sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Ba tách trà - Chương 15 phần 1

CHƯƠNG 15

Mortenson trong dòng vận động

Không có những cú gõ búa mà là vũ điệu của nước, những bài ca của sỏi đá trở thành hoàn thiện.

- Rabindranath Tagore

Lúc 3 giờ sáng, tại “văn phòng” Viện Trung Á ở Bozeman, một phòng giặt ủi trong tầng hầm nhà mình được cải tạo lại, Greg Mortenson được biết sher của làng Chakpo, ngôi làng trong thung lũng Braldu, đã tuyên bố một fatwa(18) chống lại anh. Ở Skardu, lúc đó là giữa buổi chiều, Parvi hét vào chiếc điện thoại mà Mortenson đã trả tiền để lắp đặt tại nhà ông.

18. Fatwa là một án lệnh tôn giáo. Và Pakistan được điều hành theo luật dân sự, nhưng cũng theo Shariat, một hệ thống luật Hồi giáo như ở Iran.

“Mulahh này không còn là một người Hồi giáo nữa!” Parvi rống lên. “Hắn là kẻ lừa đảo chỉ biết quan tâm đến tiền! Không có việc gì để hắn phải tuyên bố một fatwa.”

Từ sự giận dữ trong giọng nói của Parvi, Mortenson biết fatwa đặt ra một vấn đề nghiêm trọng như thế nào. Nhưng đang còn ngái ngủ trong bộ đồ ngủ, ở nhà mình cách xa nửa vòng trái đất, hai bàn chân trần gác một cách thoải mái trên ống sưởi, thật khó để hình dung lời báo động đó thực sự cần được xem xét như thế nào.

“Anh có thể nói chuyện với hắn để xem có thể thu xếp ổn thỏa chuyện đó không?” Mortenson hỏi.

“Ông cần sang đây. Hắn sẽ không chịu gặp tôi trừ khi tôi mang cho hắn một vali nhét đầy tiền rupi. Anh có muốn tôi làm như vậy không?”

“Chúng ta đã không hối lộ và chúng ta sẽ không bắt đầu làm chuyện đó.”

Mortenson nói, nén một cái ngáp để không làm Parvi khó chịu. “Chúng ta cần nói chuyện với một giáo sĩ nhiều quyền lực hơn hắn. Anh có biết ai như vậy không?”

“Có thể.” Parvi nói. “Chương trình ngày mai vẫn vậy chứ? Tôi vẫn gọi điện vào giờ này?”

“Ừ, cũng giờ này.” Mortenson nói. “Khuda hafiz.”

“Thánh Allah ở cùng ông, thưa ông.” Parvi thở dài.

Mortenson đã lập ra một thông lệ mà anh sẽ còn theo trong cả thập kỉ tới, chỉ đạo công việc theo sự chênh lệch mười ba giờ giữa Bozeman và Baltistan. Anh lên giường lúc 9 giờ tối, sau khi gọi điện thoại “buổi sáng” cho Pakistan. Anh thức dậy lúc 2 hoặc 3 giờ sáng, là giờ liên lạc với những người Pakistan trước khi họ hết giờ làm việc. Lo việc chỉ đạo Viện Trung Á, anh hiếm khi ngủ hơn năm giờ một đêm.

Mortenson đi sang nhà bếp, pha một bình cà phê, rồi quay trở lại tầng hầm để soạn bức email đầu tiên trong ngày: “Gửi: Tất cả Thành viên Ban Giám đốc CAI.” Mortenson gõ. “Chủ đề: fatwa đã được tuyên bố cho Greg Mortenson. Nội dung: Xin gửi lời chào từBozeman! Vừa kết thúc cuộc nói chuyện qua điện thoại với Ghulam Parvi, người quản lí dự án Pakistan mới của CAI. (Ông ta cảm ơn, điện thoại của ông ta hoạt động tốt!!!) Parvi nói rằng một sher, người lãnh đạo tôn giáo địa phương, không thích ý tưởng chúng ta giáo dục cho các bé gái, vừa đưa ra một fatwa đối với tôi, cố ngăn cản CAI xây dựng thêm bất cứ trường học nào ở Pakistan.

Trong những ngôi làng nhỏ ở miền núi nơi chúng tôi làm việc, một giáo sĩ địa phương, ngay cả một giáo sĩ xấu xa, cũng có nhiều quyền lực hơn chính quyền Pakistan. Parvi hỏi tôi có muốn hối lộ hắn không. (Tôi đã nói không đời nào.) Dù sao, hắn cũng có thể gây nhiều rắc rối cho chúng ta. Tôi đã yêu cầu Parvi tìm gặp một giáo sĩ cấp cao có thể bác bỏ phán quyết của hắn và tôi sẽ thông báo cho quý vị về cách giải quyết vấn đề của Parvi. Nhưng điều này có nghĩa tôi phải sớm trở lại đó để sắp xếp chuyện này, Inshallah.Chúc an lành, Greg.”

Jean Hoerni để lại cho Mortenson 22.315 đôla, số tiền riêng của Mortenson mà nhà khoa học già xét đoán là anh bạn trẻ của mình đã tiêu tốn ở Pakistan. Và ông đã để lại cho Mortenson một vị trí đặc biệt - chịu trách nhiệm về một tổ chức từ thiện với khoản hiến tặng gần một triệu đôla. Mortenson đã yêu cầu người vợ góa của Hoerni, Jennifer Wilson, giữ một vị trí trong ban giám đốc mới được thành lập của tổ chức, cùng với người bạn cũ của anh là Tom Vaughan, bác sĩ bệnh phổi và là nhà leo núi đến từ quận Marin, người đã giúp đỡ Mortenson trong những ngày đen tối nhất của anh ở Berkeley. Tiến sĩ Andrew Marcus, Chủ tịch Ban Khoa học Trái đất của bang Montanna, cũng đồng ý phục vụ. Nhưng sự bổ sung đáng ngạc nhiên nhất cho ban giám đốc là từ một người em họ của Jennifer Wilson, Julia Bergman.

Vào tháng 10 năm 1996, Bergman đi du lịch đến Pakistan cùng một nhóm bạn, họ đã thuê chiếc trực thăng MI-17 lớn của Nga bay từ Skardu với hi vọng nhìn thấy K2. Trên đường quay về, viên phi công hỏi họ có muốn viếng thăm một ngôi làng tiêu biểu hay không. Họ đã hạ cánh ngay bên dưới làng Korphe, và khi những bé trai địa phương biết Bergman là người Mỹ, chúng đã nắm tay bà và dẫn bà đến xem một điểm thu hút khách du lịch mới - một ngôi trường vững chắc màu vàng được xây dựng bởi một người Mỹ khác, tại một nơi trước đó chưa từng có trường học, ở một làng nhỏ gọi là Korphe.

“Tôi nhìn tấm biển ở mặt tiền ngôi trường và đọc thấy nó đã được tặng bởi Jean Hoerni, chồng của chị họ Jennifer của tôi.” Bergman nói. “Jennifer đã kể cho tôi rằng Jean đang cố xây một trường học ở nơi nào đó trong vùng Himalaya, nhưng để hạ cánh đúng ngay điểm đó trong một rặng núi trải dài hàng nghìn dặm thì còn hơn là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Tôi không phải là một người mộ đạo.”Bergman nói. “Nhưng tôi cảm thấy mình được đưa đến đây vì một lí do nào đó và tôi không thể ngừng khóc.”

Vài tháng sau, tại buổi lễ tưởng niệm Hoerni, Bergman tự giới thiệu mình với Mortenson. “Tôi đã ở đó!” bà nói, ôm chầm lấy người đàn ông đang ngạc nhiên mà bà vừa gặp bằng một cái ôm thật chặt. “Tôi đã thấy ngôi trường!”

“Bà là người phụ nữ tóc vàng trên trực thăng?” Mortenson nói, lắc đầu ngạc nhiên. “Tôi có nghe nói về một phụ nữ người nước ngoài đã đến làng nhưng tôi không tin!”

“Có một thông điệp ở đây. Ý tôi là,” Julia Bergman nói. “Tôi muốn giúp đỡ, tôi có thể làm điều gì để giúp đỡ cho tổ chức không?”

“Ồ, tôi đang muốn quyên góp sách và lập một thư viện cho trường Korphe.” Mortenson nói.

Bergman cảm thấy cùng một cảm giác tiền định như bà đã từng gặp vào ngày hôm đó ở Korphe. “Tôi là quản thủ thư viện.” bà nói.

Sau khi gửi email cho Bergman và những thành viên khác trong ban giám đốc, Mortenson viết thư cho một bộ trưởng chính phủ mà anh đã gặp trong chuyến đi vừa rồi, và cho Mohamed Niaz, Giám đốc Giáo dục vùng Skardu, hỏi xin lời khuyên về chuyện sher của Chakpo. Rồi anh quỳ gối trong ánh sáng mờ mờ từ ngọn đèn bàn và lục lọi trong những chồng sách xếp dựa tường, trước khi tìm được điều mà anh cần tìm, fakhir - một chuyên luận về việc áp dụng luật Hồi giáo trong xã hội hiện đại, được dịch từ tiếng Farsi. Anh uống hết bốn tách cà phê, đọc chăm chú cho đến khi nghe tiếng chân Taranơi sàn bếp phía trên đầu anh.

Tara ngồi ở bàn bếp cho Amira bú và với một cốc lớn sữa cà phê. Mortenson không muốn quấy rầy khung cảnh bình yên với điều mà anh cần nói. Anh hôn chào buổi sáng vợ mình trước khi báo tin. “Anh phải sang đó sớm hơn dự định.” anh nói.

Vào một buổi sáng tháng ba giá lạnh ở Skardu, những người ủng hộ Mortenson gặp nhau uống trà ở tổng hành dinh không chính thức của anh, sảnh khách sạn Indus. Indus cực kì thuận tiện cho Mortenson. Không như những khu nghỉ dưỡng ít du khách ở Skardu, nằm khuất xa giữa những nơi có cảnh đẹp, khách sạn sạch sẽ và không đắt tiền này nằm trên đường chính của Skardu, không phô trương, giữa khu nhà của Changazi và một trạm xăng PSO, chỉ cách những chiếc Bedford ầm ầm trên đường trở về Islamabad khoảng một mét.

Trong sảnh khách sạn, bên dưới tấm bảng mà những nhà leo núi dán đầy ảnh về những chuyến thám hiểm gần đây, hai chiếc bàn gỗ dài được kê phù hợp cho những buổi tiệc trà kéo dài để thực hiện bất cứ công việc kinh doanh nào ở thị trấn. Buổi sáng hôm đó, tám người ủng hộ Mortenson ngồi quanh bàn, phết mứt Trung Quốc lên món bánh chapati ngon tuyệt của khách sạn và nhâm nhi trà sữa theo cách mà Parvi ưa thích - thật ngọt.

Mortenson ngạc nhiên về việc mình đã có thể triệu tập những người đàn ông này một cách hiệu quả, từ những thung lũng xa xôi của miền bắc Pakistan, cho dù những nơi ấy chưa có điện thoại. Mất khoảng một tuần kể từ lúc anh gửi thư cùng với tài xế xe jeep cho đến lúc những người anh mời gọi đến được Skardu, nhưng trong thời kì trước khi điện thoại vệ tinh trở nên phổ biến ở phần này của thế giới, thì không có cách nào khác để vượt qua khoảng cách cheo leo của những dãy núi này.

Từ thung lũng Hushe, một trăm dặm về phía đông, Mouzafer đã lên đường đến dự buổi tiệc trà này cùng với bạn ông, một phu khuân vác và là đầu bếp ở trại căn cứ trước đây, được biết đến nhiều dưới cái tên “Apo” hay “ông già” Razak. Kế bên họ, Haji Ali và Twaha ngấu nghiến bữa ăn sáng, vui vì có lí do để rời khỏi thung lũng Braldu, vốn vẫn còn ngập sâu trong tuyết giữa mùa đông. Và Faisal Baig bước nhàn hạ vào sảnh khách sạn trong sáng hôm đó, sau khi đã đi hơn hai trăm dặm từ thung lũng Charpurson gồ ghề, ở biên giới Afghanistan.

Mortenson đã đến từ hai ngày trước, sau chuyến xe buýt bốn mươi tám giờ trên xa lộ Karakoram, cùng với thành viên mới nhất trong nhóm người kì quặc của mình, một tài xế taxi bốn mươi tám tuổi ở Rawalpindi, tên là Suleman Minhas. Sau vụ bắt cóc Mortenson, Suleman đã có dịp đón anh ở sân bay Islamabad.

Trên đường về khách sạn, Mortenson đã kể lại những chi tiết về việc anh mới được thả ra ở Waziristan, và Suleman, nổi giận vì những người đồng hương của mình đã đẩy vị khách vào một sự thử thách kém thân thiện đến như vậy, đã trở thành người bảo vệ cho anh. Suleman thuyết phục anh lưu lại ở một nhà khách rẻ tiền mà mình biết ở Islamabad, tại một nơi an toàn hơn nhiều so với nơi ở cũ của anh, khách sạn Khyaban, nơi mà những vụ đánh bom của các giáo phái, hầu như vào mỗi thứ sáu, sau buổi cầu nguyện Juma đã bắt đầu gây khiếp sợ khắp vùng xung quanh.

Suleman đã quay lại mỗi ngày để theo dõi sự hồi phục của Mortenson, mang đến những túi bánh kẹo và thuốc chống kí sinh mà Mortenson bị nhiễm ở Waziristan, và đưa anh đi ăn thịt nướng ở một quán ven đường Kabuli mà mình ưa thích nhất. Sau khi chiếc taxi bị chặn lại ở một chốt cảnh sát trên đường đến sân bay cho chuyến trở về nhà của Mortenson, Suleman nói chuyện với cảnh sát một cách dịu dàng và đầy thuyết phục khiến Mortenson đã mời anh ta làm việc cho CAI như một “người dàn xếp” ở Islamabad trước khi lên máy bay.

Trong sảnh khách sạn Indus, Suleman ngồi như một vị Phật cười kế bên Mortenson, khoanh tay trước cái bụng đã bắt đầu lớn, giải khuây cho cả bàn giữa những ngụm khói thuốc Marlboro mà Mortenson đã đem từ Mỹ sang cho mình bằng những chuyện kể về cuộc sống của một tài xế taxi ở một thành phố lớn. Là một thành viên người Punjab chiếm đa số ở Pakistan, trước đây anh ta chưa bao giờ đến miền núi và liến thoắng về điều đó, làm phong phú thêm cho những người đàn ông, vốn sống ở rìa của cái thế giới nói tiếng Urdu ngoài tiếng mẹ đẻ của họ.

Mohammed Ali Changazi đi ngang qua trong bộ áo dài trắng, có thể nhìn thấy qua những vách kính, và ông già Apo Razak, với cái liếc mắt tinh nghịch dưới chiếc mũi khoằm của mình, nghiêng người tới trước và kể cho mọi người tin đồn về việc Changazi đã chinh phục thành công cặp chị em người Đức, đến Skardu cho một chuyến leo núi.

“Vâng, tôi có thể thấy ông ta là một người rất sùng đạo.” Suleman nói bằng tiếng Urdu, lúc lắc đầu để nhấn mạnh với cả bàn. “Ông ta hẳn phải cầu nguyện sáu lần mỗi ngày. Và tẩy uế chỗ này cũng sáu lần mỗi ngày,” anh ta nói và chỉ vào bụng mình. Tiếng cười rộ lên quanh bàn khiến Mortenson, bằng trực giác của mình, biết rằng việc tập hợp nhóm người chệch choạc này là không tồi.

Mouzafer và những người đàn ông Korphe là người Hồi giáo Shiite, cùng với những cư dân Skardu là Ghulam Parvi và ông thợ hồ Makhma Apo Razak, một người tị nạn từ vùng Kashmir bị Ấn Độ chiếm đóng, là người Sunni, cũng như Suleman. Và người cận vệ gây ấn tượng dũng mãnh Faisal Baig thuộc giáo phái Ismaeli. “Tất cả chúng tôi ngồi cười và nhâm nhi trà một cách hòa bình.” Mortenson nói. “Một người ngoại đạo và những đại diện từ các giáo phái đang đánh nhau của Hồi giáo. Và tôi nghĩ nếu có thể hòa thuận mãi như thế này, chúng tôi có thể hoàn thành bất cứ điều gì. Chính sách của người Anh là chia rẽ và chiến thắng. Nhưng đối với tôi thì ngược lại, đoàn kết và chiến thắng.”

Ghulam Parvi lặng lẽ nói với cả nhóm về fatwa, cơn giận dữ của ông đã nguội đi nhiều. Ông nói với Mortenson rằng ông đã sắp xếp một cuộc gặp với Syed Abbas Risvi, lãnh đạo tôn giáo của Hồi giáo Shia miền bắc Pakistan. “Abbas là một người tốt, nhưng nghi ngại người nước ngoài,” Parvi nói. “Khi ông ta thấy anh tôn kính đạo Hồi và đường hướng của chúng ta, ông ta có thể giúp ích nhiều,Inshallah.”

Parvi cũng nói rằng Sheikh Mohammed, một học giả tôn giáo và là đối thủ của sher Chakpo, cùng với con trai là Mehdi Ali đang thỉnh cầu CAI xây dựng một ngôi trường ở làng Hemasil của họ đã viết một bức thư cho Hội đồng Giáo phẩm Tối cao ở Qom, hỏi các giáo sĩ lãnh đạo ở Iran, những người có quyền lực tối cao trong thế giới Hồi giáo Shia, rằng liệu fatwa có hợp lí không.

Haji Ali thông báo rằng mình đã gặp các bô lão của mọi ngôi làng Braldu và họ đã chọn Pakhora, một cộng đồng đặc biệt nghèo khó của thung lũng Hạ Braldu do người bạn thân của Haji là Mousin đứng đầu, như là địa điểm được chọn cho ngôi trường thứ hai của CAI.

Ông thợ hồ Makhmal, người đã thực hiện công việc ở Korphe rất chuyên nghiệp, hỏi xin một ngôi trường cho làng quê Ranga ở ngoại vi Skardu của mình, và nói rằng đại gia đình của ông, tất cả đều là những thợ xây có tay nghề, có thể góp sức để dự án được hoàn thành nhanh chóng.

Mortenson hình dung ra Hoerni sẽ hạnh phúc biết bao khi được ngồi tại chiếc bàn này. Lời khuyên của ông rằng đừng bực tức trước những làng cạnh tranh giành giật ngôi trường đầu tiên vang lên rõ ràng trong tai anh: “Trẻ em ở tất cả những ngôi làng cố hối lộ anh đều cần trường học.”

Mortenson nghĩ đến những đứa trẻ chăn dê mà anh đã dạy vào cái ngày anh nhảy bổ ra khỏi bữa yến tiệc của Changazi, cái cách thèm khát mà chúng nuốt lấy bài học vụng về của anh về tên gọi tiếng Anh cho từ “cái mũi” và đề xuất xây dựng một ngôi trường ở làng quê Changazi, khi các bô lão đã đồng ý hiến đất. “Vậy, bác sĩ Greg,” Ghulam Parvi nói, gõ nhẹ đầu bút vào xấp giấy mà ông đang ghi chép. “Năm nay chúng ta sẽ xây trường nào?”

“Tất cả những ngôi trường đó, Inshallah.” Mortenson nói.

Greg Mortenson cảm thấy cuộc đời mình đang tăng tốc, anh đã có một căn nhà, một con chó, một gia đình, và trước khi anh đi, anh và Tara đã bàn đến việc có thêm con. Anh đã xây dựng một ngôi trường đang bị đe dọa bởi một giáo sĩ giận dữ, đã tập hợp được một ban giám đốc người Mỹ cùng đội ngũ nhân viên người Pakistanlôi thôi lếch thếch. Anh có năm mươi nghìn đôla tiền của CAI trong balô và còn có nhiều hơn nữa trong ngân hàng. Những trẻ em khốn khổ và bị bỏ quên ở miền bắc Pakistan đã cam chịu quá cao như những ngọn núi bao quanh Skardu. Với fatwa treo trên đầu như một thanh đao, có ai biết còn bao lâu anh mới có thể làm việc ởPakistan? Giờ là lúc để hành động với tất cả năng lực mà anh có thể tập hợp.

Với năm mươi tám nghìn đôla, Mortenson mua một chiếc Toyota Land Cruiser màu xanh quân đội đã qua sử dụng hai mươi mốt năm, có cầu sau thấp để vượt qua bất cứ chướng ngại nào mà anh có thể gặp trên xa lộ Karakoram. Anh thuê một tài xế điềm tĩnh, có kinh nghiệm, hút thuốc lá luôn miệng tên là Hussain, anh này mua ngay một hộp thuốc nổ và chất dưới ghế hành khách, để họ có thể cho nổ mở đường qua những vụ lở đất mà không phải chờ đội sửa chữa của chính quyền. Và cùng với Parvi và Makhmal, anh mặc cả không thương xót, mua đủ vật liệu xây dựng từ những thương nhân Skardu để khởi công ba ngôi trường ngay khi đất tan băng giá.

Lần thứ hai trong đời Mortenson, cây xăng lại là địa điểm liên hệ mấu chốt giữa anh với đạo Hồi. Một chiều tháng tư ấm áp, đứng trong cơn mưa phùn nhè nhẹ bên những trụ bơm xăng của trạm xăng PSO, Mortenson đã gặp Syed Abbas Risvi. Parvi giải thích rằng tốt nhất họ nên gặp nhau ở một nơi công cộng cho đến khi vị giáo sĩ đưa ra quyết định về người ngoại đạo, và gợi ý địa điểm náo nhiệt này gần khách sạn của Mortenson.

Abbas đến cùng hai trợ lí trẻ tuổi, cả hai đều để râu dài, họ lảng vảng bảo vệ quanh ông. Ông dáng cao gầy với bộ râu được cắt tỉa của một học giả Shia, là người đã tỏa sáng hơn các bạn học tạimadrassa ở Najaf, Iraq. Ông đội chiếc khăn xếp đen quấn chặt quanh cái trán cao và xem xét anh chàng người Mỹ to lớn mặc trang phục Pakistan qua cặp mắt kính vuông kiểu xưa, trước khi đưa tay ra cho một cái bắt tay rắn rỏi.

“As-Salaam Alaaikum.” Mortenson nói, cúi người với bàn tay đặt trên tim mình một cách kính cẩn. “Rất hân hạnh được gặp ông, Syed Abbas.” anh tiếp tục bằng tiếng Balti. “Ông Parvi đã kể cho tôi nghe nhiều về sự khôn ngoan và lòng trắc ẩn của ông dành cho người nghèo khó.”

“Có một số người châu Âu dứt khoát đến Pakistan để phá đạo Hồi.” Syed Abbas nói. “Và lúc đầu tôi đã lo rằng bác sĩ Greg là một trong số họ. Nhưng ngày hôm đó, ở trạm xăng, tôi đã nhìn vào trái tim anh ta và thấy rõ anh ta là người như thế nào - một người ngoại đạo nhưng lại là một người cao quý, tận hiến đời mình cho việc giáo dục trẻ em. Tôi đã quyết định ngay tại đó là phải giúp anh ta bằng mọi cách có thể.”

Mortenson đã phải mất hơn ba năm, với những hướng đi sai lầm, những thất bại và những khoảng thời gian trễ nải, để đưa ngôi trường Korphe từ một lời hứa cho đến hoàn tất. Với những sai lầm được nhớ kĩ trong lòng, với số tiền mà sau cùng đã biến ước mơ của anh thành hiện thực và một đội ngũ nhân viên cùng những người tình nguyện say mê cống hiến để cải thiện cuộc sống của trẻ em Balti, CAI của Greg Mortenson xây dựng thêm ba trường tiểu học nữa chỉ trong vòng ba tháng.

Makhmal đã giữ đúng lời hứa. Ông và gia đình ông gồm những thợ hồ ở Kashmir dẫn đầu việc xây dựng trường học tại làng Ranga của họ, xây dựng một bản sao của trường Korphe chỉ trong mười tuần. Ở một nơi mà những ngôi trường thường phải mất nhiều năm mới hoàn thành, thì tiến độ này là chưa từng có. Mặc dù làng của họ chỉ ở bên ngoài Skardu tám dặm, nhưng trẻ em Ranga chưa hề có được sự giáo dục từ chính phủ, trừ khi chúng có thể trả được chi phí di chuyển và học phí của các trường tư ở Skardu. Sau một mùa xuân lao động cật lực, cơ hội cho các trẻ em Ranga đã được thay đổi mãi mãi.

Ở Pakhora, bạn của Haji Ali là Haji Mousin tạo cơ hội tốt nhất cho làng mình, thuyết phục nhiều đàn ông Pakhora không làm công việc khuân vác cho các đoàn thám hiểm cho đến khi ngôi trường được xây dựng xong, nurmadhar của Pakhora đã tập hợp được đội ngũ người lao động không có tay nghề đông đảo và nhiệt tình. Zaman, một nhà thầu địa phương, đã hoãn công việc xây dựng cho quân đội và dẫn đầu nỗ lực xây dựng một ngôi trường bằng đá hình chữ U xinh đẹp, được che bóng bởi một rặng dương. “Zaman đã thực hiện một công việc không thể tin nổi.” Mortenson nói. “Ở một trong những ngôi làng héo lánh nhất miền bắc Pakistan, anh ta đã xây dựng một ngôi trường trong mười hai tuần, vượt hơn hẳn bất cứ thứ gì mà chính quyền Pakistan có thể xây dựng, và với chi phí chỉ bằng một nửa giá của một dự án mà chính quyền phải thực hiện trong nhiều năm mới xong.”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx