sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Ba tách trà - Chương 12 phần 1

CHƯƠNG 12

Bài học của Haji Ali

Có vẻ như phi lí để tin rằng một nền văn hóa sơ khai trong vùng Himalaya lại có điều gì để dạy cho xã hội công nghiệp hóa của chúng ta. Nhưng việc tìm kiếm của chúng tôi cho một tương lai tốt đẹp tiếp tục đi theo đường xoắn ốc để trở về một mối liên hệ giữa chính chúng ta và trái đất, một sự liên hệ qua lại mà những nền văn hóa cổ xưa chưa bao giờ bỏ đi.

- Helena Norberg-Hodge

Ở cổng khu nhà của Changazi tại Skardu, gã gác cổng nhỏ con, ngay cả theo tiêu chuẩn của người Balti, từ chối không cho Mortenson vào. Yakub, người trợ lí của Changazi có cái cằm nhẵn nhụi và tầm vóc nhỏ nhắn của một cậu bé mười hai tuổi. Nhưng Yakub là một người đàn ông trưởng thành ở độ tuổi ba mươi lăm. Hắn đứng với trọng lượng 90 pound của mình chắn ngay lối đi của Mortenson.

Mortenson lôi chiếc túi Ziploc đã sờn, nơi anh cất giữ mọi thứ giấy tờ quan trọng của mình ra khỏi balô và lục tìm cho đến khi anh đưa ra tờ biên nhận các vật tư của trường học mà Changazi đã viết trong chuyến đi trước của Mortenson.

“Changazi Shahib đang ở Pindi.” Yakub nói.

“Khi nào ông ta quay lại Skardu?” Mortenson hỏi.

“Một, hoặc ít nhất là hai tháng nữa.” Yakub nói, cố đóng cửa lại. “Khi đó ông hãy quay lại.”

Mortenson chống hai tay vào cửa. “Hãy gọi điện cho hắn ngay bây giờ.”

“Không thể được.” Yakub nói. “Đường dây đến Pindi đã bị cắt.”

Mortenson tự nhắc mình để không thể hiện sự giận dữ. Có phải tất cả những người làm việc cho Changazi đều có được những lời bào chữa vô tận của ông chủ họ hay không? Mortenson đang cân nhắc có nên đẩy Yakub ra, hay quay trở lại với cảnh sát, thì một người đàn ông lớn tuổi trông đường hoàng, đội chiếc nón topi bằng thứ len đẹp khác thường và bộ ria cắt tỉa cẩn thận xuất hiện đằng sau Yakub. Đó là Ghulam Parvi, nhân viên kế toán mà Changazi đã chuyển sang để giúp xử lí sổ sách. Parvi đã nhận được bằng cấp về kinh doanh tại một trong những trường tốt nhất của Pakistan, trường đại học Karachi. Thành tích học tập của ông là hiếm có đối với một người Balti và ông được kính trọng khắp vùng Skardu như một học giả Shiite sùng đạo. Yakub cung kính lách người sang một bên, nhường đường cho người đàn ông lớn tuổi. “Tôi có thể giúp được gì không, thưa ông?” Parvi nói, bằng thứ tiếng Anh có học nhất mà Mortenson đã từng được nghe ở Skardu.

Mortenson tự giới thiệu mình và vấn đề của mình, và đưa cho Parvi xem tờ biên nhận. “Đây là điều lạ lùng nhất.” Parvi nói. “Ông đang đấu tranh để xây dựng một ngôi trường cho trẻ em Balti, và mặc dù biết rằng tôi sẽ rất quan tâm đến dự án của ông, Changazi lại không cho tôi biết gì cả.” ông ta lắc đầu nói. “Thật lạ lùng.”

Ghulam Parvi đã có một thời gian làm giám đốc cho một tổ chức gọi là SWAB, Hiệp hội An sinh Xã hội Baltistan. Dưới sự lãnh đạo của ông, SWAB đã xây hai trường tiểu học ở ngoại ô Skardu, trước khi ngân quỹ được chính quyền Pakistan hứa hẹn cạn kiệt và ông buộc phải nhận những công việc kế toán lặt vặt. Ở bên này cửa, trong khung cửa gỗ màu xanh lá cây, là một người nước ngoài với số tiền để giúp trường học của Korphe trở thành hiện thực. Bên kia cửa là người đàn ông có học nhất khắp cả miền bắcPakistan để trợ giúp anh, một người để chia sẻ những mục tiêu cùng anh.

“Tôi có thể lãng phí thời gian với những sổ cái của Changazi trong hai tuần và chúng vẫn chưa có ý nghĩa.” Parvi nói, quấn chiếc khăn quàng màu lông lạc đà quanh cổ. “Chúng ta sẽ xem điều gì đã xảy ra với các nguyên vật liệu của ông.”

Bị Parvi dọa nạt, Yakub lái chiếc Land Cruiser đến một địa điểm xây dựng bẩn thỉu gần bờ sông Indus, cách thị trấn một dặm về phía tây nam. Đó là phần khung của một khách sạn mà Changazi đã bắt đầu xây dựng, trước khi hết tiền. Tòa nhà bằng đất bùn đang xây đến phần mái, giữa một biển rác đã được vứt qua hàng rào cao ba mét với những cuộn dây kẽm gai được kéo phủ ở trên. Qua những chiếc cửa sổ không kính, họ có thể thấy những đống vật liệu được phủ bằng tấm nhựa màu xanh. Mortenson lắc cái móc khóa dày trên hàng rào và quay sang Yakub. “Chỉ Shahib Changazi mới có chìa khóa.” hắn nói, lảng tránh đôi mắt của Mortenson.

Chiều hôm sau, Mortenson quay trở lại cùng Parvi; ông lấy ra một cái kìm cắt từ xe taxi và khua khua nó khi họ bước về phía cổng. Một người bảo vệ có vũ trang nhấc mình lên khỏi tảng đá mà anh ta đang ngủ và tháo dây đeo một khẩu súng săn gỉ sét trông giống súng kiểng hơn là một thứ vũ khí. Rõ ràng là việc gọi điện thoại đến Pindi sau cùng đã có thể thực hiện, Mortenson nghĩ. “Ông không được vào.” Người bảo vệ nói bằng tiếng Balti. “Tòa nhà này đã được bán.”

“Gã Changazi này có thể mặc áo thụng trắng, nhưng tôi nghĩ gã là người đàn ông có lòng dạ hết sức đen tối.” Parvi nói với Mortenson một cách hối tiếc.

Không có chút hối tiếc nào trong giọng nói khi Parvi quay sang đối mặt với gã bảo vệ làm thuê. Tiếng Balti có thể có một chất lượng âm họng nghe gay gắt. Lời nói của Parvi đập vào gã bảo vệ như một cái đục đục vào tảng đá, làm mẻ đi ý chí muốn cản đường của anh ta. Sau cùng, khi Parvi im lặng và nâng cái kìm cắt đưa vào ổ khóa, gã bảo vệ bỏ súng xuống, lấy trong túi ra một cái chìa khóa và đi theo một bên họ.

Trong những căn phòng ẩm của khách sạn xây dang dở, Mortenson giở tấm nhựa màu xanh dương lên và thấy khoảng hai phần ba số ximăng, gỗ và tôn lợp mái của mình. Mortenson không bao giờ có thể ghi chép sổ sách toàn bộ số hàng hóa mà anh đã chở bằng xe tải trên xa lộ Karakoram. Nhưng như vậy cũng đủ để bắt đầu cho việc xây dựng. Với sự trợ giúp của Parvi, anh sắp xếp để gửi số vật tư còn lại đến Korphe bằng xe jeep.

“Nếu không có Ghulam Parvi, tôi đã không bao giờ có thể hoàn thành được bất cứ việc gì ở Pakistan.” Mortenson nói. “Cha tôi đã có thể xây dựng bệnh viện của ông vì ông có John Moshi, một đối tác người Tanzania thông minh, có năng lực. Parvi là John Moshi của tôi. Khi đang cố để xây dựng ngôi trường đầu tiên, tôi thực sự không biết mình phải làm gì. Parvi đã chỉ cho tôi cách để thực hiện mọi việc.”

Trước khi bắt đầu đi Korphe bằng xe jeep, Mortenson bắt tay Parvi một cách nồng ấm và cảm ơn ông ta về sự giúp đỡ. “Hãy cho tôi biết nếu như tôi có thể giúp thêm gì.” Parvi nói, hơi cúi người xuống. “Việc mà ông đang làm cho các học sinh Baltistan thật đáng ca ngợi.”

Những tảng đá trông giống một phế tích cổ xưa hơn là những khối đá xây dựng một ngôi trường mới. Dù đứng trên một cao nguyên cao bên trên sông Braldu, trong thời tiết tuyệt vời của mùa thu làm cho ngọn tháp K2 Korphe dựng lên sừng sững, Mortenson vẫn thấy nản lòng bởi viễn cảnh trước mắt mình.

Mùa đông năm ngoái trước khi tới Korphe, Mortenson đã đóng mười cái cọc lều vào trong đất đóng băng và buộc những túm dây nilon đỏ và xanh vào đó để vạch ra một sơ đồ mặt bằng của năm phòng học mà anh đã tưởng tượng ra cho trường học. Anh đã để lại cho Haji Ali đủ tiền để thuê nhân công từ những làng dưới sông nhằm giúp khai thác và vận chuyển đá. Và khi anh đến, anh đã trông chờ thấy được ít nhất là một nền móng của trường học đã được đào. Thay vào đó, anh thấy hai đống đá đứng trong một cánh đồng.

Khi đi kiểm tra địa điểm với Haji Ali, Mortenson cố nén sự thất vọng của mình. Giữa bốn chuyến đi đến sân bay cùng vợ và vụ gây gổ để đòi lại vật liệu xây dựng, anh đã đến đây vào giữa tháng mười, gần một tháng sau khi anh nói Haji Ali hãy đợi mình. Họ phải xây dựng những bức tường trong tuần này, anh nghĩ. Mortenson nén tức giận vào trong lòng, anh tự trách chính mình. Anh không thể quay lại Pakistan mãi. Giờ đây anh đã có gia đình, anh cần một sự nghiệp. Anh muốn ngôi trường được hoàn tất để có thể bắt đầu hình dung ra nghề nghiệp cho cuộc đời của mình sẽ như thế nào. Và bây giờ, mùa đông sẽ làm chậm trễ việc xây dựng một lần nữa. Mortenson giận dữ đá một hòn đá.

“Có việc gì vậy?” Haji Ali nói bằng tiếng Balti. “Anh trông như con cừu đực non đang húc đầu.”

Mortenson hít sâu. “Vì sao ông chưa bắt đầu?” anh hỏi.

“Bác sĩ Greg, chúng tôi đã bàn về kế hoạch của anh sau khi anh quay về quê hương mình.” Haji Ali nói. “Và chúng tôi đã quyết định rằng thật điên rồ khi phung phí tiền của anh để trả cho những người đàn ông lười biếng ở Munjung và Askole. Bọn họ biết ngôi trường được xây dựng bởi một người nước ngoài giàu có, do đó bọn họ sẽ làm ít mà tranh cãi thì nhiều. Vì vậy chúng tôi tự xẻ đá. Việc đó đã mất cả một mùa hè, do có nhiều người phải rời làng để làm công việc khuân vác. Nhưng anh đừng lo, tôi đã cất giữ tiền của anh một cách an toàn ở nhà tôi.”

“Tôi không lo ngại về tiền.” Mortenson nói. “Nhưng tôi muốn lợp xong mái trường trước khi mùa đông bắt đầu để cho bọn trẻ có chỗ học hành.”

Haji Ali đặt bàn tay mình lên vai Mortenson và bóp vai anh chàng người Mỹ như một người cha. “Tôi cảm ơn Thánh Allah nhân từ vì tất cả những gì anh đã làm. Nhưng dân Korphe đã ở đây mà không có trường học từ sáu trăm năm.” ông nói và mỉm cười. “Thêm một mùa đông nữa thì đã sao?”

Trên đường trở về nhà Haji Ali, ngang qua một hành lang những bó lúa mì đang đợi đập, Mortenson dừng lại cách đó vài mét, chào những dân làng đã bỏ gánh xuống để chào mừng anh. Những người phụ nữ đang trở về từ những cánh đồng, khom người tới trước để đổ những cọng lúa mì từ trong những chiếc giỏ mà họ mang trên lưng, trước khi quay trở lại để gặt tiếp một bó khác bằng liềm. Được kết vào urdwas họ quấn trên đầu, sáng lấp lánh giữa vỏ lúa mì xỉn màu bám vào lớp len, Mortenson nhận ra những dải dây nilon xanh và đỏ của mình. Không một thứ gì bị lãng phí ở Korphe.

Đêm hôm đó, nằm dưới những vì sao trên mái nhà Haji Ali, kề bên Twaha, Mortenson nghĩ lại là mình đã cô đơn như thế nào trong lần cuối nằm ngủ tại đây. Anh hình dung ra Tara, nhớ lại kiểu cách đáng yêu mà nàng vẫy tay với anh qua cửa kính ở sân bay San Francisco, và một bong bóng hạnh phúc dâng lên mạnh đến nỗi anh không thể giữ nó cho riêng mình.

“Twaha, anh thức chứ?” Mortenson hỏi.

“Phải, còn thức.”

“Tôi có chuyện này muốn kể cho anh. Tôi đã kết hôn.”

Mortenson nghe một tiếng lách cách, rồi nhíu mắt lại vì ánh sáng của cây đèn pin mà anh vừa mang từ Mỹ sang cho bạn mình. Twaha ngồi dậy kề bên anh, đang nhìn nét mặt anh dưới ánh sáng của bóng đèn pin mới để xem anh có nói đùa hay không.

Rồi cây đèn pin rơi xuống đất và Mortenson cảm thấy một loạt những nắm đấm vào tay và vai anh để chúc mừng. Twaha nằm sụp xuống đống trải giường của mình và thở dài hạnh phúc. “Haji Ali nói bác sĩ Greg lần này trông rất khác.” Twaha cười nói. “Ông ấy thực sự biết mọi chuyện.” Anh ấy bật tắt cây đèn pin để thử. “Tôi có thể biết tên cô ấy không?”

“Tara.”

“Ta... ra.” Twaha nói, cân nhắc cái tên mà theo tiếng Urdu có nghĩa là ngôi sao. “Tara của anh đáng yêu chứ?”

“Ừ.” Mortenson nói, cảm thấy mặt mình đỏ lên. “Rất đáng yêu.”

“Anh phải đưa cho cha cô ấy bao nhiêu dê và cừu?” Twaha hỏi.

“Cha cô ấy đã chết, như cha tôi vậy.” Mortenson nói. “Và ở Mỹ, chúng tôi không trả tiền cho cô dâu.”

“Cô ấy có khóc khi xa rời mẹ mình không?”

“Cô ấy chỉ nói cho mẹ mình về tôi sau khi chúng tôi kết hôn.”

Twaha im lặng trong giây lát, suy nghĩ về những phong tục hôn nhân kì lạ của người Mỹ.

Mortenson đã được mời dự hàng chục đám cưới kể từ khi anh đến Pakistan. Các chi tiết hôn lễ ở Balti khác nhau từ làng này sang làng khác, nhưng có một đặc điểm chính không hề thay đổi - sự đau buồn của cô dâu khi rời gia đình mình mãi mãi.

“Thông thường trong lễ cưới, có một chi tiết long trọng khi bạn thấy cô dâu và bà mẹ ôm chặt lấy nhau khóc.” Mortenson nói. “Cha chú rể xếp những bao đường, bột mì, và hứa hẹn về số lượng dê và cừu, trong khi cha cô dâu khoanh tay và quay lưng lại, đòi hỏi khắt khe; khi cân nhắc thấy cái giá phù hợp, ông quay lại và gật đầu. Rồi mọi chuyện trở nên lộn xộn. Tôi đã thấy những người đàn ông dùng hết sức cố kéo cô dâu ra khỏi bà mẹ, trong khi những người phụ nữ khóc và rên rỉ. Nếu cô dâu rời khỏi một làng hẻo lánh như Korphe, thì cô ta biết rằng mình không bao giờ có thể gặp lại gia đình mình nữa.”

Sáng hôm sau, Mortenson thấy có một quả trứng luộc quý hiếm trên đĩa của mình, kế bên món ăn sáng bình thường gồm chapattivà lassi. Haji Ali bóc vỏ trứng cho Mortenson và giải thích. “Để anh có sức mạnh đủ tạo ra nhiều con.” ông nói, trong khi Sakina cười rúc rích bên dưới tấm khăn choàng.

Haji Ali kiên nhẫn ngồi bên anh cho đến khi anh uống hết chén trà sữa thứ hai. Một nụ cười tươi thoáng hiện rồi bừng lên giữa bộ râu của ông. “Chúng ta đi xây trường nào.” ông nói.

Haji Ali leo lên mái nhà và kêu gọi tất cả đàn ông tụ họp lại ở giáo đường làng. Mortenson, mang theo năm cái xẻng mà anh đã lấy lại được từ khách sạn bỏ hoang của Changazi, đi theo Haji Ali dọc theo những lối đi hướng về giáo đường, khi những người đàn ông trong làng túa ra từ mọi ngôi nhà.

Giáo đường làng Korphe đã được sửa lại cho phù hợp với môi trường đang thay đổi qua nhiều thế kỉ, rất giống những tín đồ mang đầy niềm tin vào trong đó. Người Balti, không có ngôn ngữ viết, bù trừ bằng cách truyền lại chính xác sử truyền miệng. Mỗi người Balti đều có thể thuộc lòng về tổ tiên của họ, trở ngược lại đến hai mươi thế hệ. Và bất cứ người nào ở Korphe cũng đều biết truyền thuyết của tòa nhà viền gỗ được chống đỡ bằng những bức tường đất. Nó đã ở đó gần năm trăm năm, và đã được sử dụng như một đền thờ Phật giáo trước khi Hồi giáo thiết lập một thành trì vững chắc ở Baltistan.

Lần đầu tiên kể từ khi đến Korphe, Mortenson bước qua cổng và đặt chân vào bên trong ngôi đền. Trong những chuyến viếng thăm, anh đã kính cẩn đứng xa giáo đường và vị lãnh đạo tôn giáo của Korphe, Sher Takhi. Mortenson không biết chắc là vị giáo sĩ Hồi giáo cảm thấy như thế nào khi có một kẻ ngoại đạo trong làng, một kẻ ngoại đạo đề nghị giáo dục những bé gái ở Korphe. Sher Takhi mỉm cười với Mortenson và dẫn anh đến tấm thảm cầu nguyện ở cuối phòng. Ông ta gầy và có bộ râu điểm muối tiêu. Như hầu hết những người Balti sống ở miền núi, ông trông già hơn cái tuổi bốn mươi của mình hàng chục tuổi.

Sher Takhi, người đã kêu gọi lòng tin vào việc cầu nguyện năm lần mỗi ngày cho cả làng Korphe rải rác khá rộng mà không cần đến máy khuếch âm, cất giọng như quét khắp gian phòng. Ông hướng dẫn những người đàn ông thực hiện một dua đặc biệt, cầu xin Thánh Allah phù hộ và chỉ dẫn họ khi họ bắt đầu làm việc cho ngôi trường. Mortenson cầu nguyện như ông thợ may đã dạy, khoanh hai cánh tay và gập người ngang thắt lưng. Những người đàn ông Korphe giữ cứng hai tay hai bên hông và ép mình gần như úp sấp xuống đất.

Mortenson nhận ra rằng ông thợ may đã chỉ anh cách cầu nguyện kiểu Sunni. Vài tháng trước, Mortenson đã đọc trên báoIslamabad về làn sóng bạo động Sunni-Shiite mới nhất. Một chiếc xe buýt từ Skardu đi qua hẻm núi Indus trên đường lên xa lộ Karakoram, ngay khi đi qua Chilas, một vùng do người Sunni kiểm soát, một chục người đàn ông che kín mặt, vũ trang tiểu liên Kalashnikov đã phong tỏa con đường và buộc hành khách ra khỏi xe. Họ tách người Shia ra khỏi người Sunni và cắt cổ mười tám người đàn ông Shia trước sự chứng kiến của vợ con họ. Giờ đây anh cầu nguyện như một người Sunni ở ngay trong lòng người Shiite Pakistan. Với những giáo phái đang có giao tranh, Mortenson biết, đàn ông bị giết mà không có lí do gì cả.

“Tôi phân vân giữa việc học cho nhanh cách cầu nguyện như một người Shia hay nên tận dụng tốt nhất cơ hội của mình để nghiên cứu những hình Phật bằng gỗ chạm trên tường,” Mortenson nói. Nếu người Balti tôn kính Phật đủ để thực hành tín ngưỡng khắc khổ của họ bên cạnh chữ vạn và bánh xe luân hồi đạo Phật, Mortenson quyết là như thế khi mắt anh nấn ná nơi những hình chạm, thì chắc họ sẽ đủ rộng lượng để dung thứ cho cách cầu nguyện ngoại giáo mà ông thợ may đã dạy cho anh.

Lần này Haji Ali đưa cho anh một sợi dây. Nó được bện tại địa phương, không phải là sợi dây thừng xanh và đỏ. Mortenson đo chính xác chiều dài, nhúng dây vào hỗn hợp canxi và vôi, rồi dùng phương pháp kiểm tra thời gian của làng để đánh dấu các kích cỡ của địa điểm xây dựng. Haji Ali và Twaha kéo căng dây và quất nó xuống mặt đất, để lại những đường thẳng màu trắng trên nền đất nện, nơi sẽ là vị trí của những bức tường trường học. Mortenson đưa ra năm cái xẻng, và năm mươi người đàn ông khác thay phiên nhau đào liên tục cả buổi chiều cho đến khi có được một cái mương rộng một mét và sâu một mét quanh chu vi trường học.

Khi mương đã đào xong, Haji Ali gật đầu về hướng hai tảng đá lớn đã được đục đẽo cho mục đích này, và sáu người đàn ông nâng những tảng đá này lên, khó nhọc lê bước về phía đường mương và hạ xuống vào trong góc móng đối diện với Korphe K2. Sau đó, ông bảo mang đến một con chogo rabak.

Twaha nghiêm trang sải bước và quay trở lại với con vật lớn màu tro có cặp sừng thật đẹp. “Thông thường, bạn phải kéo con cừu đực để làm cho nó di chuyển.” Mortenson nói. “Nhưng đây là con cừu đực lớn nhất của làng. Nó lớn đến nỗi có thể kéo Twaha đi; anh ta cố hết sức để giữ và kéo con vật đến nơi hành hình.”

Twaha giữ con rabak bên trên tảng đá và nắm chặt sừng của nó. Anh ta nhẹ nhàng xoay đầu nó về hướng Mecca trong khi Sher Takhi ngâm tụng câu chuyện Thánh Allah yêu cầu Abraham hiến tế con trai mình, trước khi cho phép ông dùng một con cừu đực để thay thế sau khi ông vượt qua được thử thách về lòng trung thành của mình. Trong kinh Koran, câu chuyện này xuất hiện rất giống như thỏa ước mà Abraham và Isaac thực hiện trong kinh Torah và kinh Thánh. “Chứng kiến cảnh này xuất phát trực tiếp từ những câu chuyện trong kinh Thánh mà tôi đã được học trong lớp giáo lí ngày chủ nhật ở nhà thờ.” Mortenson nói. “Tôi nghĩ các tín ngưỡng khác nhau có biết bao nhiêu đặc điểm chung, bạn có thể dò ra rất nhiều tập quán của các tôn giáo này có chung một nguồn gốc như thế nào.”

Hussain, một người khuân vác leo núi thành đạt, với vóc dáng như một võ sĩ sumo trong kích thước của người Balti, là đồ tể của làng. Những người khuân vác Balti được trả tiền tính theo tải trọng hai mươi lăm kí. Hussain nổi tiếng vì vận chuyển một tải trọng gấp ba trong những chuyến thám hiểm, mỗi lần không bao giờ ít hơn bảy mươi kí. Anh ta rút con dao dài bốn tấc ra khỏi vỏ và nhẹ nhàng đặt nó xuống đám lông lởm chởm trên họng con cừu. Sher Takhi đưa cao hai tay lên, lòng bàn tay hướng lên trên đầu con rabak và xin Thánh Allah cho phép lấy mạng nó. Rồi ông gật đầu với người đàn ông đang run run cầm con dao.

Hussain gồng hai chân và đưa lưỡi dao một cách gọn gàng qua khí quản con cừu đực, rồi đưa vào tĩnh mạch cảnh. Dòng máu nóng trào ra, tung tóe trên những tảng đá, rồi phun thành từng đợt, chậm dần cùng với những nhát dao cuối cùng đâm vào tim con vật. Gầm gừ gắng sức, Hussain rọc dao xuyên qua tủy sống, và Twaha nắm sừng đưa cao cái đầu con vật lên. Mortenson nhìn chăm chú vào mắt con vật, và đôi mắt của nó cũng nhìn lại không kém sinh động hơn đôi mắt trước đó khi Hussain đâm dao.

Phụ nữ chuẩn bị cơm và dal trong khi đàn ông lột da và xẻ thịt con cừu đực. “Chúng tôi không làm gì khác trong ngày hôm đó.” Mortenson nói. “Trên thực tế, chúng tôi hầu như không làm được chuyện gì khác trong mùa thu năm đó. Haji Ali đang vội để cầu thần thánh cho ngôi trường, chứ không phải để xây trường. Chúng tôi chỉ có một bữa tiệc lớn. Đối với người dân, có lẽ chỉ ăn thịt vài lần trong một năm, thì bữa tiệc đó là một chuyện nghiêm túc hơn nhiều so với ngôi trường.”

Mỗi người dân Korphe đều có phần thịt của mình. Sau khi khúc xương cuối cùng được đập ra và chút tủy cuối cùng đã được mút hết, Mortenson nhập vào một toán đàn ông, nhóm ngọn lửa ở nơi mà anh hi vọng rằng một ngày gần đây sẽ trở thành sân của ngôi trường hoàn chỉnh. Khi trăng mọc lên trên Korphe K2, họ nhảy múa quanh đám lửa và dạy cho Mortenson những bài thơ từ Trường ca Người Himalaya của Gezar được khắp vùng nóc nhà của thế giới yêu thích, và giới thiệu anh với nguồn bài hát dân gian Balti nhiều vô tận.

Cùng nhau, người Balti và người Mỹ cao to nhảy múa như những tu sĩ Hồi giáo và ca hát về những vương quốc phong kiến vùng núi, về sự hung bạo của những chiến binh Pathan tràn vào từ Afghanistan, và những trận chiến giữa các vị vua người Balti với người châu Âu xâm lược trước hết đến từ phương Tây vào thời Alexander, và sau đó, có sự tham gia của bọn tay sai Gurkha, từ vùng đất Ấn Độ của Anh đến phía nam và phía đông. Phụ nữ Korphe, lúc này đã quen với kẻ ngoại đạo giữa bọn họ, đứng ngoài rìa ánh lửa, mặt họ bừng sáng lên khi vỗ tay và hát cùng những người đàn ông.

Mortenson nhận ra rằng người Balti có một lịch sử, một truyền thống phong phú. Việc nó không được ghi chép lại không hề làm cho nó giảm bớt tính xác thực. Những khuôn mặt bao quanh ngọn lửa này không cần phải được dạy nhiều như họ cần có sự trợ giúp. Và ngôi trường là một nơi để họ có thể tự giúp chính mình. Mortenson xem xét kĩ địa điểm xây dựng. Không có gì nhiều hơn là một đường mương cạn vương vãi máu cừu đực. Anh sẽ không thể hoàn thành được gì nhiều hơn nữa trước khi trở về nhà với Tara, nhưng trong đêm nhảy múa đó, ngôi trường đã vươn thành một khối rất quan trọng trong tâm trí anh - nó trở nên thực đối với anh. Anh có thể thấy ngôi trường hoàn chỉnh dựng lên trước mặt mình rõ ràng như núi Korphe K2, được chiếu sáng bởi ánh trăng ngà. Mortenson quay trở lại đối diện với ngọn lửa.

Chủ nhà của Tara Bishop từ chối không cho hai vợ chồng sống trong căn hộ được sửa chữa từ nhà xe tiện nghi, vì vậy Mortenson đã chở đi vài món đồ của vợ, thích hợp với căn phòng thuê ở nhà Dudzinski, và chất đầy số còn lại vào khoảng kho của mình. Nhìn thấy những quyển sách và cây đèn của cô tựa sát vào những chú voi tạc bằng ngà của cha mình, Mortenson cảm thấy cuộc đời của họ quyện vào với nhau như những chú voi - từ vòi đến đuôi, từ dây đèn đến thùng đựng sữa.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx