sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Ba tách trà - Chương 20 phần 1

CHƯƠNG 20

Uống trà cùng Taliban

Hãy tấn công tất cả bọn chúng bằng vũ khí hạt nhân. Hãy để Thánh Allah sắp xếp tất cả bọn chúng.

- Nhãn dán trên được thấy trên thanh cản của một chiếc xe Ford-F150 thùng hở ở Bozeman, Montanna.

“Hãy đi xem xiếc nào.” Suleman nói.

Mortenson ngồi ở băng sau trong chiếc Toyota Corolla trắng của CAI thuê cho người tài xế taxi ở Rawalpindi đã chuyển thành người dàn xếp của anh, tựa đầu vào tấm vải bọc mà Suleman đã trìu mến gắn vào nệm tựa đầu trên chiếc xe của mình. Faisal Baig ngồi trên khẩu súng săn. Suleman đón họ ở sân bay, nơi họ đã bay đến từ Skardu trên một chiếc PIA 737, những chuyến bay thương mại đã được nối lại ở Pakistan, cũng như ở Mỹ, vào cuối tháng 9 năm 2001.

“Cái gì?” Mortenson hỏi.

“Ông sẽ thấy.” Suleman cười tươi nói. So với chiếc Suzuki nhỏ xíu màu gỉ sét mà anh ta đã sử dụng làm xe taxi, thì chiếcToyota giống như một chiếc Ferrari sang trọng. Suleman cho xe luồn lách qua luồng giao thông trên xa lộ nối Pindi với thành phố sinh đôi của nó là Islamabad bằng một tay, trong khi sử dụng cách thức quay số nhanh bằng chiếc điện thoại di động Sony màu rượu chát có kích thước bằng hộp diêm, là thứ tài sản quý giá của anh, để báo cho người quản lí nhà khách Home Sweet Home giữ phòng vì sahib của anh sẽ đến trễ.

Suleman cho xe chạy chậm lại, trình giấy tờ tại một rào chặn của cảnh sát bảo vệ cho khu vực xanh, khu vực ngoại giao mới, nơi những tòa nhà Chính phủ, các đại sứ quán và các khách sạn cho doanh nhân được bố trí giữa những đại lộ như những đường kẻ ô với kích thước hoành tráng. Mortenson chồm qua cửa để lộ mặt mình ra ngoài. Những thảm cỏ ở Islamabad cực kì xanh tươi, cây cối che bóng rất tươi tốt, ở một nơi thường là khô cằn bụi bặm, gợi lên những nguồn lực đủ mạnh để biến đổi cả ý chí của tự nhiên. Nhìn thấy Mortenson, viên cảnh sát vẫy tay cho họ đi.

Islamabad là một thành phố được quy hoạch, xây dựng vào những năm 1960 và 1970 như một thế giới tách rời của sự giàu có và quyền lực của Pakistan. Trong những cửa hàng bóng loáng nối liền nhau bên lề những con đường lớn, như những dãy đèn LED nhấp nháy, những mặt hàng điện tử tiêu dùng mới nhất của Nhật đều có mặt, cũng như những món ngon lạ của những cửa hàng gà rán Kentucky hay tiệm Pizza Hut.

Trái tim đô thị quốc tế rộn ràng của thành phố là khách sạn năm sao Marriot, một pháo đài xa hoa được bảo vệ khỏi sự nghèo đói của đất nước bằng những cánh cổng bêtông và một lực lượng bảo vệ lên đến 150 người, trong những bộ đồng phục màu xanh nhạt, lấp ló sau những bụi cây trong một khung cảnh như công viên, với vũ khí lủng lẳng. Ban đêm những đầu thuốc lá của họ lập lòe trong khung cảnh xanh tươi trông như những con đom đóm chết.

Suleman lái chiếc Toyota đến rào chắn bêtông nơi hai con đom đóm, vẩy súng lục M3 bóng dầu mỡ, dò bên dưới gầm xe bằng que gắn kính và kiểm tra bên trong xe trước khi mở cổng thép cho họ vào.

“Khi cần giải quyết một số việc, tôi đến Marriot.” Mortenson nói. “Ở đó luôn luôn có máy fax và đường truyền internet nhanh, và thông thường, khi một người nào đó đến viếng thăm Pakistan lần đầu, tôi sẽ đưa từ sân bay đến thẳng Marriot để họ không bị mất phương hướng mà không bị sốc quá nhiều về văn hóa.”

Nhưng giờ đây, việc đi qua máy phát hiện kim loại và bị vỗ lần dọc chiếc áo khoác kí giả nhét chật cứng bởi hai người bảo vệ chuyên nghiệp mặc áo ghilê và đeo ống nghe lại làm cho Mortenson bị sốc. Sảnh khách lớn như một phòng khiêu vũ lát đá hoa, thường trống vắng, chỉ trừ một người đàn dương cầm và những nhóm doanh nhân người nước ngoài đang thì thầm vào điện thoại di động giữa những ốc đảo quá nhiều bàn ghế, là một khối đậm đặc cafein và lòng nhân đạo vội vã vì hết hạn; những đội quân của giới báo chí đã đến.

“Gánh xiếc.” Suleman nói, mỉm cười hãnh diện với Mortenson, như một học sinh phô diễn một dự án gây ấn tượng ở một phiên hội chợ khoa học. Nhìn bất cứ nơi nào, Mortenson cũng thấy những máy ghi hình, logo và những con người căng thẳng: CNN, BBC, NBC, ABC, Al-Jazeera. Chen qua một người quay phim đang hét lớn vào điện thoại di động với sự giận dữ của người Giecman, Mortenson đến lối vào quán cà phê Nadia, phân cách sảnh khách sạn bằng một hàng chậu cây cảnh thơm phức.

Quanh quầy ăn tự chọn, nơi Mortenson thường ăn và được phục vụ bởi năm người phục vụ nhàn rỗi tranh nhau rót đầy ly nước khoáng của anh, Mortenson thấy bàn nào cũng đã đầy người.

“Dường như cái góc nhỏ thế giới của chúng ta đột nhiên trở nên thú vị.” Mortenson quay lại để thấy nữ phóng viên Canada tóc vàng, Kathy Gannon, trưởng văn phòng kì cựu ở Islamabad của AP, mỉm cười kế bên anh trong bộ shalwar kamiz được cắt may một cách kín đáo, cũng đang chờ bàn. Anh ôm chào cô.

“Như thế này đã bao lâu?” Mortenson nói, cố để cô có thể nghe được qua tiếng hét của gã quay phim người Đức.

“Vài ngày,” Gannon nói. “Nhưng hãy chờ cho đến khi bom bắt đầu rơi, khi đó một phòng có thể phải trả cả nghìn đôla.”

“Lúc này là bao nhiêu?”

“Từ 150 đến 320 đôla và vẫn đang tăng.” Gannon nói. “Những chàng trai này chưa bao giờ trúng mánh như vậy. Tất cả các mạng truyền hình đều tường thuật trực tiếp từ trên nóc khách sạn và khách sạn thu phí mỗi một nhóm 500 đôla một ngày để quay phim từ trên đó.”

Mortenson lắc đầu, anh chưa bao giờ nghỉ đêm tại Marriot. Điều hành CAI với những khoản chi tiêu cũng gầy còm như số dư tài khoản ngân hàng đang giảm sút có nghĩa là tiếp tục ở lại nhà nghỉ mà anh rất thích kể từ lần đầu khi Suleman đưa anh đến đó. Nhà nghỉ Home Sweet Home, một biệt thự xây dựng chắc chắn đã bị bỏ trống khi người chủ cũ hết tiền trước khi có thể hoàn tất, tọa lạc trên một lô đất cỏ dại um tùm gần đại sứ quán Nepal. Giá một phòng, với đường ống nước khi có khi không và thảm đỏ trải phòng lỗ chỗ vết thuốc lá là mười hai đôla một đêm.

“Bác sĩ Greg, Sahib, bà Kathy, xin mời đi theo tôi.” một người phục vụ mặc áo đuôi tôm quen biết anh thì thầm. “Sắp có một bàn trống, và tôi sợ những người... ” anh ta tìm một từ thích hợp, “những người nước ngoài... sẽ chiếm lấy.”

Gannon được nhiều người biết và ngưỡng mộ vì sự gan dạ của cô. Đôi mắt xanh nhìn xuyên mọi chuyện như một thách thức. Đã có lần, một lính biên phòng Taliban cố tìm ra những lỗi tưởng tượng trên giấy thông hành của cô để không cho cô vào Afghanistan đã ngạc nhiên vì sự kiên quyết của cô. “Cô thật mạnh mẽ.” hắn nói với cô. “Chúng tôi có lời khen cho một người như cô: một người đàn ông.”

Gannon đã trả lời rằng cô không xem đó là một lời khen.

Một cái bàn phủ khăn hồng kế bên quầy ăn tự chọn Nadia đông nghẹt người. Gannon nhét Mortenson vào cùng với những anh hề, những diễn viên tung hứng và những người đi dây vừa mới đến thành phố. “Thật đáng thương.” cô ấy nói. “Những kí giả mới vào nghề không biết gì về vùng này đứng trên mái trong lớp áo chống đạn và hành động như sân khấu của họ ở những quả đồi Margala, là một vùng chiến sự chứ không phải là nơi để đưa bọn trẻ đến vào dịp cuối tuần. Phần lớn bọn họ đều không muốn đến bất cứ nơi nào gần biên giới và đang viết ra những câu chuyện mà không hề kiểm tra lại. Và người nào muốn đi thì cũng không may mắn. Taliban vừa đóng cửa biên giới Afghanistan đối với tất cả các phóng viên nước ngoài.”

“Cô có định vào đó không?” Mortenson hỏi.

“Tôi vừa trở về từ Kabul.” cô ấy nói. “Tôi đang nói chuyện điện thoại với tổng biên tập ở New York khi chiếc máy bay thứ hai đâm vào tòa tháp và đã thu thập được vài câu chuyện trước khi bọn chúng ‘hộ tống’ tôi đi ra.”

“Taliban sắp làm gì?”

“Khó nói lắm. Tôi nghe nói họ đã triệu tập một shura và đã quyết định giao Osama nhưng vào phút chót, Mullah Omar đã bác bỏ và nói rằng hắn sẽ bảo vệ Osama bằng mạng sống của mình. Anh biết như vậy có nghĩa là gì chứ. Nhiều người trong bọn chúng dường như sợ hãi, nhưng những người chống đối vẫn sẵn sàng để đánh trả.” cô ấy nhăn mặt nói. “Dẫu sao, cũng cầu cho những gã này gặp may mắn.” cô nói, gật đầu với đám kí giả tập trung quanh người quản lí khách sạn.

“Cô có thử trở lại đó chứ?” Mortenson hỏi.

“Nếu tôi có thể đi trên máy bay,” cô ấy nói. “Tôi không thể lẻn vào một burkha như một trong những gã cao bồi kia, và bị bắt hay còn tệ hơn thế nữa. Tôi nghe nói rằng Taliban đang giữ hai kí giả Pháp mà họ bắt được khi đang lẻn vào.”

Suleman và Baig quay lại bàn ăn tự chọn với những đĩa cà ri cừu đầy vun. Suleman còn lấy thêm một tô đầy bánh xốp màu hồng dùng tráng miệng.

“Ngon không?” Mortenson hỏi, và Suleman, miệng đang tích cực nhai, gật đầu. Trước khi đi vòng qua bàn ăn tự chọn, Mortenson múc vài muỗng món tráng miệng của Suleman. Món sữa trứng màu hồng làm anh nhớ những món tráng miệng theo phong cách Anh mà anh đã lớn lên cùng ở Đông Phi.

Suleman ăn một cách đặc biệt khoái trá mỗi khi thịt cừu được dọn ra. Khi anh ta lớn lên trong một gia đình bảy con, tại một ngôi làng khiêm tốn vùng Dhok Luna ở đồng bằng Punjab giữa Islamabad và Lahore, thịt cừu chỉ được dọn trong những dịp rất đặc biệt. Và ngay cả trong những dịp đó, thì cũng không bao giờ có nhiều thịt cừu để đến miệng đứa con thứ tư trong gia đình.

Suleman cáo lỗi và trở lại bàn tiệc tự chọn.

Trong tuần sau đó, Mortenson ngủ ở Home Sweet Home nhưng ở lại Marriot trong suốt những giờ mà anh không ngủ, bị kẹt, như năm năm trước đây ở Peshawar điên rồ vì chiến tranh, trong cái cảm giác như mình đang ở trong con mắt bão của trận bão lịch sử. Và với giới truyền thông cắm trại ngoài ngưỡng cửa nhà mình, anh quyết định làm điều mà mình có thể làm để quảng bá cho CAI.

Những ngày tiếp sau vụ tấn công khủng bố ở New York và Washington, hai quốc gia khác ngoài Pakistan có quan hệ ngoại giao với Taliban là Ả Rập Saudi và Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập đều đã cắt đứt quan hệ với Taliban. Với Afghanistan nay đã đóng kín, Pakistan là nơi duy nhất mà Taliban có thể trình bày lí lẽ của mình với thế giới. Họ tổ chức những buổi họp báo đài trên bãi cỏ ở tòa đại sứ đổ nát của họ, cách Marriot hai kilômét. Những chiếc taxi, trước đây năn nỉ để đi quãng đường đó với giá 80 cent thì nay cắt cổ các phóng viên với giá 10 đôla một chuyến.

Mỗi buổi chiều, Liên Hiệp Quốc tổ chức một buổi tóm tắt tình hình Afghanistan tại khách sạn Marriot và hàng loạt phóng viên say nắng vui vẻ tràn trở lại vào Marriot có điều hòa không khí.

Mùa thu năm 2001, Mortenson có sự hiểu biết rõ về Pakistanhơn hầu hết những người nước ngoài khác, đặc biệt là vùng biên giới phía bắc xa xôi mà các phóng viên đang muốn đến. Anh lúc nào cũng được các phóng viên dỗ dành hoặc đề nghị những khoản hối lộ với hi vọng anh có thể thu xếp việc đi vào Afghanistan cho họ.

“Dường như các phóng viên giao chiến với nhau cũng nhiều như họ muốn giao tranh bắt đầu ở Afghanistan.” Mortenson nói. “CNN hợp sức với BBC chống lại ABC và CBS. Các phóng viên nghiệp dư người Pakistan cũng chạy vào trong sảnh khách sạn với những câu chuyện như tin tức về chiếc máy bay do thám không người lái Predator của Mỹ bị Taliban bắn hạ và những cuộc chiến hứa hẹn sẽ bắt đầu.”

“Một nhà sản xuất chương trình của NBC và một phóng viên quay phim mời tôi đi ăn tối ở một nhà hàng Trung Hoa trong Marriot để thu thập thông tin về Pakistan.” Mortenson nhớ lại. “Nhưng họ thực sự theo đuổi cùng một chuyện như những người khác. Họ muốn đi đến Afghanistan và hứa hẹn cho tôi nhiều hơn số tiền tôi kiếm được trong một năm nếu tôi đưa họ vào đó. Rồi họ nhìn quanh cứ như cái bàn có thể bị gắn máy ghi âm và thì thầm, Đừng cho CNN hay CBS biết.”

Thay vào đó, Mortenson trả lời các cuộc phỏng vấn của hết phóng viên này đến phóng viên khác, là những người hiếm khi đi ra khỏi Marriot và Đại sứ quán Taliban, về những tư liệu và chút màu sắc địa phương cần thiết để lấp đầy những câu chuyện của họ về những buổi họp báo nhạt nhẽo. “Tôi cố nói với họ về căn nguyên của các cuộc xung đột - sự thiếu giáo dục ở Pakistan, và sự trỗi dậy của các Wahhabi madrassa, và vì sao điều đó dẫn đến những vấn đề như chủ nghĩa khủng bố.” Mortenson nói. “Nhưng những chuyện tôi nói hiếm khi được đăng lên báo. Họ chỉ muốn những miếng ngon về các nhà lãnh đạo đứng đầu của Taliban để có thể biến những người này thành những kẻ hung ác trong thời điểm sắp có chiến tranh.”

Mỗi tối, đúng giờ như một chiếc đồng hồ, một nhóm lãnh đạo cấp cao của Taliban ở Islamabad quấn khăn xếp trên đầu, bước vào sảnh đá hoa của Marriot và ngồi đợi ở một bàn trong quán cà phê Nadia, họ cũng đến để xem xiếc. “Đêm nào họ cũng ngồi đó nhâm nhi những tách trà xanh. Vì đó là món rẻ nhất trong thực đơn. Với đồng lương Taliban, họ không thể dự tiệc tự chọn hai mươi đôla. Tôi luôn luôn nghĩ rằng một phóng viên có thể có được cả một câu chuyện nếu chỉ cần đề nghị mời họ tất cả các bữa tối, nhưng tôi không hề thấy điều đó xảy ra.”

Sau cùng chính Mortenson lại ngồi cùng với họ. Asem Mustafa, người phụ trách tất cả những bài viết về những đoàn leo núi Karakoram cho tờ báo Nation của Pakistan, thường liên lạc với Mortenson ở Skardu về những tin tức leo núi mới nhất. Mustafa có quen biết với Đại sứ Taliban, Mullah Abdul Salaam Zaeef đã giới thiệu Mortenson với họ vào một buổi tối ở Nadia.

Cùng với Mustafa, Mortenson ngồi xuống một bàn với bốn người Taliban, ở một chỗ ngồi kề bên Mullad Zaef, dưới một biểu ngữ viết tay ghi là “Ole! Olé! Ole!”. Nadia là nơi mà các doanh nhân nước ngoài thường ăn bảy bữa tối trong một tuần khi họ ởIslamabad. Để tránh nhàm chán, nhà hàng thường thực hiện mỗi đêm mỗi món ăn của các nước khác nhau. Đêm hôm đó là đêmMexico ở Marriot.

Một người phục vụ Pakistan có ria mép, nhìn khép nép bên dưới chiếc mũ dạ to vành, hỏi xem liệu họ sẽ chọn món từ bàn ăn tự chọn Continental hay quý ông muốn dùng bữa ở quầy bar taco.

“Chỉ dùng trà.” Mullah Zaeef nói bằng tiếng Urdu. Với một động tác vung cái khăn choàng Mexico kẻ sọc màu sắc rực rỡ, người phục vụ đi dọn trà.

“Zaeef là một trong số ít những nhà lãnh đạo Taliban có được một nền giáo dục chính quy và sự hiểu biết về phương Tây.” Mortenson nói. “ông ta có con trạc tuổi con tôi, do đó chúng tôi đã nói chuyện về con cái trong một lúc. Tôi thắc mắc không biết nhà lãnh đạo Taliban sẽ nói gì về việc giáo dục trẻ em, đặc biệt là trẻ em gái, do đó tôi hỏi ông ta. Ông ta trả lời như một nhà chính trị, và nói một cách chung chung về sự quan trọng của giáo dục.”

Người phục vụ quay lại với một bộ đồ trà bằng bạc và rót trà xanh cho cả bàn trong khi Mortenson nói chuyện chút ít với những người Taliban còn lại bằng tiếng Pashto, hỏi thăm về sức khỏe gia đình họ; họ trả lời là tốt. Mortenson nghĩ, chắc chắn rằng trong vài tuần nữa, câu trả lời của họ hẳn sẽ khác.

Người phục vụ, với chiếc khăn choàng kẻ sọc vắt vai vẫn để phủ trên ấm trà khi lót trà, được gấp mép lại mô phỏng dây đạn khoác quàng quanh ngực.

Mortenson nhìn bốn người đàn ông râu ria nghiêm nghị quấn khăn xếp đen, hình dung ra kinh nghiệm mà họ đã có với những vũ khí thực sự và thắc mắc họ sẽ làm gì với kiểu cách của người phục vụ. “Họ hình như không nghĩ rằng hắn có gì khác thường hơn tất cả những phóng viên nước ngoài khác đang đứng gần một bàn, cố nghe ngóng xem chúng tôi đang nói chuyện gì.” Mortenson nói.

Mortenson biết là Mullah Zaeef đang ở trong một tình thế bất khả thi khi cuộc nói chuyện của họ chuyển sang cuộc chiến sắp đến. Sống trong khu vực xanh của Islamabad, ông ta có đủ sự tiếp xúc với thế giới bên ngoài, giúp ông ta có thể thấy điều gì đang đến. Nhưng những nhà lãnh đạo hàng đầu của Taliban ở Kabul vàKandahar thì không thông thạo tình hình như vậy. Mullah Omar, lãnh đạo tối cao của Taliban, cũng như phần lớn những người bảo thủ cấp cao bao quanh hắn, chỉ có một nền giáo dục ở madrassa. Theo Ahmed Rashid thì Mohammed Sayed Ghiasuddin, Bộ trưởng Bộ Giáo dục của Taliban, không hề được giáo dục chính quy.

“Có thể chúng tôi phải giao nộp Bin Laden để cứuAfghanistan.” Mullah Zaeef nói với Mortenson khi ông ta ngoắc người phục vụ đội mũ vành rộng tính tiền và khăng khăng đòi trả tiền. “Mullah Omar nghĩ rằng vẫn còn có thời gian để bàn về cách tránh khỏi chiến tranh.” Zaeef nói một cách mệt mỏi. Rồi như nhận ra mình đã để lộ tình cảm thật, ông ta lại nói cứng. “Không được sai lầm.” ông ta tuyên bố, giọng nói đặc lại ra vẻ hiên ngang, “Chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng nếu bị tấn công.”

Mullah Omar sẽ tiếp tục nghĩ rằng hắn có thể nói theo cách của mình để tránh khỏi chiến tranh cho đến khi tên lửa hành trình từ tàu chiến Mỹ bắt đầu bắn phá tan tành chỗ ở của hắn. Không thiết lập kênh liên lạc chính thức nào với Washington, có nguồn tin là trong tháng mười đó, nhà lãnh đạo Taliban đã hai lần gọi cho đường dây phòng thông tin công chúng của Nhà Trắng từ điện thoại vệ tinh của mình, đề nghị ngồi lại cho một jirga lâu dài với George Bush. Có thể đoán được là tổng thống Mỹ đã không bao giờ trả lời các cuộc gọi này.

Mortenson miễn cưỡng rời khỏi Marriot để trở về làm việc ở Home Sweet Home, những tin nhắn điện thoại của Đại sứ quán Mỹ dồn đống lại, cảnh báo cho anh rằng Pakistan không còn được xem là an toàn cho người Mỹ. Nhưng Mortenson cần đến thăm những trường học do CAI tài trợ trong các trại tị nạn bên ngoài Peshawar và xem liệu những trại này có thể đáp ứng được cho làn sóng người tị nạn mới mà cuộc giao tranh chắc chắc sẽ tạo ra. Do đó anh gọi cho Baig và Suleman, thu xếp hành lí cho một chuyến đi ngắn quaPeshawar, đến biên giới Afghanistan.

Bruce Finley, phóng viên của tờ Denver Post mà Mortenson có quen, phát ngán vì thực đơn nghèo nàn không có tin tức gì ở Marriot đã xin đi cùng anh đến Peshawar. Họ cùng đến thăm trại tị nạn Shamshatoo và gần một trăm giáo viên được CAI hỗ trợ đang đấu tranh để làm việc trong những điều kiện gần như là không thể thực hiện.

Finley đã viết một bài về chuyến đi, mô tả công việc mà Mortenson đang làm và trích dẫn lời của anh về chiến tranh. Mortenson đã lập luận với các độc giả của Finley là không nên vơ đũa cả nắm tất cả những người Hồi giáo. Những trẻ em Afghanistanđang đổ xô vào các trại tị nạn cùng gia đình chúng là những nạn nhân, đáng được thương cảm. “Chúng không phải là những kẻ khủng bố, chúng không phải là những người xấu.” Mortenson lập luận rằng việc quy trách nhiệm cho tất cả những người Hồi giáo về ngày 11/9 kinh hoàng là “gây hoang mang cho những người vô tội”.

“Cách duy nhất mà chúng ta có thể đánh bại khủng bố là khi người dân ở đất nước có những kẻ khủng bố này biết tôn trọng và yêu quý người Mỹ.” Mortenson kết luận, “Và nếu chúng ta có thể tôn trọng, yêu quý người dân ở đây. Có gì khác biệt giữa việc họ trở thành một công dân địa phương có ích với việc trở thành một kẻ khủng bố? Tôi nghĩ vấn đề then chốt là giáo dục.”

Sau khi Finley quay lại Islamabad để viết bài báo của mình, Mortenson đến gần đồn biên giới Afghanistan để xem điều gì có thể xảy ra. Một lính gác Taliban tuổi đôi mươi mở chiếc cổng màu xanh lá cây và lật lật hộ chiếu của Mortenson một cách nghi ngờ, trong khi đồng đội của hắn vẫy nòng súng Kalashnikov từ bên này sang bên kia, quét qua cả đoàn người. Suleman quắc mắt nhìn những khẩu súng, lắc đầu chửi bọn lính canh, ý nói chúng phải thể hiện sự kính trọng với người lớn tuổi hơn. Nhưng những tuần chờ đợi chiến tranh đã bắt đầu làm cho bọn lính gác như ngồi trên lửa và chúng không thèm để ý đến Suleman.

Tên lính gác thực hiện nhiệm vụ, với đôi mắt được vẽ surma đen đậm liếc qua khe tối, càu nhàu khi xem đến một trang trong sổ hộ chiếu của Mortenson có nhiều dòng thị thực viết tay của sứ quán Afghanistan ở Luân Đôn.

Đại sứ quán ở Luân Đôn, được điều hành bởi Wali Massoud, em trai của nhà lãnh đạo Liên minh phương Bắc Shah Ahmed Massoud, là người tận tâm để lật đổ Taliban. Mortenson thường uống trà cùng Wali Massoud khi ghé ngang Luân Đôn trên đường đến Islamabad, thảo luận về những trường học cho các bé gái mà anh hi vọng được xây dựng ở Afghanistan nếu đất nước này đủ ổn định để anh có thể làm việc ở đó.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx