sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Ba tách trà - Chương 13 phần 1

CHƯƠNG 13

“Một nụ cười phải hơn một kí ức”

Người Waziri là bộ tộc lớn nhất ở vùng biên giới, nhưng còn rất kém văn minh. Họ là một chủng tộc của những kẻ trộm cắp và giết người, và cái tên Waziri bị nguyền rủa ngay cả bởi những bộ tộc Mahommedan láng giềng. Họ đã được mô tả như là những người tự do và tàn bạo, nóng nảy và nhẹ dạ, tự trọng nhưng kiêu ngạo. Người Mohammedan ở khu vực có cuộc sống ổn định xem họ như những người man rợ.

- Trích từ cuốn Bách khoa Toàn thư Anh, ấn bản năm 1911

Từ căn phòng trong khách sạn hai tầng ở haveli(16) đổ nát, Mortenson nhìn theo bước đi của một cậu bé cụt chân, tự kéo lê mình qua khu chợ Khyber hỗn loạn trên miếng gỗ trượt. Trông nó không quá mười tuổi, và mô sẹo trên cẳng chân còn lại khiến Mortenson tin rằng nó là nạn nhân của mìn. Cậu bé thực hiện hành trình khó nhọc của mình vượt qua những khách hàng ở một chiếc xe kéo, nơi một người đàn ông lớn tuổi đội khăn xếp đang khuấy chảo trà bạch đậu khấu, đầu ông ta ngang tầm với ống xả khói của những chiếc taxi đi qua. Ở tầm nhìn bên trên cậu bé, Mortenson thấy một người tài xế leo vào chiếc Datsun thùng hở chất đầy tay chân giả và khởi động động cơ.

16. Khu nhà khép kín ở Ấn Độ và Pakistan

Mortenson đang suy nghĩ việc cậu bé cần một trong những đôi chân giả đang chất đống như củi trên chiếc xe thùng kia như thế nào, và khả năng mà nó nhận được ít ra sao, vì dường như chúng đã được tuồn ra từ một cơ sở từ thiện bởi một Changazi địa phương nào đó, thì anh nhận thấy chiếc xe lùi lại về phía thằng bé. Mortenson không biết nói tiếng Pashto, thứ ngôn ngữ địa phương phổ biến nhất. “Cẩn thận!” anh la lên bằng tiếng Urdu, hi vọng cậu bé sẽ hiểu. Nhưng anh không cần lo lắng. Với ý thức tự sinh tồn phát triển cao để sống còn trên những đường phố Peshawar, cậu bé cảm nhận được nguy hiểm và lủi nhanh như cua lên lề đường.

Peshawar là thủ phủ của miền tây hoang dã Pakistan. Và với ngôi trường Korphe đã hoàn tất, Mortenson đã đến thị trấn biên giới này, rong ruổi trên con đường Grand Trunk cổ xưa trong vai trò mới của mình - Giám đốc Viện Trung Á. Ít nhất đó cũng là điều anh tự nói với mình.

Peshawar là cửa ngõ đi vào đèo Khyber. Qua tuyến đường vận chuyển này giữa Pakistan và Afghanistan, nhiều đạo quân trong lịch sử đã đi qua. Những học viên của các madrassas, hoặc trường thần học Hồi giáo ở Peshawar, đã đổi sách của họ lấy những khẩu tiểu liên Kalashnikov cùng những dây đạn và hành quân về phía đèo để gia nhập vào một phong trào đang đe dọa quét các nhà cai trị bị xem thường của Afghanistan ra khỏi quyền lực.

Tháng 8 năm 1996, đạo quân chủ yếu là thanh niên này, tự gọi mình là Taliban, hay “sinh viên Hồi giáo”, đã phát động cuộc tấn công bất ngờ và tràn qua Jalalabad, thành phố lớn của Afghanistan bên đèo Khyber. Những đạo quân phòng vệ biên giới đã đứng sang một bên trong khi hàng nghìn chàng trai râu ria, đầu đội khăn xếp và viền mắt bằng surma sẫm màu đổ tràn ra đèo trên hàng trăm chiếc xe mui trần thùng đôi, mang theo súng Kalashnikov và kinh Koran.

Những người tị nạn kiệt sức, chạy trốn trận chiến, tràn sang phía đông với số lượng tương đương, và gây căng thẳng cho sức chứa của các trại tị nạn bùn lầy ở biên giới Peshawar. Mortenson đã dự định rời khỏi đây từ hai ngày trước, trong một chuyến đi khảo sát các địa điểm khả dĩ cho những ngôi trường mới, nhưng không khí căng thẳng đã giữ anh ở lại Peshawar. Các quán trà rì rầm chuyện kể về những chiến thắng như sấm sét của Taliban. Và tin đồn lan đi nhanh hơn những viên đạn từ những người đàn ông mang vũ khí tự động ngẫu hứng bắn lên trời bất cứ lúc nào để ăn mừng: Những tiểu đoàn Taliban đang tập trung ở ngoại ô thủ đô Kabul, hay đã tràn vào. Tổng thống Najibullah, lãnh đạo chế độ tham nhũng hậu Xô Viết của Afghanistan, đã chạy sang Pháp hay đã bị hành hình ở một sân bóng đá.

Trong trận bão, đứa con trai thứ mười bảy của một gia đình Ả Rập Saudi giàu có đã bay trên chiếc máy bay phản lực riêng, thuê của hãng hàng không Arinana. Khi hắn hạ cánh ở một sân bay bỏ hoang ở ngoại ô Jalalabad, với những chiếc hòm nhét đầy tiền giấy một trăm đôla không bị đánh dấu và một đoàn tùy tùng những chiến binh, cũng như hắn, đã dày dạn kinh nghiệm từ những chiến dịch ở Afghanistan chiến đấu chống lại người Xô Viết, Osama Bin Laden được đưa tin là một người thô lỗ. Sức ép từ Mỹ và Ai Cập đã dẫn đến việc trục xuất hắn khỏi một khu nhà liên hợp tiện nghi ở Sudan. Tiếp theo là việc tước quốc tịch Ả Rập Saudi của hắn, hắn đã chọn Afghanistan: Sự hỗn loạn ở đây hoàn toàn phù hợp với hắn. Nhưng việc thiếu những tiện nghi sinh hoạt thì không. Sau khi than phiền với những chủ nhân Taliban về tiêu chuẩn của những nơi trú đóng mà họ đã tìm cho hắn, hắn nhắm đến việc tập trung sự giận dữ vào những người mà hắn cho là chịu trách nhiệm cho sự lưu vong của mình - người Mỹ.

Trong tuần lễ mà Mortenson lưu lại gần Peshawar, Bin Laden công bố lời kêu gọi đầu tiên về đấu tranh vũ trang chống lại người Mỹ. Trong “Tuyên bố thánh chiến chống lại sự chiếm đóng của người Mỹ trên lãnh thổ của hai Thánh địa” tức Ả Rập Saudi, nơi năm nghìn quân Mỹ đóng căn cứ, hắn hô hào những môn đồ của mình tấn công người Mỹ ở bất cứ nơi đâu tìm thấy họ, “và gây ra cho chúng thiệt hại nhiều nhất có thể được.”

Như hầu hết người Mỹ, Mortenson chưa hề nghe nói tới Bin Laden. Anh cảm thấy mình có một chỗ ngồi trong đấu trường của lịch sử và miễn cưỡng để rời khỏi thị trấn. Cũng có vấn đề về việc tìm một người hộ vệ thích hợp. Trước khi rời khỏi Korphe, Mortenson đã thảo luận các kế hoạch của mình với Haji Ali. “Hãy hứa với tôi một chuyện,” vị nurmadhar già nói. “Đừng đi đến bất cứ nơi nào một mình, hãy tìm một vị chủ nhà mà anh tin cậy, tốt nhất là một ông trưởng làng, và chờ cho đến khi ông ta mời anh đến nhà để uống trà. Chỉ có theo cách đó, anh mới được an toàn.”

Việc tìm ra một ai đó đáng tin cậy ở Peshawar tỏ ra khó khăn hơn Mortenson nghĩ. Là một trục của nền kinh tế chợ đen Pakistan, thành phố này đầy những nhân vật ghê gớm. Thuốc phiện, vũ khí và những tấm thảm là huyết mạch của thành phố, và những người đàn ông mà anh gặp kể từ khi đến đây dường như cũng đê tiện và tai tiếng như cái khách sạn rẻ tiền anh đang ở. Haveli đổ nát nơi anh đã ngủ trong năm đêm vừa qua là nhà của một thương gia giàu có trước đây. Phòng của Mortenson đã được sử dụng như một trạm quan sát cho phụ nữ trong gia đình. Vì phòng này mở ra đường phố qua một lưới mắt cáo bằng sa thạch chạm trổ nên phụ nữ có thể thấy hoạt động của khu phố bên dưới mà không cần xuất hiện trước công chúng và vi phạm purdah(17).

17. Việc tách biệt phụ nữ khỏi ánh mắt của đàn ông hoặc người lạ, được áp dụng ở các nước Hồi giáo và các nước theo đạo Hindu

Mortenson đánh giá cao lợi thế của mình sau bức bình phong. Sáng hôm đó, người bảo vệ khách sạn đã cảnh báo với anh rằng tốt nhất người nước ngoài không nên để cho người ta thấy. Hôm nay là ngày Juma, hay thứ sáu, ngày mà các giáo sĩ thốt ra những lời thề nảy lửa nhất tại các giáo đường chật cứng những thanh niên khích động. Sự hăng say của ngày Juma kết hợp với những tin tức như các vụ nổ từ Afghanistan có thể là một hỗn hợp làm bốc hơi bất cứ người nước ngoài nào kẹt trong làn đạn.

Từ trong phòng mình, Mortenson nghe một tiếng gõ cửa và anh ra mở cửa. Badam Gul lướt qua mặt anh với điếu thuốc lá đong đưa trên môi, một cái gói kẹp dưới cánh tay, và một ấm trà trên cái khay. Mortenson đã gặp người đàn ông này, một người bạn của ông chủ khách sạn, vào đêm hôm trước, khi nghe radio trong tiền sảnh; cả hai cùng nghe một bản tin của BBC về những cuộc nổi dậy của Taliban đang làm rung chuyển Kabul.

Gul nói anh ta là một người Waziristan và có một nghề sinh lợi khác là thu thập những con bướm hiếm khắp Trung Á và cung cấp cho các bảo tàng châu Âu. Mortenson đoán rằng những con bướm không phải là tất cả những gì mà anh ta vận chuyển qua lại những tuyến đường biên giới khu vực, nhưng anh không cố hỏi chi tiết. Khi biết Mortenson muốn viếng thăm khu vực bộ lạc của mình ở phía nam Peshawar, Gul tình nguyện hướng dẫn anh đến Ladha, làng quê của mình. Haji Ali sẽ không ưng thuận nhưng Tara sắp đến ngày sinh trong vòng một tháng nữa, anh chàng Gul mày râu nhẵn nhụi có vẻ bề ngoài đáng kính, và Mortenson không có thời gian để kén chọn.

Gul rót trà trước khi mở cái gói mà anh ta quấn trong mấy tờ báo đầy hình ảnh những chàng trai râu ria trong tư thế trên đường ra trận. Mortenson lấy ra một bộ shalwar kamiz rộng, màu trắng, không có cổ và được trang trí bằng những hình thêu óng ánh đẹp mắt nơi ngực, cùng một chiếc áo khoác xám xịt.

“Giống như y phục của một người đàn ông Wazir.” Gul nói, đốt điếu thuốc thứ hai bằng mẩu thuốc của điếu thứ nhất. “Tôi chọn bộ lớn nhất trong cả khu chợ, ông có thể trả tiền cho tôi ngay bây giờ chứ?”

Gul đếm những đồng rupi một cách cẩn thận trước khi nhét vào túi. Họ nhất trí rời thành phố lúc mờ sáng. Mortenson đã đăng kí một cuộc điện thoại ba phút với người trực tổng đài khách sạn và báo với Tara rằng anh sắp đi đến một nơi không có điện thoại trong vài ngày. Anh hứa sẽ trở về đúng thời điểm đón mừng đứa con của họ chào đời.

Chiếc Toyota mui kín màu xám đang đợi khi Mortenson thận trọng bước xuống cầu thang để ra xe lúc rạng sáng, lo sợ làm tét các đường khâu trên bộ áo của mình. Phần trên của chiếc áoshalwar căng chật trên đôi vai anh, và chiếc quần chỉ dài đến giữa bắp chân. Gul cười trấn an, nói rằng anh ta đột xuất bị gọi về Afghanistan vì công việc kinh doanh. Tuy nhiên tin tốt lành là người tài xế, ông Khan, quê ở một làng nhỏ gần Ladha đã đồng ý đưa anh đến đó. Mortenson thoáng nghĩ đến việc thoái lui, nhưng rồi lại rón rén lên xe.

Lăn bánh về phía nam lúc mặt trời mọc, Mortenson kéo tấm rèm ren trắng che kín phía sau tránh những đôi mắt tọc mạch. Những thành lũy vòng cung của pháo đài Bala Hisar, hiện ra mờ mờ trên thành phố đang lùi xa dần, rực rỡ trong ánh sáng đang cháy lên như ngọn núi lửa ngủ yên lâu ngày đang thức giấc.

Cách thành phố một trăm kilômét về phía nam, họ đi vào Waziristan, tỉnh biên giới phía bắc Pakistan, một nơi bất trị, nơi mà lãnh thổ của các bộ tộc hung dữ đã hình thành một vùng đệm giữa Pakistan và Afghanistan. Wazir là một dân tộc riêng, và vì vậy, họ thu hút sự chú ý của Mortenson. “Tôi cho rằng, một phần trong sự thu hút tôi đến với Balti, rõ ràng vì họ là những người bị thua thiệt.” Mortenson nói. “Những nguồn tài nguyên và những tài năng của họ bị chính quyền Pakistan cướp bóc, chỉ đáp trả lại cho họ rất ít và thậm chí còn không cho họ quyền được bầu cử.”

Wazir cũng là những người chịu thua thiệt, Mortenson nghĩ. Kể từ khi được Jean Hoerni chỉ định làm giám đốc của tổ chức mới, Mortenson đã nguyện trở thành một chuyên gia giống như cái danh hiệu xa lạ đối với anh - giám đốc Viện Trung Á. Qua mùa đông, giữa những chuyến đi đến miền trung hoang dã cùng Tara, và những ngày dán giấy tường, sửa sang phòng ngủ trên gác là nơi đứa con của họ sẽ chào đời, anh đã đọc mọi quyển sách mà mình có thể tìm được về Trung Á. Anh sắp tận mắt nhìn thấy vùng đất này - những nhóm bộ tộc nắm quyền lực, được phân chia thành những nhà nước do người châu Âu tùy tiện đặt ra, nhưng nhà nước không quan tâm gì nhiều đến sự liên minh giữa bộ tộc nguyên thủy với quyền lợi của nhân dân họ.

Không có bộ lạc nào thu hút sự tưởng tượng của anh như Wazir. Không trung thành với Pakistan lẫn Afghanistan, họ là người Pashtun, và liên minh với bộ lạc lớn hơn bất cứ bộ tộc nào khác. Từ thời Alexander, người nước ngoài đã gặp sự kháng cự kiên cường mỗi khi phái quân đội vào vùng này. Với mỗi thất bại của một lực lượng lớn hơn, được trang bị tốt hơn đã đến Waziristan, sự mất quyền công dân của họ dần tăng. Sau khi mất hàng trăm người vì một lực lượng du kích nhỏ, Alexander đã hạ lệnh cho quân lính từ nay về sau đi men theo những vùng đất “quỷ dữ của sa mạc” này. Người Anh cũng không thu được kết quả tốt hơn, đã thua trong hai cuộc chiến với Wazir và bộ tộc Pashtun lớn hơn.

Năm 1893, những lực lượng Anh vấy máu rút khỏi Waziristan đến giới tuyến Durand, đường biên giới mà họ tạo ra giữa Ấn-Anh và Afghanistan. Giới tuyến Durand được vẽ ra qua trung tâm của bộ lạc Pashtun, một nỗ lực để chia nhỏ và chinh phục của người Anh. Nhưng không một ai chinh phục được Wazir. Mặc dù trên danh nghĩa, Waziristan là một phần của Pakistan kể từ năm 1947, nhưng ảnh hưởng nhỏ bé mà Islamabad từng có ở Wazir là vật phẩm phân bổ cho các lãnh tụ bộ tộc và các đơn vị đóng quân ít nắm quyền kiểm soát bất cứ thứ gì nằm ngoài tầm bắn từ những lỗ châu mai của họ.

Mortenson ngưỡng mộ những người dân này, họ đã kháng cự kiên cường chống lại những cường quốc lớn của thế giới. Anh cũng đọc những bài viết tiêu cực nhiều như vậy về Balti trước khi leo núi K2 và tự hỏi liệu Wazir có bị hiểu lầm giống như vậy hay không.

Chiếc Toyota đi qua sáu trạm kiểm soát trước khi vào Waziristan. Mortenson thấy chắc chắn mình sẽ bị chặn và phải quay trở lại. Ở mỗi trạm, lính canh kéo rèm xe sang bên và quan sát kĩ người nước ngoài to con, nhễ nhại mồ hôi trong bộ cánh không vừa vặn một cách lố bịch. Và cứ mỗi lần như thế, Khan lại lục trong túi chiếc áo khoác da phi công đang mặc bất chấp cái nóng và đếm đủ số rupi để cho xe tiếp tục đi về phía nam.

Ấn tượng đầu tiên của Mortenson về Waziristan là sự ngưỡng mộ những người đã thu xếp để sống còn trong một môi trường như vậy. Họ lái xe vào con đường đá sỏi, qua một thung lũng bằng phẳng, không cây cỏ được trải bằng đá cuội đen. Những viên đá thu ánh nắng sa mạc và rung rinh cùng nắng, tạo cho phong cảnh cái cảm giác của một giấc mơ đầy xao xuyến.

Một nửa những ngọn núi màu nâu trông như không có sự sống, cách họ mười dặm về phía tây, trên giấy tờ thuộc về Pakistan, nửa còn lại là của Afghanistan. Người Anh hẳn có óc hài hước khi vẽ ra một đường biên giới đi qua vùng đất hoang vu không thể phòng thủ được, Mortenson nghĩ. Năm năm sau, các đội quân của Mỹ sẽ học được sự vô ích của việc săn đuổi quân du kích quen thuộc với những quả đồi này. Hang động nhiều không kém gì những ngọn núi, dân buôn lậu nối nhau trên những con đèo này. Mê cung Tora Bora, nằm ngay bên kia biên giới, sẽ cản trở sự tiến công của lực lượng đặc nhiệm Mỹ, dùng để ngăn chặn Osama Bin Laden và lực lượng Al Qaeda lẻn vào Waziristan.

Qua lớp vỏ bọc đá cuội đen, Mortenson cảm thấy mình đang đi vào một xã hội trung cổ của những nhà nước đô thị có chiến tranh với nhau. Những pháo đài Anh trước đây, nay do các binh sĩ Pakistan đồn trú, phục vụ nhiệm vụ gay go theo thời hạn luân phiên một năm, được đóng cửa cài then kín. Những khu nhà của bộ tộc Wazir dựng trên cao nguyên đá ở cả hai bên đường. Tất cả đều không thể nhìn thấy, được bao quanh bởi những bức tường thành bằng đất nện cao sáu mét, và bên trên là những pháo đài súng. Mortenson lầm tưởng những khuôn mặt đơn độc bên trên những pháo đài là người bù nhìn, cho đến khi họ đi qua đủ gần để thấy một người có súng dõi theo đường đi của họ dọc đáy thung lũng qua tầm ngắm của hắn.

Người Wazir áp dụng purdah, không chỉ đối với phụ nữ mà với cả người ngoài. Ít nhất là kể từ năm 600, Wazir đã chống lại ảnh hưởng của thế giới bên ngoài các tường thành của họ, thay vào đó họ ưa thích giữ cho toàn bộ Waziristan tinh khiết và được che mạng như những phụ nữ ở đó.

Họ đi qua những xưởng làm súng thấp lè tè, nơi các nghệ nhân Waziristan thực hiện những bản sao khéo léo nhiều loại vũ khí tự động của thế giới, và dừng lại ăn trưa ở Bannu, khu định cư lớn nhất Waziristan, ở đó họ phải luồn lách qua luồng giao thông dày đặc những chiếc xe lừa và xe mui trần thùng đôi. Ở một tiệm trà, Mortenson duỗi người hết cỡ trong bộ áo shalwar, và thử bắt chuyện với những người đàn ông, người lớn tuổi mà Haji Ali đã khuyên anh tìm, trong khi người tài xế đi tìm một cửa hàng có bán thứ thuốc lá của mình. Tiếng Urdu của Mortenson gây ra những ánh nhìn chăm chú không biểu lộ cảm xúc, và anh tự hứa khi trở về Bozeman sẽ dành một phần thời gian để nghiên cứu tiếng Pashto.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx