sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Pháp sư - Bí mật của Nicholas Flamel bất tử - Chương 13 - 14

CHƯƠNG 13

Nằm ngửa thẳng người, Perenelle Flamel nhìn chằm chằm vào trần nhà bằng đá đã hoen rỉ ngay trên đầu bà và tự hỏi không biết có bao nhiêu tù nhân khác bị tống giam ở Alcatraz đã làm như vậy. Bao nhiêu người khác đã lần theo những đường kẻ hay những khe nứt trên đá, nhìn thấy những hình thù trong những đốm nước đen ngòm, tưởng tượng ra những bức tranh trong cái thứ ẩm ướt màu nâu này? Hầu như tất cả bọn họ, bà đoán.

Và bao nhiêu người nghe được những tiếng nói? Bà tự hỏi. Bà chắc rằng nhiều người tù đã tưởng tượng là họ nghe được âm thanh trong bóng tối—những lời thì thầm, những câu nói vội vàng—nhưng trừ phi là họ sở hữu món quà đặc biệt như của Perenelle, còn thì những gì họ nghe đều chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của họ mà thôi.

Perenelle nghe được tiếng nói của những hồn ma ở Alcatraz.

Lắng nghe chăm chú, bà có thể phân biệt hàng trăm tiếng nói, thậm chí có thể đến hàng ngàn. Đàn ông và đàn bà—trẻ con nữa—ồn ào và la hét, rù rì và khóc lóc, réo gọi to tiếng vì mất những người thân yêu, lập đi lập lại những cái tên của riêng họ, tuyến bố họ vô tội, nguyền rủa những cai tù. Bà cau mày, họ không phải là những gì bà đang kiếm.

Để cho những tiếng nói dội xuống trên mình, bà lần lượt phân loại ra những âm thanh cho đến khi chọn được một tiếng nói lớn hơn tất cả những tiếng còn lại: mạnh mẽ và tự tin, nó cắt ngang những tiếng nói lảm nhảm, xí xô, và Perenelle bắt gặp mình đang tập trung vào nó, nhắm vào từng từ, phân định loại ngôn ngữ.

“Đây là hòn đảo của tôi.”

Đó là một người đàn ông, nói tiếng Tây Ban Nha bằng giọng rất trịnh trọng, cổ xưa. Tập trung lên trần nhà, Perenelle gạt các tiếng nói khác ra ngoài.

“Ông là ai?”

Trong xà lim ẩm thấp lạnh lẽo, lời của bà phụt ra khỏi miệng như làn khói và vô số những hồn ma chìm vào im lặng.

Một khoảng lặng kéo dài, như thể hồn ma ngạc nhiên vì có ai đó nói với mình; rồi ông ta nói một cách tự hào,

“tôi là người Châu Âu đầu tiên đi thuyền vào vịnh này, người đầu tiên nhìn thấy hòn đảo này.”

Một hình dạng bắt đầu hiện ra trên mái nhà ngay phía trên đầu bà, đường viền phác họa qua loa thành một khuôn mặt xuất hiện trong những khe nứt và mạng nhện, nấm mốc đen đủi và lớp rêu xanh thẫm làm cho nó định hình và rõ nét.

“Tôi đã gọi nơi này là la Isa de los Alcatraces.”

“Hòn đảo Bồ nông,”

Perenelle nói, những lời nhỏ nhất thì thào như tiếng thở.

Khu trên trần nhà đông đặc lại một chút. Đó là một người đàn ông điển trai với khuôn mặt dài, hẹp và đôi mắt màu sẫm. Những giọt nước kết lại và đôi mắt lấp loáng nước.

“Ông là ai?”

Perenelle hỏi lại.

“Tôi là Juan Manuel de Ayala. Tôi khám phá ra Alcatraces.”

Tiếng móng vuốt lích kích lách cách trên những khối đá bên ngoài xà lim, và mùi rắn và mùi thịt ôi xông thốc xuống hành lang. Perenelle giữ im lặng cho đến khi mùi hôi và tiếng chân lùi xa dần, và khi bà nhìn lại trên trần, khuôn mặt tiếp tục đầy chi tiết hơn, những khe nứt trong đá tạo thành những vết nhăn hằn sâu trên trán người đàn ông và xung quanh đôi mắt ông. Bà nhận ra gương mặt của một người thủy thủ, những vết nhăn này là kết quả của việc thường xuyên nheo mắt nhìn về chân trời xa.

“Tại sao ông ở đây?”

bà lớn tiếng tự hỏi.

“Ông đã chết ở đây à?”

“Không. Không phải ở đây.”

Đôi môi mỏng cong lên cười.

“Tôi quay lại bởi vì tôi yêu quý nơi này từ khoảnh khắc đầu tiên nào đó khi tôi bắt gặp nó. Đó là năm 1775 Dương lịch, và tôi đã ở trên chiếc tàu San Carlos thật đẹp. Tôi vẫn còn nhớ tháng là tháng Tám, và ngày là ngày năm.

Perenelle gật đầu. Trước đây bà đã tình cờ gặp những hồn ma như của Ayala. Những người đàn ông và đàn bà đã quá chịu ảnh hưởng hoặc quá yêu mến một nơi đến nỗi họ trở lại đó hoài trong những giấc mơ, và cuối cùng khi họ chết đi, linh hồn họ quay lại chính những nơi đó để trở thành hồn ma canh giữ.

“Tôi đã trông nom hòn đảo này qua nhiều thế hệ. Tôi sẽ luôn luôn canh giữ nó.”

Perenelle dán mắt vào khuôn mặt ấy.

“Hẳn ông phải buồn lắm khi nhìn thấy hòn đảo xinh đẹp của ông biến thành một nơi đau đớn và khổ nhọc thế này,”

bà thăm dò.

Có cái gì đó vặn vẹo trong miệng nhân dáng đó, và một giọt nước rơi khỏi mắt nhỏ xuống cằm Perenelle.

“Những ngày đen tối, những ngày buồn bã, nhưng bây giờ qua rồi… đa tạ, đã qua rồi.”

Đôi môi của hồn ma cử động và những lời lẽ thầm thì trong đầu Perenelle.

“Đã không còn một người tù nào ở Alcatraz kể từ năm 1963, và hòn đảo này yên bình từ năm 1971.”

“Nhưng bây giờ có một tù nhân mới trên hòn đảo đáng yêu của ông,”

Perenelle nói đều đều.

“Một tù nhân bị canh giữ bởi một tên cai ngục kinh khủng hơn bất cứ tên cai ngục nào mà hòn đảo này đã trông thấy trước giờ.”

Khu trên trần nhà biến đối, đôi mắt ướt át nheo lại, nhấp nháy.

“Ai? Bà à?”

“Tôi bị nhốt ở đây chứ không phải ý tôi muốn ở đây,”

Perenelle nói.

“Tôi là tù nhân cuối cùng của Alcatraz, và tôi bị canh giữ bởi một cai ngục không thuộc giống người, mà là một con nhân sư.”

“Không!”

“Ông tự xem đi!”

Trát vữa nứt rạn ra và bụi nấm mốc rơi như mưa xuống mặt Perenelle. Khi bà mở mắt trở lại, khuôn mặt trên trần biến mất, không để lại gì hơn là một vệt bẩn theo sau nó.

Perenelle tự cho phép mình mỉm cười.

“Cái gì làm bà vui vậy, con người?”

Tiếng nói là một âm xuỵt trơn tuột, và ngôn ngữ này đã có trước khi có loài người.

Xốc mình ngồi lên, Perenelle tập trung vào một giống loài đang đứng trong hành lang cách bà chưa đầy một mét tám.

Những thế hệ người cổ đại đã cố giữ được hình ảnh của loài này trên tường hang động và những chiếc bình, chạm khắc hình ảnh nó vào đó, giữ chân dung nó trên những cuộn giấy da nén. Và thậm chí không ai trong họ từng đến gần sự kinh khiếp đích thực của con nhân sư.

Mang thân hình của một con sư tử cơ bắp khổng lồ, lông đầy vết sẹo cắt ngang cắt dọc là chứng tích của rất nhiều vết thương củ. Một đôi cánh đại bàng uốn cong ra vai và nằm sát trên lưng, những mảng lông vũ tả tơi và bẩn thỉu. Một cái đầu nhỏ, vẻ thanh tú lại là của một cô gái đẹp.

Con nhân sư bước đến sát những song sắt xà lim, và một cái lưỡi chẽ nhánh đen thui dao động trong không khí trước mặt Perenelle.

“Bà không có lý do gì để cười hết, con người kia. Tôi được biết rằng chồng bà và Nữ Chiến binh đã bị bắt ở Paris rồi. Chẳng mấy chốc họ sẽ vào tù và lần này Tiến sĩ Dee sẽ chắc chắn rằng họ không bao giờ trốn thoát được nữa. Tôi hiểu các Elder cuối cùng đã cho phép ông Tiến sĩ giết chết Nhà Giả kim huyền thoại một cách dã man.”

Perenelle cảm thấy có cái gì quặn thắt ngay nơi vùng lõm thượng vị. Đã qua bai nhiêu thế hệ các Elder Đen tối quyết tâm bắt sống Nicholas và Perenelle. Nếu bà chịu tin lời con nhân sư và việc bọn chúng đã chuẩn bị giết Nicholas là thật thì mọi chuyện thay đổi hết.

“Nicholas sẽ trốn thoát,”

bà nói một cách tự tin.

“Không phải lần này,”

cái đuôi sư tử con nhân sư quất qua quất lại ra vẻ phấn khích, hất tung lên những chùm bụi mù.

“Paris thuộc về tay người Ý, Machiavelli, và chẳng bao lâu nữa ông ta sẽ được Pháp sư người Anh tham gia cùng. Nhà Giả kim không thể trốn tránh cả hai người họ đâu.

“Còn mấy đứa nhỏ?”

Perenelle hỏi, đôi mắt nheo lại hiểm ác. Nếu có bất cứ việc gì xảy đến cho Nicholas hay hai đứa nhỏ…

Những cái lông vũ của con nhân sư xù lên, bốc ra một mùi chua chua.

“Dee tin rằng mấy đứa nhỏ giống người đó rất mạnh, có lẽ chúng đích thực là cặp song sinh huyền thoại. Ông ta cũng tin rằng có thể thuyết phục chúng nên phục vụ chúng tôi, hơn là đi theo lão già lang thang bán sách.”

Con nhân sư rùng mình thở dài.

“Nhưng nếu bọn chúng không làm theo lời họ bảo, thì chúng sẽ chết bỏ mạng thôi.”

“Còn tôi thì sao?”

Cái miệng xinh đẹp của con nhân sư mở ngoác lồ lộ dã tâm với hàm răng nhọn hoắt, quẫy lung tung cái lưỡi dài đen ngòm trong không khí.

“Bà là của tôi, Nữ Phù thủy,”

nó nói rít lên.

“Các Elder đã tặng bà cho tôi như một món quà vì đã phục vụ họ nhiều thiên niên kỷ nay. Khi chồng bà bị bắt và bị giết dã man rồi, thì tôi sẽ được phép ăn ký ức của bà. Một bữa tiệc hấp dẫn biết bao. Tôi định sẽ nhấm nháp cho tới miếng cuối cùng. Khi tôi ăn xong, bà sẽ không còn nhớ gì nữa hết, thậm chí cả tên mình.”

Con nhân sư bắt đầu cười ha hả, âm thanh rít lên, đầy vẻ nhạo báng, mạnh mẻ nảy bật lên khắp các bức tường đá trống trơn.

Rồi tiếng một cánh cửa xà lim đóng s

Âm thanh bất ngờ làm con nhân sư bàng hoàng im bặt. Cái đầu nhỏ xíu của nó quay quanh, lưỡi nó đóng đưa, rà nếm không khí.

Một cánh cửa khác đóng sầm.

Rồi lại một cái khác.

Và thêm một các nữa.

Con nhân sư quay vòng vòng, móng vuốt nó dộng xuống sàn tóe lửa.

“Ai đó?”

Tiếng thét chói tai của nó lan khắp mặt đá mốc meo.

Đột nhiên, tất cả các xà lim trong hành lang bên trên rầm rập gấp rút mở ra đóng vào liên tục, âm thanh một tiếng nổ rền rung chuyển tận trung tâm nhà tù, làm bụi từ trên trần rơi xuống như mưa.

Gầm gừ, rít ré, con nhân sư nhảy chồm lên, tìm kiếm nguồn phát ra tiếng ồn đó.

Với một nụ cười băng giá, Perenelle ngoặt chân bà trở lại trên chiếc ghế dài, đặt lưng xuống và dựa đầu trên những ngón tay bị buộc. Hòn đảo Alcatraz này thuộc về Juan Manuel de Ayala, và có vẻ như ông ta đang thông báo sự hiện diện của mình. Perenelle nghe tiếng những cánh xà lim vang rền, tiếng gỗ dộng thùm thụp, những bức tường lạch cạch và bà biết de Ayala đã trở thành gì: một con yêu tinh.

Một hồn ma huyên náo.

Bà cũng biết de Ayala đang làm gì. Con nhân sư đã hút kiệt năng lượng phép thuật của Perenelle; tất cả những gì con yêu tinh đó phải làm là lôi kéo con vật rời khỏi xà lim một lúc và năng lượng của có thể bắt đầu tái tạo. Nhấc bàn tay trái lên, người phụ nữ tập trung cao độ. Một tí xíu nước đá bé tẹo màu trắng nhảy nhót giữa các ngón tay bà, rồi xèo xèo biến mất.

Chẳng mấy chốc nữa.

Nhanh thôi.

Nữ phù thủy nắm bàn tay lại thành một nắm đấm. Khi năng lượng hồi phục, bà sẽ làm Alcatraz đổ sụp xuống cùng với con nhân sư.

CHƯƠNG 14

Tháp Eiffel mang vẻ phức tạp rất lộng lẫy vút cao hơn một trăm năm mươi mét trên đầu Josh. Đã có lần cậu sưu tập một danh sách cho dự án ở trường về mười Mỹ quan của Thế giới Hiện đại. Tháp kim loại này đứng thứ hai trong danh sách đó, và cậu luôn hứa với lòng rằng một ngày nào đó cậu sẽ phải đến xem nó cho bằng được.

Rốt cuộc thì bây giờ khi đã ở Paris, cậu lại còn chẳng buồn nhìn lên nó.

Đứng gần như ngay dưới trung tâm tháp, cậu nhón chân, quay đầu qua trái qua phải, tìm cô chị sinh đôi của mình trong số đông những du khách đi tham quan vào lúc sáng sớm, đông đến đáng kinh ngạc. Chị ấy đâu?

Josh đâm sợ.

Không, còn hơn cả sợ—cậu thấy kinh khiếp.

Hai ngày vừa qua đã dạy cậu ý nghĩa đích thực của sự sợ hãi. Trước khi xảy ra những cố trong ngày thứ năm, Josh thật sự chỉ t̗5;ng sợ rớt một bài kiểm tra hay sợ bị bẽ mặt trước các bạn trong lớp. Cậu cũng có những nỗi sợ khác, những ý nghĩ mơ hồ, ớn lạnh đến trong đêm vắng ngắt, khi cậu chợt tỉnh giấc nằm một mình tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu ba mẹ cậu gặp tai nạn. Sara và Richard Newman cả hai đều là Tiến sĩ khảo cổ học và cổ sinh vật học, và dù đó không thuộc hàng những công việc nguy hiểm nhất, nhưng những cuộc nghiên cứu của họ thỉnh thoảng đưa họ đến những quốc gia nằm giữa những vùng tôn giáo hay chính trị không ổn định, hoặc họ phải hướng dẫn khai quật trong những khu vực thế giới bị tàn phá bởi cuồng phong hoặc trong những vùng bị động đất hoặc gần những núi lửa đang hoạt động. Những chuyển động bất ngờ của vỏ trái đất thường phá tan những công cuộc tìm tòi khảo cổ đặc biệt.

Nhưng nỗi sợ sâu sắc nhất, đen tối nhất là những gì xảy đến với chị gái cậu. Dù Sophie lớn hơn cậu hai mươi tám giây, nhưng cậu luôn nghĩ chị ấy là cô em bé bỏng của mình. Cậu to con hơn, khỏe mạnh hơn, và công việc của cậu là phải bảo vệ chị ấy.

Và bây giờ, một cách nào đó, có cái gì kinh khủng lắm đã xảy đến cho người chị sinh đôi của cậu.

Cô đã thay đổi theo những cách mà cậu không thể nào hiểu. Cô đã trở nên giống Flamel và Scathach và giống loài của họ hơn là giống cậu: cô đã trở nên hơn hẳn con người.

Lần đầu tiên trong đời mình, cậu cảm thấy cô đơn. Cậu đang mất người chị gái. Nhưng có một con đường để cậu lại sánh bằng với cô ấy như trước: phải có ai đó Đánh thức năng lượng của riên

Josh quay lại—ngay khi Sophie và Scathach xuất hiện, vội vã băng qua cây cầu rộng dẫn thẳng vào tháp. Cảm giác nhẹ nhõm dội xuống cậu.

“Họ đây rồi,”

cậu nói với Flamel, đang day mặt về hướng ngược lại.

“Biết rồi,”

Nicholas nói, giọng Pháp nghe mạnh hơn lúc nào hết.

“Và họ không đi một mình”

.

Josh rút ngay cái nhìn chăm bẩm ra khỏi cô chị gái và Scathach đang tiến dần đến.

“Ý chú là sao?”

Nicholas cúi đầu xuống một chút vừa lúc Josh quay lại. Hai chiếc xe buýt du lịch vừa đến Place Joffre và đang đổ hành khách xuống. Những du khách—người Mỹ, Josh đoán qua cách ăn mặc của họ—nhặng xị, tán gẫu, cười nói ồn ào, quay phim, chụp hình ì xèo trong khi các hướng dẫn viên cố tụ họp họ lại với nhau. Một chiếc thứ ba, màu vàng tươi, dừng lại, đổ ra hơn chục du khách người Nhật mặt mày hớn hở bước xuống vệ đường. Bối rối, Josh nhìn vào Nicholas: ông muốn nói đến chiếc xe buýt nào?

“Đồ đen,”

Flamel nói một cách bí ẩn, chỉ trỏ bằng một cái hất hàm.

Josh quay lại và nhận ra người đàn ông mặc đồ đen đang sải bước về họ, di chuyển nhanh chóng băng qua nhóm người đi nghỉ. Trong nhóm du khách thậm chí không ai có một cái liếc mắt về phía người khách lạ đang len lỏi qua họ, lạng lách và xoay người như một vũ công, cẩn thận để không bị chạm vào họ oán người đàn ông này có lẽ cao khoảng bằng cậu, nhưng không thể nhận ra dáng người vì ông ta mặc một chiếc áo khoác đen bằng da dài đến ba phần tư người, vạt áo đập phần phật khi ông ta bước đi. Cổ áo kéo cao, bàn tay ông ta thọc sâu vào túi áo. Josh cảm thấy tim thắt lại: chuyện gì nữa đây?

Sophie chạy nhanh đến và đấm vào cánh tay cậu.

“Em đây rồi,”

cô nói không kịp thở.

“Có rắc rối gì không?”

Josh nghiêng đầu về phía người đàn ông mặc áo măng-tô bằng da đang đến gần.

“Em không chắc”

.

Scathach xuất hiện bên cạnh cặp sinh đôi. Josh để ý thấy thậm chí cô thở chẳng chút khó khăn. Thực tế, cô không thở gì cả.

“Rắc rối hả?”

Sophie vừa hỏi vừa nhìn Scathach.

Nữ chiến binh mỉm cười, mím chặt môi.

“Còn tùy vào việc em định nghĩa rắc rối như thế nào,”

cô lẩm bẩm.

“Trái lại,”

Nicholas nói, cười thoải mái. Ông thở ra nhẹ nhõm.

“Đó là bạn. Bạn cũ. Một người bạn tốt.”

Người đàn ông mặc áo khoác đen giờ đã đến gần hơn, và cặp sinh đôi nhận thấy ông ta có một gương mặt nhỏ, gần như tròn quay, da rất rám nắng và đôi mắt xanh lơ sắc sảo. Mái tóc đen dày dài chấm vai phủ lên vầng trán cao. Vừa leo lên bận thang, ông ta vừa rút cả hai tay ra khỏi túi và giang rộng cánh tay, những chiếc nhẫn bạc lấp lánh trên mỗi ngón tay và cả trên hai ngón cái, hợp với những chiếc hoa tai bạc trên hai tai. Một nụ cười rộng mở để lộ hàm răng méo mó, ngả vàng.

“Thầy,”

ông ta nói, choàng cả hai cánh tay quanh Nicholas và hôn ông thật nhanh lên cả hai má.

“Thầy đã trở lại.”

Người đàn ông nhấp nháy, mắt ướt, và trong một thoáng hai con ngươi lấp loáng đỏ lên. Một chút mùi cháy chợt đến trong không khí.

“Còn anh thì không bao giờ đi khỏi đây,”

Nicholas nói ấm áp, giữ người đàn ông trong tay và xem xét ông ta tỉ mỉ.

“Anh trông khỏe đó, Francis. Khỏe hơn lần cuối cùng tôi gặp anh.”

Ông quay người, đặt cánh tay choàng lên vai người đàn ông.

“Scathach, anh biết rồi, tất nhiên.”

“Ai có thể quên được Bóng tối?”

Người đàn ông mắt xanh bước tới, nắm bàn tay xanh xao của Scathach trong tay mình và đưa nó lên theo một cử chỉ lịch sự đã lỗi thời.

Scathach chồm người ra trước và cấu vào má người đàn ông đủ mạnh để lưu lại một vết máu đỏ.

“Tôi đã nói với anh lần trước rồi, đừng làm như vậy với tôi

“Thừa nhận đi—cô thích vậy.”

Ông ta cười toe.

“Và đây hẳn phải là Sophie và Josh. Bà Phù thủy đã nói với con về họ,”

ông nói thêm. Đôi mắt xanh lơ của người đàn ông mở to, không chớp khi nhìn lần lượt cả hai đứa nhỏ.

“Cặp sinh đôi huyền thoại,”

ông lẩm bẩm, hơi cau mày khi chăm chú nhìn chúng.

“Thầy chắc không ạ?”

“Chắc,”

Nicholas nói kiên quyết.

Người lạ gật đầu và cúi chào nhẹ.

“Cặp sinh đôi huyền thoại,”

ông ta lặp lại.

“Hân hạnh làm quen với các bạn. Cho phép tôi tự giới thiệu. Tôi là Comte de Saint-Germain,”

ông ta giới thiệu đột ngột, và rồi ngừng lại một chút, gần như thể ông ta mong đợi hai đứa nhận biết cái tên này.

Cặp sinh đôi ngây người nhìn ông ta, cảm xúc giống nhau lộ rõ trên gương mặt chúng.

“Nhưng các bạn cứ gọi tôi là Francis, tất cả những người bạn của tôi đều gọi như vậy.”

“Học trò cưng của chú đó.”

Nicholas trìu mến nói thêm.

“Tất nhiên cũng là học trò giỏi nhất của chú. Tụi chú biết nhau đã lâu lắm rồi.

“Bao lậu ạ?”

Sophie hỏi một cách máy móc, dù cô đã có sẵn câu trả lời trong đầu ngay khi đặt câu hỏi này.

“Chừng ba trăm năm hay đâu khoảng đó.”

Nicholas nói.

“Francis học giả kim với chú. Và anh đã nhanh chóng vượt qua chú,”

ông nói thêm.

“Anh chuyên gia trong lĩnh vực tạo đá quý.”

“Tôi học mọi thứ về thuật giả kim từ thầy đây: Nicholas Flamel,”

ông ta nói nhanh.

“Hồi thế kỷ mười tám, Francis cũng là một ca sĩ hoàn hảo và là nhà soạn nhạc. Còn thế kỷ này anh làm gì?”

Nicholas hỏi.

“Vâng, phải nói là con rất thất vọng khi thầy không nghe biết gì về con,”

người đàn ông nói tiếng Anh không có trọng âm.

“Rõ ràng là thầy không theo kịp tin tức rồi. Con đoạt được năm giải hạng nhất tại Mỹ và ba giải tại Đức, và con thắng một giải Người mới Xuất sắc nhất của MTV châu Âu.”

“Người mới Xuất sắc nhất?”

Nicholas cười toe, nhấn mạnh chữ mới.

“Anh á!”

“Thầy biết con luôn là một nhà soạn nhạc, nhưng trong thế kỷ này, thầy Nicholas,à ngôi sao nhạc rock!”

ông ta tự hào nói.

“Con là người Đức!”

Ông ta nhìn cặp sinh đôi khi ông nói, cặp chân mày hướng lên, gật đầu chờ chúng phản ứng lại với lời giới thiệu này.

Hai đứa đồng loạt lắc đầu.

“Chưa bao giờ nghe nói đến,”

Josh nói thẳng thừng.

Saint-Germain nhún vai và có vẻ thất vọng. Ông ta kéo cổ áo khoác cao lên đến tai. Năm giải nhất đó,”

ông ta rù rì.

“Loại nhạc gì ạ?”

Sophie hỏi, cắn vào bên trong má để cố nín cười khi nhìn thấy vẻ tiu nghỉu trên gương mặt ông ta.

“Khiêu vũ… điện tử… kỹ thuật… đại loại vậy.”

Sophie và Josh lắc đầu lần nữa.

“Không nghe loại đó,”

Josh trả lời, nhưng Saint-Germain không còn nhìn vào cặp sinh đôi nữa. Đầu ông ngoái về phía đại lộ Gustave Eiffel, nơi một chiếc Mercedes đen dài kiểu dáng rất đẹp đang đỗ xịch cạnh lề đường. Ba chiếc xe tải loại thường bán sát đằng sau.

“Machiavelli!”

Flamel gầm lên giận dữ,

“Francis, anh đã bị theo dõi.”

“Nhưng làm thế nào…,”

ông bá tước

“Hãy nhớ, người chúng ta đang đối đầu chính là Niccolo.”

Flamel nhìn quanh thật nhanh, thẩm định tình hình.

“Scathach, đưa hai đứa nhỏ đi với Saint-Germain. Hãy lấy tính mạng cô mà bảo vệ chúng.”

“Chúng tôi có thể ở lại, tôi có thể chiến đấu mà,”

Scathach nói.

Nicholas lắc đầu. Ông vung tay về phía những du khách đang tụ tập.

“Quá nhiều người. Ai đó sẽ bị giết mất. Nhưng Machiavelli không phải là Dee; hắn xảo quyệt. Hắn sẽ không dùng đến phép thuật—không dùng nếu hắn còn có thể chịu được. Chúng ta có thể khai thác khía cạnh đó để giành lợi thế về chúng ta. Nếu chúng ta tách ra, hắn sẽ theo dõi tôi.”

Thò tay vào dưới chiếc áo thun, ông lôi ra một cái túi vuông nhỏ.

“Cái gì vậy?”

Saint-Germain hỏi.

Nicholas trả lời cho Saint-Germain nhưng lại nhìn vào cặp sinh đôi.

“Cái túi này đã từng đựng toàn bộ cuốn Codex, nhưng bây giờ Dee đã lấy nó rồi. Josh đã xé được hai trang cuối của cuốn sách. Chúng ở trong này. Những trang chứa lời Hiệu triệu Cuối cùng,”

ông nói thêm đầy ý nghĩa.

“Dee và những Elder của hắn cần những trang này.”

Ông vuốt thẳng làn vải và đột nhiên trao cái túi cho Josh. Hãy giữ nó an toàn,”

ông nói>“Cháu sao?”

Josh nhìn cái túi rồi lại nhìn sang gương mặt của Flamel nhưng không làm động tác nào để lấy nó khỏi tay người đàn ông.

“Đúng, cháu đó. Lấy đi,”

Flamel ra lệnh.

Cậu con trai rụt rè với lấy cái túi, lằn vải tóe lửa kêu lốp đốp khi cậu nhét nó vào bên dưới áo thun của cậu.

“Tại sao lại là cháu?”

cậu hỏi. Cậu nhìn nhanh qua chị gái.

“Ý cháu là Scathach hay Saint-Germain sẽ tốt hơn…”

“Cháu đã cứu những trang này, Josh. Vậy thì đúng là cháu nên giữ chúng.”

Flamel ôm chặt hai vai Josh và nhìn vào mắt cậu bé.

“Chú biết chú có thể tin là cháu chăm sóc chúng được mà.”

Josh ấn bàn tay vào dạ dày, cảm thấy làn vải trên da mình. Khi Josh bắt đầu làm việc trong tiệm sách và Sophie làm trong tiệm cà phê, ba chúng đã dùng một câu gần giống hệt như vậy để nói về Sophie.

“Ba biết ba có thể tin là con sẽ chăm sóc cho chị con.”

Vào lúc đó, cậu cảm thấy cả tự hào pha lẫn một chút sợ hãi. Còn bây giờ, cậu chỉ cảm thấy sợ hãi thôi.

Cánh cửa phía tài xế của chiếc Mercedes mở ra và một người trang phục đen bước ra, cặp kính râm phản chiếu in hình bầu trời lúc sáng sớm, nên trông cứ như là hắn có hai cái lỗ trên mặt>“Dagon,”

Scathach gầm lên, hàm răng nhọn đột nhiên lộ ra, cô với tay vào cái túi của mình để lấy vũ khí, nhưng Nicholas chộp cánh tay cô, bóp mạnh.

“Không phải lúc này.”

Dagon mở cánh cửa sau và Niccolo Machiavelli nhô người lên. Dù hắn ở cách xa dễ đến gần một trăm mét, họ vẫn có thể thấy vẻ chiến thắng hiện rõ trên mặt hắn.

Phía sau chiếc Mercedes, cánh cửa của mấy chiếc xe tải trượt mở đồng thời rồi các cảnh sát mặc áo giáp, trang bị vũ khí hạng nặng nhảy ra khỏi đó, bắt đầu chạy về phía chân tháp. Một du khách kêu thất thanh, và hàng chục người đứng vây quanh chân Tháp Eiffel ngay tức thì xoay máy quay phim theo hướng đó.

“Đến lúc phải đi,”

Flamel nói nhanh.

“Cô hướng sông, tôi sẽ dẫn bọn chúng theo chiều ngược lại. Saint-Germain, anh bạn tôi,”

Nicholas thì thầm dịu dàng,

“chúng ta sẽ cần một trò đánh lạc hướng để giúp chúng ta trốn thoát. Một cái gì đó thật ngoạn mục.”

“Thầy sẽ đi đâu?”

Saint-Germain gặng hỏi.

Flamel mỉm cười.

“Đây là thành phố của tôi rất lâu trước khi Machiavelli đến. Có lẽ một số những nơi tôi thường lui tới trước đây vẫn còn.”

“Đãay đổi nhiều kề từ lần gần nhất thầy ở đây,”

Saint-Germain cảnh báo. Ông ta vừa nói vừa cầm bàn tay trái của Flamel trong cả hai tay mình, xoay ngửa lên và ấn múi thịt nhỏ ở đầu ngón tay cái mình vào giữa lòng bàn tay của Nhà Giả kim. Sophie và Josh đứng đủ gần để thấy khi ông ta rút tay về, có một dấu hằn như cánh bướm đen nhỏ xíu trên da Flamel.

“Nó sẽ đưa thầy về với con,”

Saint-Germain nói một cách bí ẩn.

“Bây giờ, thầy muốn một cái gì đó ngoạn mục, thì này nhé.”

Ông ta cười toe và kéo ống tay của chiếc áo măng-tô bằng da lên để lộ cánh tay trần. Hàng chục hình xăm những con bướm nhỏ xíu phủ lên da ông, và bao quanh cổ tay như chiếc vòng, chúng quấn quanh cánh tay lên đến chỗ cùi chỏ gập lại. Đan những ngón tay vào nhau, ông ta xoay cổ tay và bẻ cong chúng ra phía ngoài, có thể nghe được cả tiếng lắc rắc, giống như các nghệ sĩ đàn dương cầm chuẩn bị trình diễn.

“Đã bao giờ các bạn thấy những gì Paris làm để chào đón thiên niên kỷ này chưa?”

“Thiên niên kỷ này?”

Cặp sinh đôi ngây người nhìn ông ta.

“Thiên niên kỷ này. Năm 2000. Dù rằng lễ mừng thiên niên kỷ này lẽ ra nên được tổ chức vào năm 2001,”

ông ta nói thêm.

“Ồ, cái thiên niên kỷ đó hả,”

Sophie nói. Cô nhìn em trai, bối rối.

“Mà thiên niên kỷ thì có liên quan gì tới chuyện này cơ chứ

“Ba mẹ đã đưa tụi mình đến Quảng trường Thời đại,”

Josh nói.

“Mà sao?”

“Vậy thì các bạn đã bỏ lỡ một thứ thật ngoạn mục ở đây ngay tại Paris này. Lần sau online, nhớ tìm xem những bức ảnh.”

Saint-Germain chà xát mạnh hai cánh tay và rồi, đứng bên dưới tháp kim loại khổng lồ, ông ta giơ cao hai bàn tay và thình lình mùi hương lá cháy tràn ngập không khí.

Cả Josh và Sophie nhìn chăm chú vào những hình xăm con bướm bung ra, run rẩy và nhịp cánh trên hai cánh tay Saint-Germain. Những đôi cánh mỏng manh như tơ rung động và ù ù ngân lên, những cái râu giật giật… và rồi những hình xăm nhấc mình lên khỏi da thịt của người đàn ông.

Một dòng vô tận những con bướm tí xíu màu đỏ màu trắng tách ra khỏi làn da xanh xao của Saint-Germain và cuộn xoắn lại bay vào bầu không khí mát lạnh của Paris. Chúng đánh vòng lên phía trên, xoay tròn đi khỏi người đàn ông nhỏ nhắn, thành một hình xoắn ốc gồm những chấm nhỏ màu đỏ sẫm và xám tro kéo dài dường như vô tận. Những con bươm bướm cuộn quanh thanh giằng và xà dọc, đinh tán và bu lông của cái tháp kim loại, bao phủ nó trong một lớp vỏ lung linh, óng ánh ngũ sắc.

“Ma trơi,”

Saint-Germain thầm thì, quay ngoắt lại và vỗ tay.

Và ngọn Tháp nổ tung thành một dòng suối ánh sáng nổ lắc rắc, phát ra những tia lửa.

Ông ta c1;i lớn vẻ hài lòng vì nét mặt của cặp sinh đôi và nói,

“Biết tôi chưa: tôi là le Comte de Saint-Germain. Tôi là Bậc Thầy của lửa!”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx