sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Ba tách trà - Chương 14

CHƯƠNG 14

Sự cân bằng

Sự đối nghịch bề ngoài giữa sự sống và cái chết lúc này bị cắt đứt. Không quẫy đạp, hay lồng lên, hay bỏ chạy. Không còn là một vật chứa hay bất cứ thứ gì bị chứa. Tất cả phân giải trong một thứ tự do chói lòa vô tận.

- Trích từ Warrior Song of King Gezar

Chiếc xe nhỏ lạ thường đậu ở lối vào nhà Mortenson ởMontana lộ ra bùn nhiều hơn là sơn. Biển đăng kí xe ghi “CÓ EM BÉ”.

Mortenson bước vào căn nhà xinh xắn của mình, ngạc nhiên, cũng như mỗi lần anh vào nhà, rằng căn nhà cũ xinh xinh này là của mình. Anh đặt mấy cái túi đầy những món mà Tara thèm - trái cây tươi và nửa chục lon Haagen-Dazs các loại - xuống bàn bếp và đi tìm vợ.

Anh thấy cô đang ở trong căn phòng ngủ nho nhỏ trên lầu, cùng với một phụ nữ to lớn. “Đây là Roberta, anh yêu.” Tara nói trong tư thế nằm sấp trên giường. Mortenson đã ở Pakistan ba tháng, chỉ mới về Bozeman một tuần và vẫn đang làm quen với hình ảnh người vợ nhỏ bé của mình trông như trái cây chín muồi. Mortenson gật đầu với người nữ hộ sinh đang ngồi ở cuối giường.

“Chào.”

“Xin chào.” Roberta nói bằng giọng mũi của người vùng Montana, rồi quay sang Tara. “Tôi sẽ cho anh biết ngay chuyện mà chúng tôi đang nói. Chúng tôi đang bàn xem nên sinh con ở đâu, và Tara nói rằng cô muốn sinh đứa con gái của anh ngay tại đây, trên chiếc giường này, và tôi đã đồng ý. Căn phòng này có một sức mạnh bình yên.”

“Tôi cũng thấy vậy là tốt.” Mortenson nói, nắm tay Tara. Và thật vậy. Như một cựu y tá, anh vui khi giữ được vợ mình không phải đến bệnh viện. Roberta cho họ số điện thoại và dặn họ gọi đến căn nhà gỗ nhỏ trên núi của bà ở ngoại vi Montana bất cứ lúc nào, ngày cũng như đêm, khi các cơn co thắt bắt đầu.

Những ngày còn lại trong tuần đó, Mortenson luôn quanh quẩn bảo vệ Tara đến mức cô cảm thấy ngợp bởi sự quan tâm đó và bảo anh hãy ra ngoài đi dạo để cô có thể ngủ. Sau Waziristan, mùa thu lá vàng tuyệt đẹp ở Bozeman dường như quá đẹp để có thể là thật. Những chuyến đi dạo dài qua những con đường trồng cây tuyệt đẹp, ngang qua những sinh viên bang Montana đang ném đĩa nhựa cho những chú chó của họ trong công viên được chăm sóc cẩn thận, là thứ thuốc giải độc mà anh cần cho tám ngày trong một căn phòng thiếu không khí.

Sau khi an toàn trở về khách sạn ở Peshawar, túi áo nhét đầy gần bốn trăm đôla những tờ một trăm rupi màu hồng mà người Wazir trao tặng, Mortenson đã đem theo tấm ảnh Tara chụp cùng mình đến buồng điện thoại công cộng và giữ tấm ảnh trước mặt mình khi gọi điện cho vợ vào nửa đêm ngày chủ nhật theo giờ Mỹ.

Tara vẫn thức.

“Chào em yêu, anh vẫn ổn.” anh nói qua đường truyền kêu lách tách.

“Anh đang ở đâu? Chuyện gì đã xảy ra?”

“Anh bị bắt giữ.”

“Bắt giữ là sao? Bởi chính quyền ư?” anh nghe giọng sợ hãi của Tara.

“Thật khó giải thích,” anh nói, cố không làm vợ hoảng sợ thêm nữa. “Nhưng anh đang trở về đây, anh sẽ gặp em sau vài ngày.”

Trên ba chuyến bay dài trở về nhà, nhiều lần anh lấy tấm ảnh Tara ra khỏi ví, dán mắt mình vào đó, như nhấp từng ngụm thuốc.

Ở Montana, Tara cũng đang bình tĩnh lại. “Những ngày đầu tiên không nghe Greg gọi, tôi nghĩ chỉ do anh quên mất thời gian. Nhưng sau một tuần thì thật tệ hại. Tôi dự định gọi cho Bộ Ngoại giao và báo cho mẹ tôi, nhưng tôi biết Greg ở trong một khu vực khép kín và chúng tôi có thể tạo ra một sự cố quốc tế. Tôi cảm thấy mình rất dễ bị tổn thương, một mình và đang mang thai, và với mọi thứ hoang mang mà bạn có thể nghĩ ra. Sau cùng khi anh ấy gọi về từ Peshawar, tôi đã bắt đầu buộc phải nghĩ đến thực tế là có thể anh sẽ chết.”

Lúc 7 giờ sáng ngày 13 tháng 9 năm 1996, đúng một năm kể từ cái đêm định mệnh ở Fairmont, Tara cảm nhận được cơn co thắt đầu tiên.

7 giờ 12 phút chiều hôm đó, Amira Eliana Mortenson chính thức xuất hiện trên hành tinh này, cùng với tiếng cầu kinh của những vị sư Tây Tạng mà cha em đã chọn. “Amira” vì nó có nghĩa là “nữ lãnh đạo” trong tiếng Ba Tư. “Eliana” có nghĩa là “quà tặng của Thượng đế” trong tiếng Chagga, một ngôn ngữ bộ tộc vùng Kalimanjaro, theo tên người em gái yêu thương đã mất của Mortenson, Christa Eliana Mortenson.

Sau khi người nữ hộ sinh về, Mortenson nằm trên giường, ôm lấy vợ và con gái. Anh đặt lá bùa tomar mà Haji Ali đã tặng mình quanh cổ con gái. Rồi chật vật với sợi dây mở nút chai champagne đầu tiên mà anh đã mua.

“Đưa cho em.” Tara cười nói, vừa đưa đứa bé cho Mortenson để nhận chai champagne. Khi vợ mở nút chai, Mortenson ôm cái đầu nhỏ mềm mại của con gái bằng bàn tay to lớn của mình. Anh cảm thấy một thứ hạnh phúc quá bao la khiến anh hoa mắt. Anh nghĩ, thật không thể tin được, tám ngày trong căn phòng hôi mùi dầu hỏa và giây phút này, trong phòng ngủ ấm cúng trên lầu một căn nhà trên con đường trồng cây hai bên, ấm áp trong vòng tay của gia đình, cũng là trong cùng một thế giới.

“Gì vậy anh?” Tara hỏi.

“Suỵt.” anh nói, vuốt nếp nhăn trên trán cô bằng bàn tay còn rảnh trước khi nhận một ly champagne, “Suỵt.”

Cuộc điện thoại gọi từ Seattle chứng tỏ hành tinh này đang chuyển động không ngừng nghỉ tiến đến một cân bằng. Jean Hoerni muốn biết chính xác khi nào ông có thể thấy ảnh chụp ngôi trường Korphe đã hoàn tất. Mortenson kể cho ông nghe về chuyện bị bắt cóc và kế hoạch của anh để quay lại Pakistan sau khi ở lại vài tuần để làm quen với con gái mình.

Hoerni quá hay hối thúc và nóng nảy về tiến trình của ngôi trường khiến cho Mortenson phải hỏi có điều gì làm ông phiền muộn. Hoerni gắt lên, trước khi thú nhận rằng ông đã được chẩn đoán xơ hóa tủy xương, một dạng bệnh bạch cầu gây chết người. Các bác sĩ nói rằng ông có thể chết trong vòng vài tháng. “Tôi phải thấy ngôi trường đó trước khi chết.” Hoerni nói. “Hãy hứa với tôi rằng anh sẽ mang hình ảnh ngôi trường về cho tôi càng sớm càng tốt.”

“Tôi hứa.” Mortenson nói, họng anh như nghẹn lại bởi sự tiếc thương dành cho ông già trái tính này, một người đầy mâu thuẫn mà vì một số lí do nào đó đã lựa chọn để buộc chặt những hi vọng của mình vào một người hùng ít khả năng nhất - là anh.

Mùa thu năm đó ở Korphe trời trong nhưng lạnh bất thường. Thời tiết đã sớm đuổi những gia đình trong làng khỏi mái nhà của họ để quây quần bên những bếp lửa khói mù. Mortenson đã rời gia đình mới của mình vài tuần để cố thực hiện lời hứa với Hoerni. Hằng ngày anh cùng những người đàn ông trong làng quấn chăn ngoài bộ áo shalwar và trèo lên nóc trường để đặt những thanh dầm mái cuối cùng vào vị trí. Mortenson luôn để mắt đến bầu trời, lo ngại tuyết có thể làm họ phải dừng công việc lại một lần nữa.

Twaha nhớ rằng mình đã ngạc nhiên khi thấy Mortenson dễ dàng thích nghi với khí hậu lạnh ở Korphe như thế nào. “Tất cả chúng tôi đều lo ngại khi thấy bác sĩ Mortenson ngủ giữa khói và gia súc, nhưng ông ấy dường như không chú ý đến những chuyện đó.” Twaha nói. “Chúng tôi thấy ông có những thói quen khác lạ, rất khác với những người châu Âu khác. Ông không đòi hỏi phải có thức ăn và chỗ ở tốt. Ông ăn bất cứ thứ gì mà mẹ tôi dọn cho và ngủ với chúng tôi trong khói như một người Balti. Do cách cư xử rất tốt và không bao giờ nói dối của bác sĩ Greg, cha mẹ tôi và tôi đã yêu thương ông rất nhiều.”

Một buổi tối, với vẻ thẹn thùng, Mortenson kể cho Haji Ali câu chuyện anh bị bắt cóc ngay sau khi ông trưởng làng nhai đầy một miệng naswar sau bữa tối. Ông trưởng làng phun nhúm thuốc đang nhai trong miệng vào bếp lửa để có thể nói cho rõ ràng hơn.

“Anh đi một mình!” Haji Ali lên án anh. “Anh không tìm kiếm lòng hiếu khách của một ông trưởng làng! Nếu anh chỉ nghe theo một trong những điều tôi dặn thì hãy nhớ bài học này: Không bao giờ đi đâu ở Pakistan này mà chỉ có một mình. Hãy hứa với tôi điều đó.”

“Tôi hứa.” Mortenson nói, bổ sung thêm một lời thề nguyện vào những lời thề mà các bô lão đã yêu cầu anh phải hứa.

Haji Ali ngắt một nhúm naswar mới và làm mềm nó trong gò má của mình, suy nghĩ. “Anh định xây dựng trường học tiếp theo ở đâu?” ông hỏi.

“Tôi nghĩ là mình phải đi đến thung lũng Hushe.” Mortenson nói. “Đến thăm vài làng và xem ai…”

“Tôi có thể cho anh một vài lời khuyên chứ?” Haji Ali ngắt lời.

“Chắc chắn rồi.”

“Sao anh không để việc đó cho chúng tôi? Tôi sẽ triệu tập một cuộc họp tất cả các bô lão vùng Braldu và xem làng nào sẵn sàng hiến tặng đất và nhân công cho ngôi trường. Bằng cách đó, anh không phải bay khắp vùng Baltistan như một con quạ kiếm ăn chỗ này chỗ khác nữa.” Haji Ali cười nói.

“Như vậy một lần nữa, một ông già Balti mù chữ đã dạy cho một người phương Tây cách làm thế nào để phát triển một cách tốt nhất “sân sau” của mình.” Mortenson nói. “Kể từ đó, với tất cả trường học mà tôi xây dựng, tôi đều nhớ đến lời khuyên của Haji Ali và mở rộng dần từ làng này sang làng khác và từ thung lũng này sang thung lũng khác, đến những nơi mà tôi đã xây dựng mối quan hệ, thay vì cố nhảy lò cò đến những nơi mà mình chưa tiếp xúc, như Waziristan.”

Đầu tháng mười hai, tất cả cửa sổ của ngôi trường Korphe đều đã được trám trét và các bảng đen đã được lắp đặt trong cả bốn phòng học. Mọi việc còn lại chỉ là đóng đinh những tấm tôn lợp mái vào vị trí. Những tấm tôn nhôm sắc cạnh và có thể gây nguy hiểm khi gió thổi rít từ hẻm núi quật vào như những lưỡi cưa. Mortenson mang theo bộ dụng cụ cấp cứu kề bên khi làm việc, và đã xử lí hàng chục vết thương do tôn bay gây ra.

Ibrahim, một người trong đội xây dựng, gọi Mortenson xuống từ mái trường với một yêu cầu chăm sóc y tế khẩn cấp. Mortenson nhìn người khuân vác đẹp trai, tìm kiếm những vết đứt, nhưng Ibrahim nắm cổ tay Mortenson và dẫn anh về phía nhà mình. “Đó là vợ tôi, thưa Sahib bác sĩ.” anh ta nói một cách bồn chồn. “Em bé của cô ấy không được tốt.”

Ibrahim là chủ cửa hàng duy nhất ở Korphe, một căn phòng tại gia nơi dân làng có thể mua trà, xà phòng, thuốc lá và những nhu yếu phẩm khác. Trên nền đất nện giữa góc phòng sinh hoạt của Ibrahim, Mortenson thấy vợ anh ta, Rhokia, bị bao quanh bởi một đám người đứng ngồi không yên và những thành viên trong gia đình đang phát rồ. Mortenson được biết Rhokia đã sinh một bé gái hai hôm trước, và cho đến giờ chưa tỉnh lại. “Mùi thịt phân hủy nồng nặc.” Mortenson nói. Trong ánh sáng của ngọn đèn dầu, anh khám cho Rhokia, đang nằm trên chiếc giường lót rơm vấy máu. Được Ibrahim đồng ý, anh bắt mạch cho Rhokia, nhịp mạnh nhanh đáng báo động. “Mặt cô ta xám xịt và không còn biết gì.” Mortenson nói. “Nhau thai đã không ra sau khi sinh và cô ta có nguy cơ chết vì sốc nhiễm khuẩn.”

Người em gái đau khổ của Rhokia bế đứa bé gái rõ ràng còn tỉnh táo. Đứa bé còn ẵm ngửa đã quá cận kề cái chết, Mortenson biết. Vì gia đình tin rằng Rhokia bị trúng độc nên đã không cho đứa bé bú mẹ. “Việc cho con bú sẽ kích thích dạ con, giúp tống nhau thai ra khỏi cơ thể người mẹ.” Mortenson nói. “Do đó tôi yêu cầu họ để đứa bé bú sữa mẹ và tôi cho Rhokia uống thuốc kháng sinh để điều trị sốc.” Nhưng cả ngày, dù đứa bé đã bắt đầu khỏe trở lại, Rhokia vẫn nằm trên đệm rơm, rên rỉ vì đau và rồi bất tỉnh.

“Tôi biết mình phải làm gì.” Mortenson nói. “Nhưng tôi rất ngại không biết Ibrahim đón nhận chuyện đó như thế nào.” Mortenson kéo người khuân vác sang một bên. Ibrahim là một trong những người đàn ông có học nhất ở Korphe. Anh ta để tóc dài và cạo râu nhẵn nhụi theo phong cách của những nhà leo núi nước ngoài mà anh ta đã mang vác hàng hóa cho họ. Nhưng anh ta vẫn là một người Balti. Mortenson giải thích một cách lặng lẽ rằng anh cần can thiệp bên trong cơ thể người vợ của Ibrahim và lấy đi thứ chất đã làm cho cô ấy ốm yếu.

Ibrahim vỗ vỗ hai bàn tay lên vai Mortenson và nói anh cứ làm những gì cần làm. Trong khi Ibrahim giữ cây đèn dầu, Mortenson rửa tay với một ấm nước nóng, rồi can thiệp trong tử cung Rhokia và kéo mớ nhau thai phân hủy ra.

Ngày hôm sau, trên mái trường học, Mortenson thấy Rhokia đã trở dậy và đang đi quanh làng, thủ thỉ với đứa con gái được bọc trong tấm chăn mà cô ẵm theo. “Tôi hạnh phúc khi có thể giúp được gia đình Ibrahim.” Mortenson nói. “Đối với người Balti, để cho một người đàn ông nước ngoài tiếp xúc mật thiết với vợ mình là một bước nhảy không thể tin được về lòng tin. Tôi cảm thấy mình thật thấp kém so với lòng tin mà họ đặt vào mình.”

Kể từ hôm đó, Mortenson thấy những phụ nữ Korphe vạch những vòng tròn trong không khí bằng bàn tay duỗi ra khi anh đi qua nhà họ, họ chúc phúc cho đường đi của anh.

Chiều ngày 10 tháng 10 năm 1996, Greg Mortenson khom người trên nóc mái của ngôi trường Korphe cùng Twaha, Hussein và một nhóm thợ xây dựng, hân hoan đóng cây đinh cuối cùng để hoàn tất việc xây dựng ngay lúc những hoa tuyết đầu mùa lượn quanh hai bàn tay đỏ, thô ráp của anh. Haji Ali reo mừng thành tích từ dưới sân trường. “Tôi đã cầu xin Thánh Allah toàn năng để tuyết rơi muộn cho đến lúc anh hoàn tất.” Ông tươi cười nói. “Và Người đã làm điều đó trong sự sáng suốt vô hạn của Người. Giờ hãy xuống đây và uống chút trà.”

Tối hôm đó, bên ánh sáng của ngọn lửa được đốt lên trong balti, Haji Ali mở khóa cái tủ ly của mình và trả lại cho Mortenson cây thước thủy, dây dọi cùng quyển sổ ghi chép của anh. Rồi ông đưa cho anh một quyển sổ cái. Mortenson lật từng trang và ngạc nhiên nhìn thấy những cột số trải dài từ trang này sang trang khác. Đó là thứ mà anh có thể đưa cho Jean Hoerni xem một cách tự hào. “Làng đã ghi chép từng rupi chi tiêu cho ngôi trường, cộng dồn chi phí của từng viên gạch, cây đinh, tấm bảng và tiền công đã trả. Họ đã sử dụng phương pháp kế toán Anh kiểu thuộc địa ngày xưa. Và họ đã làm việc đó tốt hơn nhiều so với việc mà tôi có thể làm.”

Xuôi thung lũng Braldu, hướng về Skardu, Islamabad và về nhà, chiếc xe jeep của Mortenson bò qua một trận bão tuyết báo hiệu mùa đông đã đến Karakarom với tất cả sức mạnh của nó. Tài xế, một người đàn ông lớn tuổi với một con mắt mờ đục, cứ vài phút lại vươn tay qua cửa xe để gỡ băng tuyết đang che khuất tấm kính chắn gió không có vành che. Khi chiếc xe jeep trượt theo một gờ băng, cao bên trên khe núi nơi dòng Braldu đang chảy trắng xóa, hành khách bám vào nhau để tìm sự ấm áp mỗi khi tài xế bỏ tay khỏi vô lăng và giơ lên cao, thốt ra những lời hốt hoảng cầu xin Thánh Allah giúp họ sống sót qua cơn bão.

Tuyết thổi hai bên với vận tốc năm mươi dặm một giờ che khuất cả con đường, Mortenson nắm chặt vô lăng trong hai bàn tay to lớn của mình và cố giữ chiếc Volvo trên nền đường không nhìn thấy được. Chuyến đi từ Bozeman đến bệnh viện nơi Jean Hoerni đã nhập viện ở Hailey, Idaho thông thường mất chưa đến bảy giờ. Họ đã rời nhà mười hai tiếng trước, với vài bông tuyết rơi xuống qua những cành cây trơ trụi ở Bozeman. Và lúc này, 10 giờ chiều, trong cơn thịnh nộ của trận bão tuyết, họ vẫn còn cách điểm đến bảy mươi dặm.

Mortenson liếc nhìn chiếc ghế trẻ em đằng sau lưng nơi Amira đang ngủ. Tự mình lái xe qua trận bão ở Baltistan là một rủi ro có thể chấp nhận được, Mortenson nghĩ. Nhưng kéo vợ con vào chỗ hoang vu, gió tuyết này chỉ để anh có thể trao một tấm hình cho người đàn ông sắp chết thì không thể tha thứ được, nhất là khi họ chỉ cách vị trí của vụ lật xe đã giết chết cha Tara có vài dặm.

Nấp bên một tấm biển cho biết họ đang đi vào vùng những miệng núi lửa của công viên quốc gia Moon, nơi họ có thể nhìn thấy vệ đường, Mortenson cho chiếc Volvo cũ lùi ra khỏi đường và đỗ xe, với phần đuôi xe quay ra gió để chờ cho đến khi hết bão. Trong khi vội vàng đến với Hoerni, Mortenson đã quên cho chất chống đông vào két nước, và nếu tắt máy xe, anh sợ là không thể khởi động máy trở lại. Trong hai giờ, anh nhìn Tara và Amira đang ngủ, để mắt đến đồng hồ báo xăng trước khi cơn bão dịu đi đủ để họ tiếp tục hành trình.

Sau khi để vợ và đứa con đang buồn ngủ ở nhà Hoerni ở Hailey, Mortenson tìm đến Trung tâm Y tế Quận Blaine. Bệnh viện này chỉ có tám phòng, được xây dựng để điều trị chỉnh hình những thương tích cho khách du lịch của khu trượt tuyết Sun Valley gần kề; và vào đầu mùa trượt tuyết, bảy phòng còn bỏ trống. Mortenson nhón chân bước qua một y tá trực đêm đang ngủ sau quầy tiếp nhận và bước về phía có ánh sáng rọi ra hành lang từ cửa đi cuối cùng bên phải.

Anh thấy Hoerni đang ngồi trên giường. Lúc đó là 2 giờ sáng.

“Anh đến trễ.” Hoerni nói. “Một lần nữa.”

Mortenson ngập ngừng ở cửa. Anh bị sốc vì bệnh tình của Hoerni đã tiến triển quá nhanh. Khuôn mặt gầy của ông chỉ còn trơ xương. Và Mortenson cảm thấy như mình đang nói chuyện với một cái sọ người. “Ông thấy thế nào, Jean?” anh nói, bước tới đặt tay mình lên vai Hoerni.

“Anh có bức ảnh chết tiệt ấy chưa?” Hoerni nói.

Mortenson đặt balô xuống giường, cẩn thận để không vướng vào đôi chân giòn dễ gãy của Hoerni, đôi chân của nhà leo núi đã đưa ông đi một vòng quanh núi Kailash ở Tây Tạng chỉ mới một năm trước đây. Anh đặt một bao thư vào đôi tay xương xẩu và theo dõi nét mặt của Hoerni khi ông mở bao thư.

Jean Hoerni lôi ra tấm ảnh 8x10 mà Mortenson đã rửa ở Bozeman và run rẩy đưa nó lên. Ông nheo mắt để nhìn kĩ tấm ảnh ngôi trường Korphe được Mortenson chụp vào buổi sáng trước khi anh ra đi. “Tuyệt đẹp!” Hoerni nói, gật đầu tán thưởng cái kiến trúc màu bơ vững chắc với đường viền mới sơn màu đỏ thẫm, và lần ngón tay dọc theo một hàng bảy mươi học sinh nghèo đang tươi cười, là những học sinh sắp bắt đầu việc học hành chính thức của chúng trong ngôi trường.

Hoerni nhấc điện thoại bên giường và gọi y tá trực đêm. Khi cô y tá đứng ở ngưỡng cửa, ông nhờ cô mang đến một cái búa và đinh.

“Để làm gì anh yêu?” cô ta hỏi với giọng ngái ngủ.

“Để tôi có thể treo tấm ảnh ngôi trường mà tôi đang xây dựng ở Pakistan.”

“Tôi e mình không thể làm điều đó.” cô ta nói với giọng dỗ dành có ý xoa dịu bớt. “Quy định.”

“Tôi sẽ mua cả bệnh viện này nếu cần.” Hoerni gầm gừ, ngồi dậy trên giường và đe dọa buộc cô y tá phải làm. “Mang đến cho tôi một cái búa!”

Một lát sau, cô y tá quay lại, mang theo một dụng cụ bấm đinh. “Đây là thứ nặng nhất mà tôi có thể tìm thấy.” cô ta nói.

“Hãy tháo tấm hình kia khỏi tường và treo tấm này lên.” Hoerni ra lệnh. Mortenson tháo bức tranh màu nước vẽ hai con mèo con đang vờn quả cầu len bằng móng vuốt của chúng, gỡ cây đinh và đóng tấm ảnh chụp ngôi trường Korphe lên ngang tầm nhìn của Hoerni bằng đinh bấm, làm vữa thạch cao văng tung tóe mỗi lần anh bấm đinh.

Anh quay lại phía Hoerni và thấy ông đang khom người trên máy điện thoại, lệnh cho người trực tổng đài gọi ra nước ngoài tìm vài số điện thoại ở Thụy Sĩ cho mình. “Chào.” sau cùng Hoerni nói với một người bạn từ thời thơ ấu ở Geneva. “Tôi đây Jean, tôi đã xây một trường học ở Karakoram, Himalaya.” ông khoe khoang. “Anh đã làm gì trong năm mươi năm qua? ”

Hoerni có những ngôi nhà ở Thụy Sĩ và Sun Valley. Nhưng ông đã chọn để chết ở Seattle. Vào ngày Giáng sinh, Hoerni được chuyển đến bệnh viện Mason, Virginia. Trên đỉnh đồi Pill Hill của Seattle. Từ phòng riêng của mình, khi trời trong xanh, Hoerni có thể nhìn ra vịnh Elliot và những đỉnh nhọn của Olympic Peninsula. Nhưng với sức khỏe đang yếu đi nhanh chóng, Hoerni dành phần lớn thời gian chú tâm vào tập tài liệu pháp lí mà ông luôn giữ trong tầm tay, ở chiếc bàn bên giường.

“Jean đã dành những tuần lễ cuối đời để duyệt lại bản di chúc.” Mortenson nói. “Bất cứ khi nào ông bực tức ai, và thường thì có ai đó làm ông phát điên lên, ông dùng cây bút lông đen lớn gạch chéo tên họ ra khỏi bản di chúc. Rồi ông gọi cho luật sư được ủy quyền, Franklin Montgomery bất cứ lúc nào, ngày cũng như đêm, và đảm bảo rằng người đó phải bị cắt quyền thừa kế.”

Lần cuối cùng trong đời mình, Mortenson phục vụ như một y tá trực đêm. Anh rời gia đình ở Montana và ở lại cùng Hoerni suốt ngày, tắm, thay đệm giường và chỉnh ống thông tiểu cho ông, đáng mừng là anh có tay nghề để làm cho những ngày cuối của Hoerni được thoải mái.

Mortenson đóng khung một tấm ảnh trường Korphe cỡ 8x10 khác và treo trên giường bệnh viện. Và anh nối chiếc máy ghi hình mà Hoerni đã cho anh trước chuyến đi cuối sang Pakistan vào máy truyền hình của bệnh viện và chiếu cho ông thấy cảnh anh sống cuộc sống như người dân làng ở Korphe. “Jean không ra đi một cách thanh thản. Ông tức giận về cái chết.” Mortenson nói. Ông chỉ nằm trên giường, nắm tay Mortenson xem video hình ảnh những trẻ em Korphe đang ca hát một cách ngọt ngào “Mary, Mary, có một, có một, con cừu nhỏ, con cừu nhỏ.” bằng thứ tiếng Anh không hoàn hảo của chúng, và cơn giận dữ của ông tan biến đi.

Hoerni bóp mạnh tay Mortenson bằng một sức mạnh đáng kinh ngạc của người sắp chết. “Ông nói với tôi, ‘Ta yêu anh như con trai mình.’” Mortenson nói. “Hơi thở của Jean đã có mùi ngọt dịu của xêton mà người ta thường có khi sắp chết, và tôi biết ông không còn sống lâu nữa.”

“Jean được mọi người biết đến với những thành tựu khoa học.” vợ góa của ông, Jennnifer Wilson nói. “Nhưng tôi nghĩ ông cũng quan tâm đến ngôi trường nhỏ bé ở Korphe này nhiều như khoa học. Ông nghĩ rằng mình thực sự đã để lại một cái gì ở phía sau.”

Hoerni cũng muốn đảm bảo rằng Viện Trung Á phải đứng vững như ngôi trường Korphe. Ông đã hiến tặng cho CAI một triệu đôla trước khi nhập viện.

Trong ngày đầu năm 1997, Mortenson trở về từ quán cà phê, thấy Hoerni mặc chiếc áo casơmi cộc tay và quần dài, và giật mạnh ống tiêm tĩnh mạch ở cánh tay. “Tôi cần quay về căn hộ của mình vài giờ.” Ông nói. “Hãy gọi một chiếc limousine.”

Mortenson thuyết phục các bác sĩ đang kinh ngạc giao Hoerni cho mình chăm sóc, và đã gọi một chiếc limousine đen đưa cả hai về căn hộ tầng áp mái ở bờ hồ Washington. Quá yếu để giữ máy điện thoại, Hoerni đọc lướt qua một quyển sổ điện thoại bìa da và yêu cầu gửi hoa đến cho nhiều người bạn đã lâu không liên lạc, Mortenson nói.

“Tốt.” ông nói, sau khi bó hoa cuối cùng đã được đặt hàng. “Giờ đây tôi có thể chết. Hãy đưa tôi trở về bệnh viện.”

Ngày 13 tháng 1 năm 1997, cuộc đời dài, gây nhiều tranh cãi của con người nhìn xa trông rộng, người đã góp phần lập nên công nghiệp bán dẫn và Viện Trung Á đã kết thúc. Tháng tiếp theo, Greg Mortenson lần đầu tiên mua một bộ vest tốt mà trong đời anh chưa bao giờ có, và đọc điếu văn trước đám đông những người trong gia đình cùng những đồng nghiệp của Hoerni, tụ họp tại buổi lễ tưởng niệm ông ở nhà thờ trường Đại học Stanford, trái tim của văn hóa của Thung lũng Silicon mà Hoerni đã góp phần tạo ra. “Jean Hoerni đã có cái nhìn đi trước để dẫn dắt chúng ta vào thế kỉ 21 của công nghệ mũi nhọn.” Mortenson nói với đám đông người tưởng niệm. “Nhưng ông cũng đã có một cái nhìn hiếm hoi để nhìn ra sau, và thấy những con người đang sống như họ đã sống từ nhiều thế kỉ.”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx