sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Ba tách trà - Chương 12 phần 2

Tara rút ra từ khoản thừa kế nhỏ mà cha mình đã để lại để mua chiếc giường gỗ cỡ lớn, chiếm nhiều không gian trong phòng ngủ nhỏ của họ. Mortenson thích thú vì những tác động tích cực mà hôn nhân đã mang lại cho cuộc sống của anh. Lần đầu tiên kể từ khi đếnCalifornia, anh rời khỏi túi ngủ của mình và bước vào chiếc giường. Và lần đầu tiên sau nhiều năm, anh đã có người để cùng bàn cãi về cuộc phiêu lưu mà anh đã dấn vào kể từ khi đặt chân đến Korphe.

“Greg càng nói về công trình của anh, tôi càng nhận ra mình may mắn như thế nào.” Tara nói. “Anh ấy quá say mê vùng đất Pakistan, và niềm say mê đó đã bộc lộ ở bất cứ thứ gì khác mà anh làm.”

Jean Hoerni cũng lấy làm kinh ngạc về sự đam mê của Mortenson đối với người dân Karakoram. Ông mời Mortenson và Bishop đến dự lễ Tạ ơn tại Seattle. Hoerni và vợ ông, Jennifer Wilson, dọn một bữa ăn hoành tráng nhắc Mortenson nhớ đến những bữa tiệc mà anh đã được ăn ở Baltistan, trong cuộc chiến giành giật ngôi trường. Hoerni thích nghe từng chi tiết và Mortenson đã mô tả những vụ bắt cóc bằng xe jeep, bữa ăn kép ở Khane và nguyên một con bò Tây Tạng mà Changazi dọn ra ở Kuardu, và rồi trở về với hiện tại. Anh không chạm đến thức ăn của mình, mô tả việc động thổ ngôi trường Korphe, việc hiến tế con chogo rabak và một đêm thức trắng nhảy múa bên ngọn lửa.

Vào lễ Tạ ơn năm đó, Mortenson có nhiều điều để tạ ơn. “Nghe này,” Hoerni nói khi họ ngồi trước ngọn lửa của lò sưởi với những cốc rượu vang lớn. “Anh yêu thích những gì mà anh đang làm ở Himalaya và dường như anh làm cũng không đến nỗi tệ. Tại sao anh không chọn nó làm sự nghiệp? Bọn trẻ ở những ngôi làng cố mua chuộc anh cũng cần trường học, và không một ai trong giới leo núi sẽ động một ngón tay để giúp những người Hồi giáo. Họ có quá nhiều người Sherpa và Tây Tạng, có quá nhiều người Phật giáo trong suy nghĩ của họ. Anh nghĩ sao nếu như tôi thành lập một quỹ tài trợ và bổ nhiệm anh làm giám đốc? Anh có thể xây dựng trường học mỗi năm. Anh nghĩ sao?”

Mortenson bóp chặt tay vợ mình. Ý tưởng thật quá đúng đắn khiến anh không dám nói gì. Chỉ sợ Hoerni có thể đổi ý. Anh nhấp rượu của mình.

Mùa đông năm đó, Tara Bishop có thai. Với một đứa con sắp chào đời, căn hộ ám khói của Dudzinski càng lúc càng có vẻ không thích hợp. Mẹ của Tara, Lila Bishop, nghe được những tường thuật sáng láng về cá tính của Mortenson từ những quan hệ của mình trong giới leo núi, đã mời hai vợ chồng đến thăm ngôi nhà đầy chất nghệ thuật của bà ở trung tâm lịch sử của Bozeman, Montana. Mortenson lập tức đi đến thành phố mộc mạc, nằm bên dưới dãy Gallatin hoang vu. Anh rời khỏi Berkeley, thành phố gắn liền với cuộc đời leo núi mà anh đã bỏ lại đằng sau. Lila Bishop đề nghị cho họ vay đủ số tiền đặt cọc để mua một căn nhà nhỏ gần đó.

Vào đầu mùa xuân, Mortenson đóng cửa gian phòng kho tự giữ số 114 lần cuối cùng và lái chiếc xe tải U-Haul cùng vợ mình đếnMontana. Họ chuyển vào căn nhà gỗ một tầng sạch sẽ cách nhà mẹTara hai tòa nhà. Căn nhà có khoảnh sân với hàng rào bao quanh, nơi trẻ con có thể chơi đùa, cách xa với thứ khói gián tiếp của thủy thủ Ba Lan và đám trẻ con mười bốn tuổi vẩy súng.

Tháng 5 năm 1996, khi Mortenson điền vào những biểu mẫu nhập cảnh ở sân bay Islamabad, cây bút của anh ngập ngừng trên ô ghi “nghề nghiệp”. Trong nhiều năm, anh đã ghi “nhà leo núi”. Lần này anh nguệch ngoạc dòng chữ in hoa “Giám Đốc, Viện Trung Á”. Hoerni đã gợi ý cái tên này. Nhà khoa học đã hình dung ra một hoạt động có thể phát triển nhanh như một trong những công ty bán dẫn của mình, mở rộng để xây dựng những ngôi trường và những dự án nhân đạo vượt ra ngoài Pakistan, qua hằng hà sa số “stan” tràn ra những tuyến đường tơ lụa. Mortenson chưa chắc chắn như vậy. Anh gặp quá nhiều rắc rối trong việc dựng nên một ngôi trường từ mặt đất để nghĩ theo tầm cỡ của Hoerni. Nhưng anh đã có lương hằng năm 21.798 đôla để có thể trông cậy, và một sự ủy thác để bắt đầu suy nghĩ dài hạn.

Từ Skardu, Mortenson gửi thông báo đến làng của Mouzafer, mời ông đến Korphe với một mức lương cố định để giúp cho ngôi trường. Anh cũng đến thăm Ghulam Parvi trước khi ông “lên đường”. Parvi sống tại vùng ngoại ô với những vườn cây tươi tốt ở những ngọn đồi phía bắc Skardu. Khu nhà tường của ông nằm sát một thánh đường Hồi giáo lộng lẫy mà ông đã giúp sức xây dựng trên mảnh đất cha ông hiến tặng. Qua buổi uống trà trong sân nhà Parvi, được bao quanh bởi những cây táo và cây mơ đang nở hoa, Mortenson trình bày kế hoạch khiêm tốn nhất của mình cho tương lai - hoàn tất ngôi trường ở Korphe và xây dựng một trường khác ở đâu đó trong vùng Baltistan vào năm sau - và mời Parvi tham gia. Được ủy quyền bởi Hoerni, Mortenson nhã ý gửi Parvi một khoản lương nhỏ để bổ sung vào thu nhập từ nghề kế toán của ông. “Tôi có thể thấy ngay sự vĩ đại trong tấm lòng của Greg.” Parvi nói. “Cả hai chúng tôi đều mong muốn những chuyện giống nhau cho trẻ em Baltistan. Vì sao tôi có thể từ chối một con người như vậy?”

Cùng với Makhmal, một thợ nề có tay nghề mà Parvi đã giới thiệu ở Skardu, Mortenson đến Korphe vào chiều thứ sáu. Đi trên cây cầu mới dẫn vào làng, Mortenson ngạc nhiên thấy một chục phụ nữ Korphe đi thong thả về phía anh, trong những chiếc khăn quàng và những đôi giày đẹp nhất mà họ chỉ mang vào những dịp đặc biệt. Họ cúi chào anh trước khi vội vàng đến thăm con cái ở những ngôi làng lân cận trong dịp Juma, ngày lễ thánh. “Giờ đây khi có thể trở về trong cùng buổi chiều, những phụ nữ Korphe đã đều đặn mỗi thứ sáu đi thăm con mình.” Mortenson giải thích. “Cây cầu đã làm bền vững những mối quan hệ mẹ con và giúp phụ nữ cảm thấy hạnh phúc hơn và ít bị cô lập hơn. Có ai biết được một điều đơn giản như một cây cầu lại có thể đem lại sức mạnh cho phụ nữ?”

Ở bờ bên kia sông Braldu, Haji Ali đứng như tượng như mọi khi, trên điểm cao nhất của một vách đá. Kế bên là Twaha và Jahan; ông chào đón đứa con trai người Mỹ của mình trở về bằng một cái ôm như gấu và nồng nhiệt chào người khách mà anh đưa từ thành phố lớn đến đây.

Mortenson thích thú khi thấy người bạn cũ Mouzafer đứng bẽn lẽn phía sau Haji Ali. Ông cũng ôm Mortenson rồi đặt tay mình lên tim để tỏ lòng kính trọng khi họ rời ra để nhìn nhau. Mouzafer trông già đi rất nhiều kể từ khi Mortenson gặp ông lần cuối và có vẻ không được khỏe.

“Yong chiina yot?” Mortenson nói đầy sự quan tâm, chào bằng câu chào truyền thống của người Balti. “Ông có khỏe không?”

“Hôm nay tôi khỏe, tất cả là nhờ ơn Thánh Allah.” Mouzafer nói, mãi một lúc sau ông mới nói tiếp bằng nhịp điệu nhẹ nhàng của một người sắp điếc. “Chỉ mệt một chút.” Đêm hôm đó, trong bữa ăn gồm dal và cơm ở nhà Haji Ali, Mortenson được biết Mouzafer vừa hoàn tất mười tám ngày anh hùng. Lại một vụ lở đất nữa làm nghẽn con đường mòn duy nhất từ Skardu đến Korphe, và Mouzafer, vừa trở về từ chuyến đi 130 dặm trên Baltoro cùng đoàn thám hiểm người Nhật, đã dẫn đầu một nhóm nhỏ những người khuân vác, chuyển những bao ximăng bốn mươi kí qua mười tám dặm ngược sông đến Korphe. Một người nhỏ nhắn giữa tuổi lục tuần, Mouzafer đã thực hiện hơn hai mươi chuyến mang vác nặng, bỏ nhiều bữa ăn và đi bộ ngày đêm để chuyển ximăng đến địa điểm xây dựng đúng thời gian Mortenson đến.

“Khi tôi gặp Greg Mortenson lần đầu tiên ở Baltoro, anh ta là một chàng trai ăn nói rất thân thiện.” Mouzafer nói, “Luôn luôn đùa và chia sẻ lòng mình với những người nghèo như phu khuân vác. Khi tôi lạc mất anh và nghĩ rằng anh có thể chết ngoài băng giá, tôi đã thức cả đêm, cầu nguyện Thánh Allah cho tôi có thể cứu anh. Và khi tìm thấy anh, tôi đã tự hứa sẽ bảo vệ anh mãi mãi với tất cả sức lực của mình. Kể từ đó, anh ấy đã cho Balti nhiều. Tôi nghèo, và tôi chỉ có thể cho anh lời cầu nguyện của mình. Ngoài ra còn có sức mạnh của lưng tôi. Mà tôi vui lòng cho đi để anh có thể xây dựng ngôi trường của mình. Về sau, khi trở về làng mình sau thời gian vận chuyển ximăng, vợ tôi đã nhìn khuôn mặt nhỏ của tôi và hỏi ‘Điều gì đã xảy ra với anh? Anh bị bắt giam hả?’” Mouzafer nói với tiếng cười the thé.

Sáng hôm sau, trước khi trời sáng, Mortenson bước tới bước lui trên mái nhà của Haji Ali. Bây giờ anh đã ở đây như giám đốc của một tổ chức. Anh có những trách nhiệm lớn hơn là chỉ một ngôi trường ở một ngôi làng hẻo lánh.

Niềm tin mà Jean Hoerni đã dành cho anh đè nặng trên đôi vai rộng của anh, và anh xác định sẽ không có thêm những buổi họp bất tận và những buổi tiệc; anh sẽ thúc đẩy việc xây dựng nhanh chóng hoàn tất.

Khi người làng tập trung tại địa điểm xây dựng, Mortenson gặp họ với dây dọi, thước thủy và sổ cái trên tay. “Để việc xây dựng tiến triển cũng giống như điều khiển một dàn nhạc.” Mortenson nói. “Trước hết, chúng tôi phải sử dụng thuốc nổ để phá những tảng đá lớn thành những tảng đá nhỏ hơn. Rồi cần có hàng chục người luồn lách qua đống đổ nát như một giai điệu, mang đá đến cho thợ hồ. Makhmal sẽ tạo hình những khối đá thành những viên gạch đều đặn đến không ngờ chỉ với một vài nhát đục. Những nhóm phụ nữ mang nước đến từ dòng sông, để trộn với ximăng trong những hố lớn đã được đào trên nền đất. Rồi thợ hồ sẽ trát vữa lên ximăng và xếp gạch thành từng hàng dần lên cao. Sau cùng, hàng chục trẻ em trong làng sẽ nêm những mẩu đá vụn vào khe hở ở giữa những viên gạch.

“Tất cả chúng tôi đều rất phấn khởi để hỗ trợ.” Cô con gái Tahira của thầy giáo Hussein, khi đó mới mười tuổi nói. “Cha tôi nói rằng trường học sẽ là một thứ gì rất rộng rãi, nhưng tôi không biết một ngôi trường là như thế nào; do đó tôi đến để xem điều gì làm mọi người phấn khởi như vậy và để giúp họ. Mọi người trong gia đình đều phụ một tay vào việc xây dựng.”

“Bác sĩ Greg đem sách từ nước ông đến.” cháu gái Jahan của Haji Ali, khi đó lên chín, người tốt nghiệp cùng Tahira trong lớp đầu tiên của trường Korphe nói. “Và họ có những hình ảnh về ngôi trường, do đó em hình dung được đôi điều mà chúng em đang hi vọng xây dựng. Em nghĩ bác sĩ Greg rất khác biệt với bộ quần áo sạch sẽ của ông. Và tất cả trẻ em trong hình trông cũng rất sạch sẽ. Em cũng nhớ mình đã nghĩ nếu được đến trường này, một ngày kia em cũng có thể trở nên khác biệt.”

Đến hết tháng sáu, các bức tường của ngôi trường đã mọc lên vững chãi, nhưng với một nửa đội ngũ xây dựng vắng mặt trong bất cứ ngày nào vì phải đi chăm sóc mùa màng và súc vật, việc xây dựng diễn tiến chậm hơn mong muốn của Mortenson. “Tôi cố tỏ ra là một người đốc công cứng cỏi nhưng công bằng.” Mortenson nói. “Tôi có mặt cả ngày ở địa điểm xây dựng, từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn, sử dụng thước thủy để đảm bảo các bức tường bằng phẳng và dây dọi để kiểm tra là chúng thẳng đứng. Tôi luôn luôn có sổ ghi chép trong tay và để mắt đến mọi người, lo lắng tính toán từng rupi. Tôi không muốn làm Jean Hoerni thất vọng, do đó tôi thúc giục mọi người gắt gao.”

Một buổi chiều tối trời đầu tháng tám, Haji Ali vỗ vào vai Mortenson ở địa điểm xây dựng và rủ anh đi dạo. Người đàn ông già dẫn nhà cựu leo núi lên đồi trong một giờ, trên đôi chân còn vững vàng đủ để vượt qua chàng trai trẻ hơn mình nhiều. Mortenson cảm thấy thời gian quý báu đang trôi đi và vào lúc Haji Ali đứng lại trên một rìa hẹp cao bên trên ngôi làng, Mortenson thở hổn hển, phần vì nghĩ về những việc mà anh không giám sát được phần vì sự ráng sức của mình.

Haji Ali chờ cho đến khi Mortenson lấy lại được hơi thở rồi yêu cầu anh nhìn quang cảnh trước mắt. Không khí trong lành như mới được chùi rửa mà chỉ có ở trên cao mới cảm nhận được. Xa xa ngoài Korphe K2, những đỉnh núi băng của vùng bên trong Karakoram đâm lên như những mũi dao không thương xót vào bầu trời xanh không phòng vệ. Ba trăm mét bên dưới, Korphe, đầy sức sống với những cánh đồng kiều mạch đang chín, trông nhỏ bé và tầm thường, một chiếc bè của sự sống trôi dạt trên một biển đá.

Haji Ali đứng lên và đặt tay mình lên vai Mortenson. “Những ngọn núi này đã đứng đây một thời gian dài.” Ông nói. “Và chúng tôi cũng vậy.” Ông vươn tay lên chiếc nón topi màu nâu bằng lông cừu, biểu tượng quyền lực duy nhất của nurmadhar ở Korphe, nằm ngay giữa mái tóc bạc của ông. “Anh không thể bảo những ngọn núi phải làm gì.” ông nói với vẻ nghiêm nghị làm Mortenson sững sờ như cảnh vật xung quanh anh. “Anh phải học để lắng nghe chúng. Vì thế bây giờ tôi yêu cầu anh lắng nghe tôi. Với lòng nhân từ của Thánh Allah toàn năng, anh đã làm được nhiều điều cho nhân dân tôi và chúng tôi đánh giá cao điều đó. Nhưng giờ đây anh phải làm cho tôi thêm một điều nữa.”

“Bất cứ điều gì.” Mortenson nói.

“Hãy ngồi xuống. Và ngậm miệng lại.” Haji Ali nói. “Anh đang làm cho mọi người phát điên lên.”

“Sau đó ông đưa tay cầm lấy sợi dây dọi, cây thước thủy và sổ ghi chép của tôi, rồi đi trở xuống Korphe.” Mortenson nói. “Tôi đi theo ông suốt đoạn đường về nhà, lo lắng về những gì ông đang làm. Ông lấy chiếc chìa khóa lúc nào cũng đeo quanh cổ bằng một sợi dây da, mở chiếc tủ nhỏ có trang trí hình Phật đã cũ mờ và cất mọi thứ của tôi vào trong đó, cùng với một xương ống chân dê núi, chuỗi hạt cầu nguyện và cây súng hỏa mai Anh của ông. Rồi ông bảo Sakina mang trà lên cho chúng tôi.”

Mortenson sốt ruột chờ đợi nửa tiếng đồng hồ trong khi Sakina pha paiya cha, Haji Ali lướt những ngón tay trên cuốn kinh Koran mà ông quý hơn bất cứ tài sản nào của mình, lật ngẫu nhiên các trang và đọc gần như thì thầm lời cầu nguyện bằng tiếng Ả Rập khi ông nhìn chăm chú vào nội tâm mình.

Khi các chén sứ trà bơ nóng bốc khói trong tay họ, Haji Ali lên tiếng. “Nếu muốn sống ở Baltistan, anh phải tôn trọng lề thói của chúng tôi.” Haji Ali vừa nói vừa thổi chén trà của mình. “Lần đầu tiên anh uống chung trà với một người Balti, anh là người lạ. Lần thứ hai anh uống trà, anh là vị khách được trân trọng. Lần thứ ba chia sẻ chén trà, anh trở thành người nhà, và đối với gia đình mình, chúng tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì thậm chí là bỏ mạng.” ông nói, đặt bàn tay mình một cách ấm áp lên tay Mortenson. “Bác sĩ Greg, anh phải dành thời gian để chia sẻ ba chén trà. Chúng tôi có thể không được giáo dục. Nhưng chúng tôi không ngốc nghếch. Chúng tôi đã ở đây và đã sống sót trong một thời gian dài.”

“Ngày hôm đó, Haji Ali đã dạy cho tôi bài học quan trọng nhất mà tôi từng được học trong đời.” Mortenson nói. “Người Mỹ chúng ta nghĩ rằng anh phải hoàn tất mọi chuyện thật nhanh chóng. Chúng ta là một quốc gia của những bữa ăn quyền lực ba mươi phút và những bài tập luyện bóng bầu dục hai phút. Các nhà lãnh đạo của chúng ta nghĩ rằng chiến dịch gây sốc và hoảng sợ của họ có thể kết thúc cuộc chiến Iraq thậm chí trước khi nó bắt đầu. Haji Ali dạy tôi chia sẻ ba chén trà, chậm lại và xây dựng những mối quan hệ cũng quan trọng như việc xây dựng những dự án. Ông dạy tôi rằng tôi còn nhiều điều phải học hơn nữa từ những con người mà tôi cùng làm việc, thay vì hi vọng có thể dạy cho họ.”

Ba tuần sau, với Mortenson đã từ anh đốc công trở thành một khán giả, những bức tường của trường học đã được dựng lên cao hơn đầu anh chàng người Mỹ và tất cả những gì còn lại đã được đặt lên mái. Những dầm mái mà Changazi chôm chỉa không bao giờ thu hồi lại được, và Mortenson quay trở lại Skardu, ở đó anh và Parvi giám sát việc mua và cấu tạo những dầm gỗ đủ chắc chắn để chống đỡ những trận tuyết đã ướp xác Korphe trong suốt mùa đông.

Như có thể đoán trước, những chiếc xe jeep chở gỗ lên Korphe bị chặn lại bởi một vụ lở đất khác làm đường bị chia cắt cách nơi đến mười tám dặm. “Sáng hôm sau, trong khi tôi và Parvi đang bàn xem phải làm gì thì chúng tôi thấy một đám bụi lớn bốc lên từ thung lũng.” Mortenson nói. “Haji Ali phần nào đã được nghe về vấn đề của chúng tôi và những người đàn ông Korphe đã đi suốt đêm. Họ đến, vỗ tay, ca hát và có tinh thần cao không thể tin được đối với những người đã không hề chợp mắt. Và điều đáng kinh ngạc nhất đã xảy ra. Sher Takhi đã đến với họ và khăng khăng để được vận chuyển chuyến hàng đầu tiên.”

“Người đàn ông thánh thiện không nề hà tới việc tự hạ thấp mình với công việc tay chân. Nhưng ông sẽ không cong lưng xuống, và ông sẽ dẫn đầu đoàn ba mươi lăm người đàn ông vận chuyển những dầm mái suốt quãng đường dài mười tám dặm đến Korphe. Sher Takhi bị sốt bại liệt từ khi còn bé và ông đi cà nhắc, do đó việc mang vác là một cực hình đối với ông. Nhưng ông đã dẫn đầu chúng tôi lên đến thung lũng Braldu, cười vui vẻ bên dưới tải trọng của mình. Đó là cách mà vị giáo sĩ bảo thủ này thể hiện sự ủng hộ của mình đối với việc giáo dục tất cả trẻ em ở Korphe, ngay cả các em gái.”

Không phải hết thảy người dân Braldu đều chia sẻ quan điểm với Sher Takhi. Một tuần sau, Mortenson đang đứng đặt tay trên vai Twaha, chiêm ngưỡng sự khéo léo mà Makhmal và toán người của ông đặt các dầm mái vào vị trí thì có tiếng kêu từ các bé trai rải rác trên các nóc nhà ở Korphe. Một tốp người lạ đang băng qua cầu, chúng cảnh báo, và đang trên đường đến làng.

Mortenson theo Haji Ali đến điểm quan sát của ông trên vách đá cao bên cầu. Anh thấy năm người đàn ông đang đến gần. Một người, có vẻ là người chỉ huy, dẫn đầu đoàn người. Bốn người đàn ông lực lưỡng đi sau mang theo những cái chày làm bằng cành dương mà chúng đập vào lòng bàn tay theo nhịp bước chân. Người cầm đầu là một gã đàn ông lớn tuổi, nhỏ con, trông không được khỏe, chống gậy khi leo lên Korphe. Ông ta dừng lại, vẻ bất lịch sự, cách Haji Ali khoảng năm mươi mét, và yêu cầu nurmadhar của Korphe bước ra chào mình.

Twaha nghiêng người về phía Mortenson. “Người này là Haji Mehdi. Không phải người tốt.” anh thì thầm.

Mortenson đã từng gặp Haji Mehdi, nurmadhar của Askole. “Ông ta ra vẻ là người tôn sùng đạo Hồi.” Mortenson nói. “Nhưng ông ta thao túng kinh tế toàn thung lũng Braldu như một ông trùm mafia. Ông ta ăn phần trăm từng con cừu, con dê, con gà mà người Balti bán được và bóc lột những người leo núi, đặt ra những giá cả hàng tiếp tế cắt cổ. Nếu có ai bán cho một đoàn thám hiểm nhiều hơn một quả trứng mà không trả phần cho ông ta, ông ta sẽ phái bọn tay sai dùng chày đánh họ.”

Sau khi Haji Ali ôm Mehdi, nurmadhar của Askole từ chối lời mời trà. “Tôi sẽ nói công khai để tất cả các anh có thể nghe.” ông ta nói với đám đông tụ tập quanh vách đá. “Tôi nghe nói có một kẻ ngoại đạo đã đến đầu độc trẻ em Hồi giáo, trai cũng như gái, bằng những lời dạy của hắn.” Haji Mehdi gầm gừ. “Thánh Allah cấm việc dạy học cho con gái, và ta cấm việc xây dựng ngôi trường này.”

“Chúng tôi sẽ hoàn thành ngôi trường này.” Haji Ali nói giọng đều đều. “Cho dù ông có cấm hay không.”

Mortenson bước tới, hi vọng xoa dịu bạo lực đang tích tụ lại trong không khí. “Sao chúng ta không uống trà và nói về chuyện này nhỉ.”

“Tôi biết anh là ai, kafir(15).” Mehdi nói, sử dụng từ xấu xa nhất dành cho người ngoại đạo. “Và tôi không có gì để nói với anh.”

15. Tiếng lóng, chỉ những người từ bỏ tôn giáo hoặc người ngoại đạo

“Thế còn anh, anh có phải là một người Hồi giáo không?” Mehdi nói, quay sang Haji Ali đầy đe dọa. “Chỉ có một Thượng đế. Anh thờ phụng Thánh Allah hay tên kafir này?”

Haji Ali vỗ vào vai Mortenson. “Chưa bao giờ có một ai khác đến đây để giúp dân làng tôi. Tôi đã trả tiền cho ông hằng năm nhưng ông chưa bao giờ làm gì cho làng tôi cả. Người đàn ông này còn Hồi giáo hơn cả ông. Anh ta xứng đáng được tôi tôn sùng hơn ông.”

Bọn người của Haji Mehdi chạm tay vào chùy với vẻ bồn chồn. Haji Mehdi đưa một bàn tay lên để làm cho chúng vững tin. “Nếu ông khăng khăng giữ ngôi trường kafir của mình, ông phải trả giá.” Mehdi nói, mi mắt hạ xuống. “Tôi đòi mười hai con cừu đực lớn nhất của ông.”

“Như ông muốn.” Haji Ali nói, quay lưng về phía Mehdi, để nhấn mạnh rằng ông ta đã thoái hóa như thế nào khi đòi một khoản hối lộ. “Hãy đem chogo rabak lại đây!” ông ra lệnh.

“Bạn phải hiểu là trong những ngôi làng này, một con cừu đực cũng giống như một đứa con đầu lòng, một con bò cái đoạt giải thưởng và một con vật yêu trong gia đình - tất cả quyện lại làm một.” Mortenson giải thích. “Nhiệm vụ thiêng liêng nhất của người con trai cả trong từng gia đình là chăm sóc con dê đực của họ, và họ đã bị cướp.”

Haji Ali tiếp tục quay lưng về những người khách cho đến khi mười hai thanh niên đến gần, kéo theo những con đại gia súc có móng và sừng dày. Ông nhận dây cương từ họ rồi buộc những con cừu đực lại với nhau. Tất cả thanh niên đều khóc khi giao chỗ tài sản thân yêu nhất của mình cho nurmadhar. Haji Ali dắt bầy cừu đang kêu rống thảm thiết, đến chỗ Mehdi, và ném đầu dây cho hắn mà không nói một lời. Rồi ông quay gót và dồn người dân về địa điểm trường học.

“Đó là một trong những hành động nhún mình nhất mà tôi từng thấy.” Mortenson nói. “Haji Ali vừa giao đi một nửa của cải của làng cho gã khốn đó, nhưng ông vẫn cười như vừa trúng xổ số.”

Haji Ali dừng lại trước tòa nhà mà mọi người trong làng đã lao động vất vả để dựng lên. Ngôi trường đứng vững chãi trước Korphe K2, với những bức tường đá ấm cúng được trát vữa và sơn vàng, cùng những cánh cửa gỗ dày để chống chọi với thời tiết. Trẻ em Korphe sẽ không bao giờ phải quỳ gối học bài trên nền đất băng giá nữa. “Đừng buồn nữa,” ông nói với đám đông đang choáng váng. “Sau khi những con cừu đực đó chết và bị ăn thịt thì ngôi trường này vẫn đứng vững. Hôm nay, Haji Mehdi có thức ăn. Giờ đây, con em chúng ta có giáo dục mãi mãi.”

Sau khi trời tối, bên ánh sáng của ngọn lửa âm ỉ trong balti của mình, Haji Ali ngoắc Mortenson đến ngồi bên cạnh. Ông cầm cuốn kinh Koran quăn góc, lốm đốm dầu mỡ và giữ nó trước ngọn lửa. “Anh có thấy cuốn kinh Koran đẹp như thế nào không?” Haji Ali hỏi.

“Có.”

“Tôi không thể đọc nó.” ông nói. “Tôi không thể đọc gì cả. Đó là nỗi buồn lớn nhất trong đời tôi. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì để bọn trẻ ở làng tôi không bao giờ phải biết đến cảm giác đó. Tôi sẽ trả bất cứ giá nào để chúng có được sự giáo dục mà chúng đáng được hưởng.”

“Ngồi bên ông ấy,” Mortenson nói, “Tôi nhận ra rằng mọi điều, tất cả những khó khăn mà tôi đã trải qua từ lúc hứa xây dựng ngôi trường cho đến cuộc đấu tranh dài để hoàn thành nó, không có nghĩa gì khi so sánh với những hi sinh mà ông đã chuẩn bị để thực hiện cho dân làng mình. Đây là người đàn ông mù chữ, một người gần như chưa bao giờ rời khỏi ngôi làng nhỏ bé của mình ở Karakoram, vậy mà ông lại là một trong những người khôn ngoan nhất mà tôi đã từng gặp.”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx