừa may, Ô Mã Nhi hụt chân bị Nguyễn Khoái đánh ngã vật vào trong khoang thuyền. Khoái định nhảy sang. Nhưng Toa Đô đã rõ cơ nguy, đành bỏ Triệu Trung xông qua cản Nguyễn Khoái. Triệu tiên sinh thừa cơ, vẫy lá cờ lệnh, hô quân tiến sang. Trận giặc vỡ hẳn và chiến thuyền của ta ầm ầm kéo sang, quân Nguyên không còn chống đỡ gì. Chúng kêu khóc như ri. Quân ta khi ấy hung hơn quân Mông Cổ. Giặc cùng đường nhảy cả xuống sông, lóp ngóp chạy lên bờ. Chỉ ân hận để Toa Đô và Ô Mã Nhi trốn thoát và cứu được nhiều chiến thuyền đi. Khi quân giặc đã chạy xa, quan quân tra gươm vào vỏ trông thấy ánh nước đỏ ngầu, anh em nhìn lên trời mới biết trăng mọc từ lâu. Nhìn nhau ai nấy bét be những máu, quần áo rách rưới. Nhưng vui không biết thế nào kể được. Người nhẹ như bay lên chín tầng mây, ai cũng muốn báo ngay cho triều đình biết tin mừng. Ba tiếng “Hàm Tử Quan” nghe êm hơn nhời ru. Không ai muốn bỏ khúc sông ấy. Lòng say sưa đến nỗi không ai nghĩ đến việc đi tắm gội, thay quần áo và rửa đồ binh.

Chiêu Văn Vương điểm tướng sĩ, thiệt mất hơn vạn người, nhưng ước lượng số giặc chết và bị bắt tới hơn ba vạn. Chiến thuyền bắt được hơn trăm chiếc và binh khí tinh kỳ chất đống lên bên bờ sông, thành ba ngọn đồi. Tính ra có năm vạn người, ta đã bại được mười vạn quân Mông Cổ. Chiêu Văn Vương úy lạo mọi người. Dân quanh vùng đem trâu bò và rượu ra thết quan quân. Vui quá và mệt quá, không ai ăn được, xem ý dân gian sung sướng hơn quan quân nhiều. Ngay sáng hôm sau, Chiêu Văn Vương trao thư và sổ công lao cho tiểu tướng về báo tiệp.

Vua Thiệu Bảo nói:

- Nghe hầu nói mà vui, chắc sự thật còn vui hơn nhiều lắm. Hôm nay hầu cùng trẫm ăn một bữa tiệc chung, gọi là mừng một tráng sĩ. Hầu không được từ, ý trẫm đã quyết.

Hầu thưa:

- Quan gia ban ân, tiểu tướng lẽ nào dám từ. Chỉ nghĩ tiểu tướng đã không có công trạng gì, lại cướp cả công lao của anh em ngoài mặt trận, thực không phải nhẽ.

- Cái đó không hề gì. Trẫm biết cả rồi. Tin của hầu đem về cũng đã đáng thưởng rồi.

Hoài Văn Hầu lạy tạ. Vua lại hỏi Hưng Đạo Vương:

- Ta đã thắng ở Hàm Tử, Toa Đô đã lui; ta nên làm gì bây giờ, xin Quốc công chỉ giáo cho.

Quốc công nói:

- Quân ta mới thắng, sức lực đang hăng, quân Nguyên mới thua, tất cũng chột dạ. Cứ như ý lão phu, ta nên sai một đại tướng đem binh thuyền ra Bắc, khôi phục Thăng Long được rồi!

Thượng hoàng và vua mừng rỡ. Vua hỏi:

- Việc khôi phục Thăng Long không phải là việc dung dị. Nhỡ một chút thì uổng cả trận Hàm Tử Quan. Ta phải chọn một đại tướng có thật tài, ngõ hầu mới cáng đáng được việc lớn ấy. Quốc công định cử ai? Hay truyền lệnh cho Chiêu Văn Vương đánh lên?

- Không được. Văn Vương phải ở đấy giữ rịt Toa Đô không cho hợp với Thoát Hoan. Việc này rất quan trọng. Nhỡ ra thì hỏng hết.

Việc khôi phục Thăng Long phải giao cho một người khác, lại cần phải người có tài cầm quân hơn Chiêu Văn Vương mới được. Việc này phải gọi Chiêu Minh Vương về. Phi Chiêu Minh Vương không ai làm nổi.

Vừa nói dứt lời thì quân báo Thượng tướng Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải ở Nghệ An về, sắp tới hành cung. Vua Thiệu Bảo cùng Thượng hoàng và Hưng Đạo Vương dẫn các quan và tướng sĩ ra đón. Quang Khải ở xa tế ngựa lại, nhảy xuống phủ phục trước ngựa Thượng hoàng và vua, miệng hô vạn tuế.

Thượng hoàng cùng mọi người xuống ngựa. Thượng hoàng cầm tay em và nói:

- Một dải Nghệ An, nhờ hoàng thúc lo liệu được yên, nghĩ hoàng thúc thực là gian lao vất vả.

Vương nói:

- Lão thần có công cán gì đâu, ấy là nhờ tướng sĩ cả.

Nói xong, gọi Phạm Ngũ Lão lại. Ngũ Lão cúi lạy bên vệ đường. Vua truyền cho đứng dậy. Vương chỉ Ngũ Lão và tâu:

- Bạch trạng nguyên lo mưu trong trướng, Phạm tướng quân đây tử chiến với Toa Đô, không có hai người ấy và các tướng sĩ thì cơ hồ không giữ được Nghệ An và cũng không lui được giặc Hồi.

Vua truyền cho mọi người lên ngựa, cùng đi cùng nói chuyện, lại quay lại bảo Ngũ Lão:

- Một trận đánh Toa Đô làm cho quân Mông Cổ khiếp đảm, người Chiêm Thành chán nản, ngươi thật là thần tướng.

Lão ấp úng không nói lên nhời. Vua lại đòi xem mặt Bạch Liêu. Quang Khải nói:

- Trạng nguyên nói mọi việc đã có Quốc công lo liệu, thắng lợi chỉ còn đợi ngày, có ra cũng ích lợi gì, vì thế xin ở lại Nghệ An chăm bón mấy gốc lan.

Vua nói:

- Đỗ đến trạng nguyên, có tài đại lược mà không chịu ra làm quan, coi công danh phú quý như mây nổi, người ấy thực là cao sĩ.

Thượng hoàng kể lại chuyện Chiêu Văn Vương đánh Toa Đô ở Hàm Tử Quan cho Chiêu Minh Vương nghe và ngỏ ý muốn cất quân ra khôi phục Thăng Long.

Quang Khải tâu:

- Nay em Tư đã lập đại công, lão thần ở Nghệ An, công ít tội nhiều, nguyện xin cho ra khắc phục Thăng Long để chuộc tội. Chỉ xin đem tướng sĩ ở Nghệ An cũng đủ. Lão thần đã quen đánh trận với tướng cũ và nhất là với Phạm tướng quân đây.

Vua cả mừng, một tướng cũng bước ra tâu:

- Tiểu tướng xin theo Thượng tướng đi đánh Thoát Hoan.

Nhìn ra thì là Hoài Văn Hầu. Chiêu Minh Vương nói:

- Được cháu cùng đi nữa, ta tất thắng Thoát Hoan.

Sau khi Hưng Đạo Vương cùng Chiêu Minh Vương bàn luận về việc khôi phục Thăng Long, ngay hôm đó, Quang Khải dẫn năm vạn quân, thẳng đường bể ra Bắc.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx