sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Ba tách trà - Chương 13 phần 2

Bên kia con đường bụi bặm, sau những bức tường cao, là Madrassa-I-Arabia do Saudi xây dựng, nơi mà hai năm sau, John Walker Lindh, người “Taliban Mỹ” sẽ đến học một nhánh chính thống của đạo Hồi gọi là “Wahhabism”. Người ta tường thuật rằng Lindh, tươi mát từ vùng khí hậu khô lạnh của quận Marin, sẽ khô héo trong ánh nắng Waziristan và sẽ vượt qua những con đèo vào Afghanistan, để tiếp tục việc học của mình ở một madrassa trong vùng núi với khí hậu ôn hòa hơn, một madrassa được tài trợ bởi một người Saudi khác: Osama Bin Laden.

Suốt cả buổi chiều, họ lái xe đi sâu hơn vào Waziristan, trong khi Mortenson thực hành một vài câu chào lịch sự bằng tiếng Pashto mà người tài xế dạy cho anh. “Đó là vùng khắc nghiệt nhất mà bạn có thể tưởng tượng ra, nhưng cũng đẹp một cách tĩnh lặng.” Mortenson nói. “Chúng tôi thực sự đến khu trung tâm của những khu vực bộ tộc và tôi thấy phấn khởi vì đã đi được khá xa.” Ngay ở phía nam Ladha, khi mặt trời lặn xuống Afghanistan, họ đến Kot Langarkhel, quê tổ của Khan. Ngôi làng chỉ là hai cửa hiệu tạp hóa kề một nhà thờ Hồi giáo bằng sa thạch và có cảm giác xấu về việc xem đây như là nơi cuối cùng của cả thế giới. Một con dê đốm bụi bặm đi thong thả giữa đường, bốn chân nó xiên xẹo bẹt ra như bị xe cán. Khan lớn tiếng chào những người đàn ông ở trong nhà kho sau hai cửa hàng lớn hơn trong hai cửa hàng, và họ nói chuyện với nhau. Người tài xế cho xe vào trong nhà, nơi nó được an toàn qua đêm.

Cảnh bên trong nhà kho làm Mortenson ngay lập tức thấy ghê người. Sáu người đàn ông Wazir với những dây đạn quấn quanh ngực ngồi xổm trên những thùng hàng hút thuốc hasit từ một tẩu thuốc nhiều vòi. Xếp chồng dựa tường, Mortenson thấy súng bazooka, súng phóng lựu và những thùng AK-47 mới còn nguyên dầu mỡ. Anh trông thấy mấy chiếc ăngten roi của những máy vô tuyến quân sự dã chiến nhô lên sau những hộp phấn có mùi trái cây của Gatorade và Oil of Olay, và nhận ra rằng mình đã lọt vào trong pháo đài của một nhóm buôn lậu lớn, có tổ chức.

Người Wazir, cũng như Pashtun, sống theo luật Pashtunwali. Badal, báo thù những mối thù đẫm máu và bảo vệ zan, zar vàZameen, có nghĩa là gia đình, kho báu và đất đai, là những trụ cột của Pashtunwali.

Cũng như nenawatay, lòng hiếu khách và nơi trú ẩn an toàn cho những vị khách đến tìm sự giúp đỡ. Vấn đề là đến như một người khách chứ không phải như một kẻ xâm lược. Mortenson leo ra khỏi xe trong bộ trang phục quái đản của mình và bắt đầu cố gắng để trở thành một vị khách, vì sẽ quá nguy hiểm để tìm kiếm một chỗ khác để ở lại sau khi trời tối.

“Tôi đã sử dụng mọi điều học được ở Baltistan và chào từng người một cách kính trọng nhất mà tôi được biết.” Mortenson nói. “Với một ít tiếng Pashto mà Khan dạy cho tôi trong chuyến đi, tôi hỏi thăm gia đình và sức khỏe của họ.” Nhiều đàn ông Wazir đã chiến đấu cùng với các lực lượng đặc nhiệm Mỹ trong cuộc thập tự chinh để đánh đuổi người Xô Viết ra khỏi đất Pashtun ở Afghanistan. Năm năm trước khi những chiếc B52 bắt đầu ném bom rải thảm những ngọn đồi này, họ vẫn chào đón nồng nhiệt một số người Mỹ.

Người có vẻ bẩn thỉu nhất trong đám buôn lậu, bốc mùi cứ như là dầu hasit túa ra từ các lỗ chân lông, mời Mortenson thử hookah, anh từ chối một cách lịch sự nhất. “Lẽ ra tôi phải hút để kết bạn, nhưng tôi không muốn bị hoang tưởng thêm chút nào nữa.” Mortenson nói.

Khan và người lớn tuổi nhất trong nhóm, một người đàn ông cao đeo kính phi công màu hồng và có bộ ria đen dày nằm cao như một con dơi đậu ở môi trên, nóng nảy nói bằng tiếng Pashto về điều cần làm với người ngoài trong đêm nay. Sau khi họ nói xong, người tài xế hút một hơi dài từ cái tẩu và quay sang Mortenson. “Haji Mirza hân hạnh mời ông đến nhà ông ta.” anh ta nói, khói thuốc tỏa ra qua răng. Sự căng thẳng bó chặt đôi vai Mortenson trong chiếc áo shalwar chật tan biến đi. Lúc này anh đã ổn. Anh là một vị khách.

Họ leo lên đồi nửa giờ trong bóng tối, qua những cây sung quả chín tỏa mùi dịu ngọt như khói hasit bốc ra từ áo quần của người Wazir. Nhóm người đi trong im lặng, trừ tiếng lách cách nhịp nhàng của những khẩu súng chạm vào dây đạn. Một vệt đỏ như máu dọc theo chân trời là ánh sáng cuối cùng đang mờ đi ở phíaAfghanistan. Tại khu nhà trên đỉnh đồi, Haji Mirza gọi lớn và những cánh cửa gỗ đồ sộ đặt trong bức tường đất sáu mét được mở chết bên trong từ từ mở ra. Một tay lính canh mắt to xem xét kĩ Mortenson trong ánh sáng của cây đèn dầu và có vẻ như hắn thích xả hết đạn trong khẩu AK-47 của mình vào người khách nước ngoài, chỉ để cho an toàn. Sau một tiếng làu bàu khó nghe từ Haji Mirza, hắn bước sang một bên và để cho cả đoàn người đi qua.

“Chỉ một ngày đi xe từ thế giới hiện đại, tôi thật sự cảm thấy như mình đã đến thời Trung cổ.” Mortenson nói. “Không vượt qua hào, nhưng tôi có cảm giác giống như vậy khi bước vào bên trong.” Những bức tường đồ sộ và những gian phòng như trong hang động được chiếu sáng lờ mờ bởi những ngọn đèn lung linh. Một tháp súng nhô cao mười lăm mét trong sân để cho những tay bắn tỉa có thể bắn hạ bất cứ ai đến gần mà không được mời.

Mortenson và người tài xế được dẫn vào một phòng chất đầy thảm ở giữa khu nhà. Vào giờ shin chai truyền thống, trà xanh ướp hương bạch đậu khấu được đưa tới, người tài xế đã sụp xuống tấm đệm, quăng chiếc áo khoác lên đầu và khiến cho mọi sợi dây thần kinh của Mortenson sôi sục bằng cách bắt đầu một giọng gáy đầy đờm dãi. Haji Mirza rời phòng kiểm tra việc chuẩn bị bữa ăn, và Mortenson nhấp trà của mình trong sự yên lặng khó chịu suốt hai giờ, cùng bốn người hầu cận của Mirza cho đến khi bữa ăn được dọn ra.

Mahnam do die, Mirza thông báo bắt đầu “ăn tối”. Mùi thơm ngon của thịt cừu kéo Khan ra khỏi chiếc áo khoác. Dù bề ngoài đã tỏ ra là người thành thị nhưng khi nhìn thấy món thịt cừu nướng, Khan vẫn rút con dao găm, cùng với hàng chục người Wazir khác nhập tiệc. Người hầu của Haji Mirza đặt một Kabuli pilau bốc khói, gạo nấu với cà rốt, đinh hương và nho khô, trên sàn kế bên thịt cừu, nhưng những người đàn ông chỉ nhìn vào con vật. Họ tấn công nó bằng những con dao găm dài, lóc từng miếng thịt mềm ra khỏi xương và tọng vào miệng bằng lưỡi dao của họ. “Tôi đã nghĩ người Balti ăn thịt với sự khoái trá.” Mortenson nói. “Nhưng đây là bữa ăn nguyên sơ, man rợ nhất mà tôi từng tham dự. Sau mười phút cắn xé và càu nhàu, con cừu chỉ còn trơ những khúc xương, còn đám đàn ông thì ợ lên và chùi mỡ khỏi bộ râu của họ.”

Những người Wazir tựa người vào gối nằm rên rỉ và đốt những tẩu thuốc hash, thuốc lá. Mortenson nhận điếu thuốc thơm mùi thịt cừu từ tay của một trong những người Wazir và hút cho đến hết, như cách một vị khách danh dự cần làm. Đến nửa đêm, mí mắt của Mortenson nặng như chì, và một trong những người đàn ông đã trải một tấm thảm cho anh ngủ. Anh nghĩ mình không ngủ quá say, vì hoạt cảnh những người đàn ông đội khăn xếp đi vào và đi ra lờ mờ. Anh đã tiếp xúc với ít nhất là một bô lão trong bộ tộc, dù đã bị đờ đẫn vì thuốc hash, và ngày mai anh sẽ thúc giục ông ta giới thiệu thêm với nhiều người khác nữa và bắt đầu khám phá xem làng này nghĩ như thế nào về một ngôi trường.

Tiếng la hét đi vào giấc mơ của Mortenson. Ngay trước khi chìm vào giấc ngủ, anh quay trở lại Khane, lắng nghe Janjungpa quát Akhmalu về việc vì sao làng của họ cần một trường leo núi thay vì một ngôi trường cho trẻ em. Sau đó anh ngồi dậy và không hiểu mình nhìn thấy gì. Một ngọn đèn áp suất đong đưa trước mặt anh tạo ra những cái bóng lắc lư kệch cỡm trên tường. Phía sau ngọn đèn, Mortenson thấy một nòng súng AK-47 chĩa vào ngực mình, anh thấy mình tỉnh táo hơn một chút với thông tin này.

Phía sau khẩu súng, một người đàn ông hung hãn quấn khăn xếp màu xám có bộ râu rối la hét bằng thứ ngôn ngữ mà anh không hiểu. Lúc đó là 2 giờ sáng, Mortenson chỉ mới ngủ được hai giờ, và trong khi anh cố gắng để hiểu điều gì đang xảy ra với mình, thì việc bị thiếu ngủ đang rất cần được bù đắp làm phiền anh nhiều hơn là tám người đàn ông đang chĩa vũ khí vào anh và kéo anh dậy.

Họ xốc mạnh anh đứng dậy và lôi anh về phía cửa. Mortenson cố tìm Khan hoặc những người của Haji Mirza trong căn phòng tối mờ, nhưng anh chỉ có một mình cùng với những người lạ mặt có vũ trang. Những bàn tay chai sạn nắm lấy hai bên bắp tay anh và dẫn anh ra khỏi cánh cửa đã mở then của khu nhà.

Có ai đó cởi chiếc khăn xếp trên đầu Mortenson từ phía sau và buộc chặt lại. “Tôi nhớ mình nghĩ rằng Bên ngoài tối đến vậy thì tôi có thể nhìn thấy gì?” Mortenson nói. Họ dẫn anh đi xuống đường mòn trong cảnh tối tăm gấp hai lần, thúc anh đi nhanh và đỡ anh lên khi đôi giày sandal không gót của anh vấp phải những hòn đá. Ở đầu lối mòn, một đội hình những cánh tay hướng dẫn anh vào thùng xe của một chiếc xe tải không mui và dồn đống lên sau anh.

“Chúng tôi đi khoảng bốn mươi lăm phút.” Mortenson nói. “Sau cùng tôi hoàn toàn tỉnh ngủ và run lẩy bẩy, phần vì cái lạnh trong chiếc xe không mui nơi hoang mạc, phần vì giờ đây tôi thực sự thấy sợ.” Những người đàn ông ép sát anh tranh cãi dữ dội bằng tiếng Pashto, và anh nhanh chóng đoán được rằng họ cãi nhau về việc cần phải làm gì với anh. Nhưng vì sao họ không bắt anh ngay từ đầu? Và những người lính canh có vũ trang của Haji Mirza ở đâu khi lashkar này, tức toán vũ trang, đột nhập vào không một tiếng súng? Ý nghĩ cho rằng những người đàn ông này là đồng bọn của Mirza giống như một cái tát vào mặt Mortenson. Ép sát người anh, những kẻ bắt cóc bốc mùi khói và mùi không tắm rửa, và đối với anh, cứ mỗi phút chiếc xe đi sâu hơn vào bóng đêm cũng giống như một dặm đường cách xa hơn việc nhìn thấy vợ mình một lần nữa.

Chiếc xe tải lao trên xa lộ, rồi xóc nảy leo dốc trên con đường mòn nhiều vết lún. Mortenson cảm thấy người lái xe đạp thắng và chiếc xe tải đột ngột xoay vòng trước khi dừng lại. Những bàn tay thô bạo kéo anh xuống đất. Anh nghe có người nào đó dò dẫm ổ khóa, rồi một cánh cửa kim loại bật mở ra. Mortenson vấp chân vào khung cửa, những bàn tay bóp bầm tím bắp tay anh, kéo anh xuống một hành lang vang vọng tiếng bước chân của họ, và vào một căn phòng tối. Anh nghe cánh cửa bên ngoài nặng nề đóng sầm lại. Rồi tấm bịt mặt của anh được lấy đi.

Anh ở trong căn phòng dành cho khách có trần cao, rộng ba mét và dài sáu mét. Một ngọn đèn dầu cháy sáng trên ngạch cửa của cái cửa sổ nhỏ duy nhất, đóng lá chớp phía bên ngoài. Anh quay về phía những người đàn ông đã đưa mình đến, tự nhủ không được hoảng loạn, cố vận dụng đầu óc để đưa ra vài lời nhận xét hài hước, bất kì điều gì để chiếm được sự đồng cảm của họ, và quan sát cánh cửa nặng nề kêu lách cách đóng lại phía sau họ. Qua lớp gỗ dày, anh có thể nghe được tiếng động gây nản lòng của cái móc khóa bập khóa lại.

Trong vùng tối ở cuối phòng, Mortenson thấy một cái chăn và một tấm đệm trên sàn nhà bụi bẩn. Có điều gì thuộc về bản năng báo cho anh rằng ngủ là chọn lựa tốt hơn việc bước đi bước lại trong phòng, lo lắng về điều gì đó sắp xảy đến. Vì vậy anh nằm xuống tấm đệm mỏng, hai chân thòi ra khỏi mép nệm cả hai ba tấc, kéo tấm chăn len có mùi mốc lên ngực và chìm vào giấc ngủ sâu, không mộng mị.

Khi mở mắt ra, anh thấy hai trong số những tên bắt cóc đang ngồi xổm bên cạnh mình và ánh nắng lọt vào qua cửa sổ lá chớp gỗ. “Chai,” người ngồi gần anh nhất nói, rót cho anh tách trà xanh nhạt nhẽo. Anh nhấp trà trong cái ca nhựa, tỏ ra nhiệt tình, cười với những người đàn ông trong khi quan sát họ. Họ có cái vẻ nghiêm khắc, nhọc nhằn của những người đàn ông đã trải qua phần lớn cuộc đời ở bên ngoài, chịu thiếu thốn khổ đau. Cả hai đều đã ngoài ngũ tuần, anh đoán, với những bộ râu mờ xỉn và rậm rạp như bộ lông chó sói mùa đông. Một lằn sâu màu đỏ chạy ngang trán của một trong hai người đưa trà cho anh. Và Mortenson cho rằng đó là vết thương do đạn pháo, hoặc nếp nhăn là dấu vết của một viên đạn suýt gây chết người. Họ là những mujahadeen, anh đoán chắc, cựu chiến binh của du kích Afghan chống người Xô Viết. Nhưng giờ đây họ đang làm gì? Họ có dự định gì với anh?

Mortenson uống cạn ca trà và diễn đạt bằng điệu bộ là mình muốn đi vệ sinh. Những người lính canh quàng khẩu Kalashnikov lên vai và dẫn anh ra ngoài, đi vào một khoảng sân. Những bức tường sáu mét quá cao để Mortenson có thể thấy được bất cứ thứ gì của miền quê, và anh chú ý đến người lính canh pháo đài trên cao ở góc xa của khu nhà. Người đàn ông có sẹo thúc Mortenson về phía cửa bằng nòng súng khẩu Kalashnikov, và Mortenson đi vào một ô nhỏ có bàn cầu xổm. Anh đặt tay lên cửa để đóng lại nhưng người không có sẹo giữ cho cửa mở bằng bàn chân của mình và bước vào trong với anh trong khi người kia nhìn chằm chằm từ bên ngoài. “Tôi đã sử dụng bàn cầu xổm dội nước bằng xô nhiều lần.” Mortenson nói. “Nhưng bị hai người đàn ông quan sát, anh biết đấy, rửa sạch cơ thể sau đó trong khi họ nhìn chằm chằm vào mình thì thật căng thẳng thần kinh.”

Sau khi anh xong việc, những người lính canh xốc anh bằng nòng súng đi trở lại con đường mà họ đã đi qua và thúc anh về phía phòng. Anh ngồi chéo chân trên tấm đệm ngủ và thử bắt chuyện. Nhưng đám lính canh không quan tâm đến việc giải mã những điệu bộ và cử chỉ bằng tay của anh. Họ đứng bên cửa, hút hasit từ tẩu này sang tẩu khác, và không để ý đến anh.

“Tôi bắt đầu thấy thật sự chản nản.” Mortenson nói. “Tôi nghĩ, ‘Điều này có thể tiếp diễn rất lâu’. Và bạn biết đấy, như vậy dường như còn tồi tệ hơn là giải quyết một lần cho xong.” Với cái cửa sổ nhỏ duy nhất đóng lá chớp, và ngọn đèn treo thấp, căn phòng mờ mờ như ban đêm. Sự trầm uất của Mortenson nặng nề hơn nỗi sợ và anh thiếp đi, nửa thức nửa tỉnh khi thời gian trôi qua.

Lơ mơ trong ý thức, anh nhận ra một thứ gì đó trên sàn ở cuối tấm đệm. Anh nhặt lên. Đó là tờ tạp chí Time cũ rách số tháng 11 năm 1979, cũ đã mười bảy năm. Dưới dòng tít “Một Sự Thử Thách Ý Chí” là hình vẽ lòe loẹt Ayatollah Khomeini quắc mắt hiện ra lờ mờ như thần chết trên tấm ảnh được ghép vào của Jimmy Carter trông như người bại trận.

Mortenson lướt qua các trang báo mềm rũ vì cũ, mô tả chi tiết những ngày đầu của vụ khủng hoảng con tin Iran. Với cái giật thót rung chuyển dạ dày, anh đối diện với những tấm ảnh chụp người Mỹ tay không bị bịt mắt, bị phó mặc cho đám đông cuồng tín, cay độc. Tờ tạp chí Time đặc biệt này có được để đây như một hình thức thông điệp nào đó chăng? Hay chỉ là một cử chỉ hiếu khách, tài liệu đọc bằng tiếng Anh duy nhất mà những vị chủ nhân có trong tay? Anh liếc nhìn đám lính canh để xem nét mặt của họ có chứa đựng một ý nghĩa mới nào không, nhưng họ vẫn lặng lẽ nói chuyện với nhau qua thứ thuốc hasit, vẫn có vẻ như không quan tâm đến anh.

Không có việc gì khác để làm, ngoại trừ đọc. Đặt nghiêng các trang báo hướng về ngọn đèn dầu, anh đọc một bài tường thuật đặc biệt, theo phong cách sang sảng của Time, về sự thử thách của những con tin Mỹ ở Teheran. Các chi tiết được năm nữ thư kí tòa đại sứ và bảy lính hải quân người da đen cung cấp - những người sớm được thả sau khi tòa đại sứ bị chiếm. Mortenson biết được rằng những con tin người da đen đã được thả ra tại một buổi họp báo bên dưới tấm biểu ngữ “Hỡi những người da đen bị áp bức, chính quyền Mỹ là kẻ thù chung của chúng ta.”

Trung sĩ hải quân Ladell Maples thuật lại rằng anh bị ép phải ghi âm những phát biểu ca ngợi cuộc cách mạng Iran và được báo rằng sẽ bị bắn nếu anh nói sai.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx