sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bàn về Tự Do - Phần 1

.

Mục tiêu của tập tiểu luận này là xác quyết một nguyên lý giản đơn được dùng để chi phối một cách tuyệt đối các giao dịch giữa xã hội với cá nhân theo phương thức cưỡng bách và kiểm soát, cho dù phương tiện được sử dụng có là vũ lực, dưới hình thức hình phạt hợp pháp, hoặc có là sự áp chế tinh thần của công luận. Nguyên lý ấy là sự tự vệ, cứu cánh duy nhất mà nhờ đó con người được bảo vệ, về phương diện cá nhân hay tập thể, khi quyền tự do hành động của bất cứ ai trong số họ bị sách nhiễu. Mục đích duy nhất mà quyền lực có thể được áp dụng một cách đúng đắn cho bất cứ thành viên nào của một cộng đồng văn minh, trái với ý chí của anh ta, là nhằm ngăn ngừa sự tổn hại đến người khác. Lợi ích, vật chất lẫn tinh thần, của chính anh ta không phải là một lý do chính đáng đủ để cho phép cưỡng bách hành vi của anh ta. Không thể nại ra những lý do như làm như thế là tốt hơn cho anh ta, hoặc sẽ khiến anh ta hạnh phúc hơn, hoặc theo ý kiến của người khác, làm như thế là khôn ngoan và đúng đắn, để, một cách hợp pháp, buộc anh ta phải hoặc không phải thực hiện một hành vi. Tất cả những điều này đều là những lý lẽ xác đáng có thể dùng để khiển trách, khuyên can, thuyết phục hay khẩn nài anh ta, nhưng không được dùng để ép buộc hoặc trừng phạt anh ta trong trường hợp anh ta làm ngược lại. Để biện minh cho hành động cưỡng buộc đó, hành vi mà người ta mong muốn ngăn chặn nơi anh ta phải được giả định là có thể gây nguy hại cho kẻ khác. Chỉ có hành vi nào mà vì đó, anh ta phải chịu trách nhiệm với xã hội thì mới là hành vi liên quan đến kẻ khác. Còn những hành vi chỉ liên quan đến chính anh ta, thì sự độc lập của anh ta là tuyệt đối và hợp pháp. Cá nhân có toàn quyền về thể xác và tinh thần; hay nói cách khác, về chính bản thân mình.

Có lẽ hầu như không cần thiết khi nói rằng nguyên lý này chỉ áp dụng cho những người đã trưởng thành về năng lực tinh thần. Chúng ta không nói đến trẻ con hoặc những người dưới độ tuổi mà luật pháp quy định là tuổi trưởng thành. Những ai vẫn còn đang nằm trong tình trạng chịu sự giám hộ của người khác đều phải được bảo vệ chống lại sự tổn hại do chính hành vi của mình cũng như là các tác động bên ngoài gây ra. Cũng với lý do tương tự, chúng ta không xét đến tình trạng lạc hậu của xã hội mà trong đó con người vẫn có thể được xem là chưa trưởng thành. Những khó khăn ban đầu trong tiến trình phát triển tự phát thường to lớn đến mức hiếm khi có được một sự chọn lựa phương tiện để vượt qua; và một nhà cai trị tràn đầy nhiệt tâm trong hành động hoàn thiện được bảo đảm quyền áp dụng bất cứ biện pháp thích hợp nào để đạt được mục đích, mà nếu làm ngược lại thì có lẽ không thể đạt được. Sự chuyên chế là một mô thức cai trị chính đáng khi đối phó với những kẻ dã man, miễn là cứu cánh của nó phải là việc hoàn thiện họ, và phương tiện sẽ được biện minh thông qua việc thi hành thực sự cứu cánh đó. Tự do, với vai trò là một nguyên lý, không áp dụng cho những hoàn cảnh trước khi nhân loại có thể được hoàn thiện thông qua sự thảo luận tự do và bình đẳng. Cho đến giai đoạn đó, đối với họ, không còn chọn lựa nào khác ngoài sự vâng phục tuyệt đối một đấng Akbar [1] hoặc Charlemagne [2] nào đó, nếu như họ may mắn tìm được. Nhưng khi con người có được khả năng tự dẫn dắt mình đến sự hoàn thiện bằng cách thuyết phục (điều này, từ lâu, đã được thực hiện tại tất cả các quốc gia mà chúng ta cần phải lưu tâm đến ở đây), thì sự cưỡng bách – hoặc là dưới hình thức ép buộc trực tiếp, hoặc là bằng hình phạt dành cho hành vi bất tuân – đã không còn là một phương tiện có thể chấp nhận đối với lợi ích của họ, và chỉ có thể được biện minh bằng sự an nguy của kẻ khác.

Hoàn toàn chính xác khi nói rằng tôi không thụ nhận bất cứ lợi điểm nào xuất phát từ ý niệm về cái đúng trừu tượng, như là một khái niệm không tùy thuộc vào tính hữu dụng, để áp dụng cho lập luận của mình. Tôi xem tính hữu dụng là một yêu cầu căn bản cho mọi vấn đề luân lý; nhưng nó phải là tính hữu dụng trong ý nghĩa rộng lớn nhất, được đặt nền tảng trên lợi ích lâu dài của một người với tư cách là một sinh thể tiến bộ. Tôi nghĩ rằng các lợi ích đó cho phép đặt sự kiểm soát từ bên ngoài vào các hành vi tự phát cá nhân khi mà các hành vi ấy can dự đến lợi ích của người khác. Nếu người nào thực hiện một hành vi gây nguy hại đến kẻ khác, sẽ có một vụ kiện sơ khởi [3] để trừng phạt anh ta bằng luật pháp, hoặc khi chưa thể áp dụng các hình phạt pháp lý, thì bằng những hình thức phản đối có tính chất phổ biến. Ngoài ra, có nhiều hành vi tích cực vì lợi ích của người khác mà anh ta có thể bị bắt buộc phải thực hiện; chẳng hạn như làm chứng trước tòa, đóng góp cho công cuộc quốc phòng hoặc cho các công việc chung khác có tính chất thiết yếu đối với lợi ích xã hội mà anh ta thụ hưởng sự bảo vệ; thực hiện những hành vi cứu tế cá nhân -- ví dụ như cứu mạng đồng loại, can thiệp để bảo vệ người không có khả năng tự vệ thoát khỏi hành vi ngược đãi -- hoặc những việc mà một người có nghĩa vụ phải làm, mà nếu không làm, sẽ chịu trách nhiệm trước xã hội một cách thích đáng.

Nhưng có một khu vực ảnh hưởng, trong đó xã hội, khi được phân biệt với cá nhân, chỉ có quyền lợi gián tiếp; khu vực này bao hàm tất cả phần đời và cách xử sự của một con người mà chỉ tác động đến chính anh ta, hoặc nếu có đến người người khác, thì cũng với sự tự nguyện, sự ưng thuận và dự phần không xuất phát từ hành vi bị lừa mị của họ. Tôi dùng cụm từ “chính anh ta” với ý nghĩa “một cách trực tiếp” và “trong trường hợp đầu tiên”, bởi vì bất cứ điều gì tác động đến anh ta đều có thể tác động đến người khác thông qua anh ta; và sự phản bác dựa trên sự ngẫu nhiên này sẽ được xem xét sau. Vậy thì, đây là lãnh vực thích hợp đối với sự tự do của con người. Thứ nhất, nó bao gồm khu vực nội tâm của sự nhận thức, tự do tín ngưỡng trong ý nghĩa toàn diện nhất, tự do suy tư và cảm nhận, tự do tuyệt đối về việc bày tỏ ý kiến và xúc cảm đối với mọi đề tài, dù là có tính chất thực tế hay suy diễn, khoa học, luân lý hay thần học. Quyền tự do bày tỏ và công bố ý kiến hình như chịu sự chi phối của một nguyên lý khác, bởi vì nó tùy thuộc vào phần hành xử cá nhân có liên quan đến người khác; nhưng hầu như nó cũng có tầm quan trọng lớn lao như quyền tự do tư tưởng, và đa phần dựa vào cùng một lý lẽ, đồng thời trên thực tế luôn luôn gắn liền với quyền tự do tư tưởng. Thứ hai, sự tự do của con người bao hàm quyền tự do về cảm thụ thẩm mỹ và theo đuổi nghề nghiệp; quyền tự do hoạch định những dự tính của cuộc đời sao cho phù hợp với tính cách của mình; quyền tự do làm những gì mình thích mà không gặp phải trở ngại từ phía đồng loại, miễn sao điều ta làm không gây hại cho họ, dẫu rằng họ có nghĩ hành vi của ta là xuẩn ngốc, vô lý hay sai lầm. Thứ ba, từ quyền tự do này của mỗi cá nhân đưa đến quyền tự do, trong cùng một giới hạn với quyền tự do của mỗi cá nhân, kết hợp giữa nhiều cá nhân; tức là sự tự do liên kết vì bất cứ mục đích gì, miễn không gây hại đến kẻ khác: các cá nhân kết hợp với nhau được giả định là đã trưởng thành và không bị cưỡng ép hay lừa mị.

Không một xã hội nào, mà trong đó các quyền tự do này không được tôn trọng, lại được xem là có tự do, cho dù chính quyền của nó được hình thành dưới bất cứ hình thức nào; và không một xã hội nào hoàn toàn có tự do, khi mà trong đó các quyền tự do nói trên không tồn tại một cách tuyệt đối và vô điều kiện. Tự do theo đúng nghĩa chính là tự do mưu tìm lợi ích riêng theo cách riêng của chúng ta, miễn là không tước đoạt lợi ích của người khác hoặc cản trở nỗ lực của họ trong việc đạt được lợi ích. Mỗi người đều có quyền bảo vệ một cách chính đáng sự khang kiện thể xác, tinh thần và tâm linh của chính mình. Con người sẽ hưởng lợi nhiều hơn nếu như để cho người khác được sống hạnh phúc theo cách của chính họ, hơn là buộc người khác phải sống hạnh phúc theo cách của mình.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx