sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bàn về Tự Do - Phần 3

Bây giờ chúng ta chuyển sang điểm thứ hai của lập luận, và không xét đến giả định cho rằng bất cứ ý kiến nào được mọi người thừa nhận đều có thể sai lầm, để nghiên cứu giả định cho rằng các ý kiến ấy đúng đắn, đồng thời khảo cứu giá trị của cách thức, mà thông qua đó chúng được ủng hộ, trong khi tính xác thực của chúng lại không được luận bàn một cách tự do và công khai. Dù muốn dù không, một người có một ý kiến vững vàng có thể phải thừa nhận khả năng sai lầm của ý kiến ấy; anh ta buộc phải suy xét rằng ý kiến của anh ta dẫu có xác thực đến đâu chăng nữa, nhưng nếu không được thảo luận một cách trọn vẹn, thường xuyên và mạnh bạo, thì nó sẽ trở thành một thứ giáo điều xơ cứng, chứ không phải một chân lý sinh động.

Có một dạng người (rất may là không còn nhiều như trước đây) cho rằng đã đủ nếu như có kẻ nào đó tán thành không một chút ngờ vực điều mà họ nghĩ là đúng, dẫu kẻ ấy không hề có chút kiến thức gì về vấn đề ấy, đồng thời cũng không có khả năng bênh vực cho nó trước những lời phản bác nông cạn nhất. Những người như thế, một khi nhặt nhạnh được tín điều nào đó từ giới quyền uy, hẳn nhiên sẽ nghĩ rằng sự cho phép đặt vấn đề với tín điều ấy là một hành động chẳng mang lại điều gì tốt đẹp, thậm chí còn có hại. Nơi nào mà sự chi phối của họ chiếm ưu thế, thì họ sẽ làm cho việc phản bác một cách cẩn trọng và sáng suốt ý kiến được thừa nhận thành điều không thể thực hiện, dẫu cho nó vẫn được phép phản bác một cẩu thả và ngu xuẩn; bởi vì cấm tiệt sự luận bàn là một việc rất khó xảy ra, và nếu như việc cấm đoán này thực hiện được, dù chỉ một lần, thì những niềm tin không dựa trên sự thuyết phục sẽ có xu hướng lùi buớc trước một bản sao sơ sài nhất của một luận điểm. Tuy nhiên, ta không xét đến khả năng này - giả sử như ý kiến chân thực trú ngụ trong tâm trí, nhưng dưới dạng một thành kiến, một niềm tin độc lập với, và một chứng cứ chống lại sự tranh luận – thì đây không phải là cách thức mà qua đó chân lý sẽ được một sinh linh hữu lý duy trì. Đây không phải là sự thấu hiểu chân lý.Chân lý, khi càng được cầm giữ như thế, thì không khác gì một điều cuồng tín – cái mà ngẫu nhiên dính chặt vào những diễn từ biểu tả một chân lý.

Nếu như việc hàm dưỡng tri thức chỉ được thực hiện bằng một phương cách duy nhất, thì đó chính là học hỏi các lập luận mà ý kiến của một người căn cứ vào. Cho dù điều người ta tin tưởng có là gì đi nữa, thì ít nhất họ phải có khả năng chống lại những lời lẽ phản bác thường gặp. Nhưng, có người sẽ nói rằng: “Vậy hãy dạy cho họ các lập luận nền tảng của các ý kiến. Không hẳn người ta nhắc lại như vẹt các ý kiến bởi vì họ chưa bao giờ được nghe những lời lẽ phản bác. Người học hình học không đơn giản chỉ ghi nhớ các định lý, mà còn học và thông hiểu cách chứng minh các định lý ấy; thật là phi lý khi nói họ vẫn mù mờ về các lập luận nền tảng của chân lý hình học, bởi vì họ chưa bao giờ nghe thấy ai phủ nhận hoặc tìm cách bác bỏ chúng.” Không còn nghi ngờ gì nữa, cách giảng huấn như thế luôn luôn mang lại sự thỏa mãn cho một môn học như là toán học, nơi mà tuyệt nhiên không có điều gì được phát biểu để ủng hộ mặt trái của vấn đề. Không có lời phản bác; thế thì sẽ không có lời đáp cho sự phản bác.Nhưng đối với những đề tài mà sự khác biệt ý kiến được tôn trọng, thì sự thật tùy thuộc vào điểm trung dung giữa các lý lẽ xung đột với nhau. Ngay cả trong khoa học tự nhiên, luôn luôn có thêm ít nhất một cách lý giải khác nào đó cho cùng một sự kiện; thuyết địa tâm thay vì là thuyết nhật tâm, chất khí phlogiston thay vì oxygen; và nó cần phải được cho chứng minh cho thấy tại sao lý thuyết kia không thể là một lý thuyết khả tín; khi điều này chưa được chứng minh, và khi chúng ta chưa biết nó được chứng minh như thế nào, thì chúng ta chưa hiểu các lập luận nền tảng của ý kiến chúng ta. Tuy nhiên, khi chúng ta chuyển sang khảo sát những đề tài phức tạp hơn, như luân lý, tôn giáo, chính trị, giao tế xã hội, các vấn đề của đời sống thường nhật, thì ba phần tư các lập luận tán thành ý kiến đang được tranh cãi đều không màng tới những biểu hiện ủng hộ cho ý kiến khác với nó. Nhà hùng biện vĩ đại nhất của thời cổ đại đã ghi lại rằng lúc nào ông cũng nghiên cứu lập luận của đối phương với một sự cẩn trọng như là, nếu không nói là hơn, của chính ông. Những gì mà Cicero đã thực hành như là phương tiện đạt được sự thành công trong nghệ thuật hùng biện cần phải được tất cả những ai muốn nghiên cứu một đề tài nào đó nhằm vươn tới chân lý học hỏi. Người mà chỉ biết đến những lập luận hậu thuẫn cho ý kiến của mình là kẻ biết rất ít về ý kiến ấy.Lý lẽ của anh ta có thể khúc chiết, mạch lạc, và không ai có thể bác bỏ chúng được.Nhưng nếu anh ta cũng không thể bác bỏ lý lẽ của đối phương; nếu anh ta không thấu đạt những lý lẽ ấy, thì anh ta không có cơ sở để chọn xem ý kiến nào là đúng.

Cũng chưa hợp lẽ nếu như anh ta nghe các vị thầy của mình thuật lại các lập luận của đối phương, đồng thời lại được họ - các vị thầy – cung cấp các lập luận phản bác. Đó không phải là cách thức công bằng khi đối xử với các lập luận, đồng thời cũng không phải là phương cách giúp cho chúng được va chạm thực sự với sự suy tư của anh ta. Anh ta phải nghe chúng từ những người thực sự có niềm tin vào chúng; từ những người nhiệt thành bảo vệ chúng và nỗ lực cực độ vì chúng. Anh ta phải hiểu chúng thông qua một hình thức đáng tin và thuyết phục nhất; anh ta phải cảm nhận được toàn bộ trở lực mà cách nhìn đúng về đề tài phải chạm trán để vượt qua; ngược lại, anh ta sẽ không bao giờ thực sự thủ đắc phần chân lý đang đương đầu để gạt bỏ trở lực ấy. Chín mươi chín trong số một trăm người được gọi là những kẻ có học đều rơi vào tình trạng khư khư biết lấy phần mình, ngay cả những kẻ có khả năng biện bác trôi chảy để bảo vệ quan điểm của họ. Đối với điều họ biết, thì kết luận mà họ đưa ra có thể đúng và cũng có thể sai: họ chưa bao giờ đặt mình vào địa vị tinh thần của những kẻ suy nghĩ khác với họ, và chưa bao giờ quan tâm đến điều mà những người như thế có thể sẽ nói; hậu quả là họ không hiểu biết, với bất cứ ý nghĩa thích đáng nào của động từ này, chính cái học thuyết mà họ rao giảng. Họ không hiểu những phần của học thuyết giải thích và biện mình cho phần còn lại; họ không hiểu các tình trạng mà trong đó một sự kiện nhìn bề ngoài có vẻ mâu thuẫn với một sự kiện khác, nhưng về thực chất chúng lại hòa hợp với nhau, hoặc hai lý lẽ dường như đều vững vàng như nhau, nhưng cái này, chứ không phải cái kia, được chọn. Họ lạ lẫm với phần sự thật định đoạt vấn đề và sự xét đoán của một tâm trí minh tường; điều đó cũng chẳng bao giờ được hiểu, ngoại trừ đối với những ai có sự chú tâm một cách công bằng đến cả hai phía đối lập nhau, đồng thời nỗ lực thông hiểu lý lẽ của cả hai bằng sự nhận thức tỏ tường nhất. Nguyên tắc này, đối với hiểu biết thực sự về các đề tài con người và luân lý, tỏ ra vô cùng quan yếu cho đến nỗi ví như các yếu tố đối lập của mọi chân lý quan trọng không tồn tại, thì người ta buộc phải mường tượng ra chúng – các yếu tố đối lập – và cung cấp cho chúng các lập luận vững vàng nhất mà kẻ phản đối kịch liệt nhất có thể dựng lên.

Cách thức đa số tín đồ ủng hộ các học thuyết Thiên chúa giáo thường được lấy làm ví dụ để minh họa cho mức độ mà các học thuyết về bản chất đã gây nên ấn tượng sâu đậm nhất cho tâm trí có thể lưu trú trong đó như là những tín điều mòn rã, mà không cần phải được nhận ra bằng sự tưởng tượng, bằng cảm xúc hoặc bằng kiến thức. Từ Thiên chúa giáo mà tôi dùng ở đây có nghĩa là tất cả những gì được các giáo hội và giáo phái ghi nhận - những châm ngôn và lời huấn giảng được ghi chép trong kinh Tân Ước. Chúng được xem là thiêng liêng và được tất cả những người rao giảng Thiên chúa giáo chấp nhận như là luật lệ. Tuy nhiên, hầu như không quá đáng khi nói rằng không ai trong số một ngàn tín đồ Thiên chúa giáo dẫn dắt và kiểm nghiệm hành vi của mình bằng những lề luật ấy. Tiêu chuẩn mà anh ta đặt ra là tập quán của dân tộc anh ta, giai cấp của anh ta hoặc niềm tin tôn giáo của anh ta. Vì thế, một mặt anh ta có một tập hợp các nguyên tắc luân lý mà anh ta tin rằng đã được đấng minh sáng bất khả sai lầm ban bố cho mình như là những lề luật chi phối hành vi của anh ta; mặt khác, anh ta nắm giữ một hệ thống xét đoán và thói quen thường nhật, những thứ có sự cách biệt nào đó với một vài lề luật này hay với một số lề luật khác, nhưng không lớn lắm; hệ thống này đứng ở vị trí đối lập với một vài lề luật nào đó, và là, nói một cách tổng quát, một sự thỏa hiệp giữa tín điều Thiên chúa giáo với các quyền lợi và toan tính của đời sống thế tục. Anh ta dành lòng kính trọng cho loại tiêu chuẩn thứ nhất, và sự trung thành thực sự cho loại thứ hai. Mọi người Thiên chúa giáo đều tin rằng người được ban phúc là những kẻ nghèo khó và những kẻ bị trần gian bạc đãi; rằng đưa con lạc đà đi qua lỗ trôn kim còn dễ hơn đưa người giàu có vào nước thiên đàng; rằng đừng phán xét người nếu không muốn bị người phán xét; rằng hãy yêu người khác như yêu mình; rằng nếu kẻ nào lấy của mình chiếc áo choàng ngắn thì đưa thêm cho hắn chiếc áo choàng dài; rằng đừng nghĩ ngợi nhiều về ngày mai; rằng nếu muốn trở thành người lương hảo thì hãy bán hết những gì mình có để chia cho kẻ bần hàn. Họ sẽ không thành thật nếu nói rằng họ tin vào tất cả những điều này. Tuy nhiên họ có tin tưởng vào chúng, bởi vì người ta thường tin vào điều được ngợi ca, nhưng không bao giờ được luận bàn, mà họ nghe hàng ngày. Trong ý nghĩa của một niềm tin sống động, cái có khả năng chi phối hành vi, họ tin các lời thuyết giảng này chỉ đến mức độ mà niềm tin ấy thường tác động lên chúng. Trong tay họ, các lời thuyết giảng ấy được dùng để công kích kẻ thù; và có thể hiểu rằng chúng sẽ được trưng ra (khi có dịp) như là những lý lẽ nhằm ủng hộ bất cứ điều gì người ta làm mà họ nghĩ là đáng được tán dương. Nhưng nếy có ai nhắc nhở họ rằng các câu châm ngôn ấy đòi hỏi rất nhiều điều mà thậm chí chưa bao giờ họ nghĩ đến việc thực hiện, thì lập tức kẻ ấy sẽ bị liệt vào hạng người đáng ghét, luôn ra vẻ ta đây tốt đẹp hơn kẻ khác. Những giáo thuyết không có chút tác động nào đối với hành vi của tín đồ bình thường thì sẽ không có một uy thế nào trong tâm trí họ. Họ có thói quen sùng kính sự tốt đẹp của chúng, nhưng không có một xúc cảm nào được bộc lộ cho những ngôn từ và sự vật mà ngôn từ ấy hàm nghĩa, để thúc buộc tâm trí dung nạp chúng, và từ đó làm cho họ tuân theo giáo thuyết.

Bây giờ, chúng ta có thể đoan chắc rằng Thiên chúa giáo lúc khởi thủy đã không nằm trong trường hợp chúng ta nói bên trên, ngược lại nữa là khác.Nếu Thiên chúa giáo từng như thế, có lẽ nó chẳng bao giờ có thể bành trướng từ một giáo phái không ai biết đến của những người Hebrew bị rẻ khinh thành một tôn giáo của đế quốc La-mã. Khi kẻ thù của họ nói: “Hãy nhìn xem những người Thiên chúa giáo này đã thương yêu nhau biết bao” (một lời nhận xét có lẽ không còn được người ngày nay thốt lên), thì chắc chắn họ - người Thiên chúa giáo - hơn bao giờ hết đã dậy lên một cảm nhận sống động về ý nghĩa của tín điều mà họ theo đuổi. Thấy được điều này, có lẽ chúng ta đã hiểu lý do tại sao ngày nay Thiên chúa giáo không có mấy tiến triển trong việc mở rộng tầm ảnh hưởng, và sau mười tám thế kỷ, vẫn chỉ tồn tại quanh quẩn nơi người Âu châu và hậu duệ của họ. Ngay cả với các tín đồ thuần thành, những người sống hết lòng cho giáo thuyết và gán nhiều ý nghĩa cho các giáo thuyết ấy hơn so với người khác, thì điều thường thấy là những điều được xem là khá tích cực đọng lại trong tâm trí họ chỉ là những điều do Calvin hoặc Knox, hoặc một người tương tự như thế, kẻ có sự gần gũi hơn với họ về phương diện tính cách, đã tạo ra. Các lời dạy của Chúa Ki-tô tồn tại một cách thụ động trong đầu óc họ, hầu như không gây nên bất cứ tác động nào ngoài cái được tạo ra nhờ vào sự lắng nghe các lời lẽ quá tử tế và hoà nhã. Rõ ràng có nhiều lý do giải thích tại sao các giáo thuyết mà được xem là biểu tượng riêng của một giáo phái lại có được nhiều sinh khí hơn so với những giáo thuyết có tính chất phổ biến đối với tất cả các giáo phái được thừa nhận, và tại sao nhiều bậc tôn sư phải gánh nhận nhiều khổ đau hơn để gìn giữ sức sống trong ý nghĩa của giáo thuyết; nhưng chắc chắn có một lý do là các học thuyết mới lạ thường được truy vấn nhiều hơn và phải đương cự với những kẻ muốn phủ nhận chúng một cách thường xuyên hơn. Cả vị tôn sư và các môn đồ đều thường xao lãng bổn phận ngay sau khi vắng bóng kẻ thù trên chiến địa.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx