sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Pháp sư - Bí mật của Nicholas Flamel bất tử - Chương 22

CHƯƠNG 22

Nicholas Flamel đang ngồi ở một đầu của chiếc bàn bếp, hai tay ông ủ quanh một chén súp bốc khói. Trước mặt ông là một chai Perrier, một ly cao và một dĩa chất đầy bánh mì khô cắt dày và phô mai. Ông nhìn lên, gật đầu và mỉm cười với Josh và Saint-Germain đang theo sau Scathach vào phòng.

Sophie đang ngồi phía bên kia bàn, đối diện với Joan Arc, và Josh nhanh nhẹn chuồi vào ngồi cạnh chị gái mình trong khi Saint-Germain đang lấy chỗ bên cạnh vợ ông. Chỉ có Scathach còn đứng, dựa vào chậu rửa phía sau Nhà Giả kim, nhìn chăm chú ra ngoài và hướng tầm mắt vào bóng đêm. Josh để ý cô vẫn đeo cái băng đô mà cô cắt ra từ chiếc áo thun đen rộng rinh của Flamel.

Josh chuyển sự chú ý qua Nhà Giả kim. Người đàn ông này trông mệt lử và già hẳn, dường như có một lớp bụi màu bạc trên mái tóc cắt sát của ông mà trước đây không hề thấy. Da ông xanh xao một cách tồi tệ, làm nỗi bật những vòng đen thâm dưới mắt ông cùng với những đường hằn sâu trên trán. Áo quần ông nhàu nát và loang lỗ ướt mưa, và có một vệt bùn dài trên ống tay của chiếc áo khoác ông treo sau lưng ghế gỗ. Những giọt nước lấp lánh trên lớp da mòn vẹt.

Không ai nói gì khi nhà giả kim húp hết chén súp và bẻ một khoanh phô mai với bánh mì. Ông nhai từ từ và cẩn thận, rồi rót nước từ trong cái chai màu xanh ve vào ly và uống từng ngụm nhỏ. Khi xong, ông lau miệng bằng khăn ăn và tự cho phép mình thở ra khoan khoái.

“Cám ơn.”

Ông gật đầu với Joan.

“Thật ngon.”

“Củ đầy thức ăn, Nicholas,”

cô nói, đôi mắt xám mở ra đầy quan tâm.

“Thật ra ông nên dùng thêm một ít súp, bánh mì và phô mai.”

“Đủ rồi,”

ông nói dịu dàng.

“Ngay lúc này tôi cần nghỉ ngơi, và tôi không muốn đưa vào dạ dày nhiều thức ăn quá. Chúng ta sẽ có một bữa điểm tâm lớn vào sáng mai. Thậm chí tôi sẽ tự nấu nữa kia.”

“Con không biết thầy có thể nấu ăn,”

Saint-Germain nói.

“Ông ấy nấu được đó,”

Scathach thì thầm.

“Cháu nghĩ chú ăn phô mai vào lúc khuya quá chú sẽ bị ác mộng đó,”

Josh nói. Cậu liếc nhìn chiếc đồng hồ trên tay.

“Gần một giờ sáng rồi ạ.”

“Ồ, chú không cần phô mai mới thấy ác mộng. chú thấy chúng bằng xương bằng thịt nữa kìa.”

Nicholas mỉm cười, dù không có một chút gì hài hước trong câu nói đó.

“Chúng thật đáng sợ.”

ông nhìn từ Josh sang Sophie.

“Tụi cháu thấy an toàn và khỏe chứ?”

Cặp sinh đôi liếc nhìn nhau rồi gật đầu.

“V nghỉ ngơi chưa?”

“Hai đứa tụi cháu ngủ cả ngày và gần hết đêm,”

Josh nói

“Tốt,”

Flamel gật.

“Bọn cháu cần có lại tất cả sức mạnh của mình. Và chú thích những bộ quần áo này.”

Trong khi Josh quần áo giống Saint-Germain thì Sophie lại mặc áo cotton và quần jeans xanh lơ với lai bật lên để lộ ra đôi giày bốt cao ngang mắt cá chân.

“Joan cho cháu đó,”

Sophie giải thích.

“Gần như vừa y,”

cô gái lớn tuổi hơn nói.

“Chúng ta sẽ lục qua tủ quần áo, lấy cho em mấy cái để thay cho phần còn lại của cuộc hành trình.

Sophie mỉm cười tỏ ý cảm ơn.

Nicholas quay sang Saint-Germain.

“Pháo hoa trên tháp Eiffel sáng hôm qua: đầy sáng tạo, thật đầy sáng tạo.”

Ông bá tước cúi mình.

“Cám ơn, thưa thầy,”

ông nói trông vô cùng vừa lòng với chính mình.

Tiếng cười của Joan hạ thấp xuống thành tiếng rừ rừ.

“Anh ấy để tìm một cái cớ để làm thứ đó giống vậy cả mấy tháng rồi. Chắc ông chưa thấy màn trình diễn anh ấy diễn ở Hawaii hồi chúng tôi làm đám cưới. Chúng tôi chờ mặt ti lặn hẳn; rồi Francis thắp sáng cả bầu trời trong gần một tiếng đồng hồ. Thật là quá đẹp, dù nỗ lực đó làm anh ấy kiệt sức cả tuần,”

cô ấy nói thêm và cười toe.

Hai đốm lửa màu hồng ửng lên trên gò má ông bá tước và ông đưa tay siết tay vợ.

“Xứng đáng để được nhìn thấy nét mặt em như thế này.”

“Anh chưa điều khiển được lửa trong lần cuối mình gặp nhau,”

Nicholas chậm rãi nói.

“Nếu tôi nhớ không lầm, anh có một chút khả năng với việc này, nhưng không có gì giống năng lượng mà anh biểu diễn hôm qua. Ai đào tạo anh vậy?”

“Con mất khá lâu ở Ấn Độ, trong thành phố Ophir đã bị mất tích,”

ông bá tước đáp lại, liếc nhanh Nhà Giả kim.

“Ở đó họ vẫn còn nhớ thầy. Thầy có biết họ đã dựng một bức tượng cho thầy và Perenelle ở quảng trường trung tâm chưa?”

“Chưa. Tôi đã hứa với Perenelle là sẽ đưa cô ấy trở lại nơi ấy một ngày nào đó,”

Nicholas nói đầy vẻ khao khát.

“Nhưng ở đó có cái gì mang lại trình độ tinh thông về lửa cho anh như vậy?”

“Con gặp một người ở đó… một người huấn luyện cho con,”

Saint-Germain nói một cách bí ẩn.

“Chỉ cách dùng tất cả những kiến thức bí mật mà con đã góp nhặt từ Prometheus..”

“Đã đánh cắp được chứ,”

Scathach chỉnh lại.

“Đúng, đầu tiên là đánh cắp nó,”

Saint-Germain đốp chát.

Bàn tay Flamel đánh xuống bàn với một lực đủ mạnh để làm rung chai nước, chỉ có Scathach là không giật mình.

“Đủ rồi!”

ông gầm lên, và trong chốc lát, mọi chỗ bằng phẳng hay gốc cạnh trên gương mặt ông đều biến đổi, xương gò má ông chợt nhô lên,  làm liên tưởng đến một cái đầu lâu bên dưới lớp da thịt. Đôi mắt gần như không màu của ông trông tối om, hóa xám rồi nâu và cuối cùng là đên tuyền. Tựa cùi chỏ lên bàn, ông lấy cả hai lòng bàn tay xoa lên mặt và hít mộ hơi thở rung lên. Thoang thoảng mùi bạc hà trong không trung, nhưng lẫn một chút mùi chua chua.

“Xin lỗi. Điều đó thật không thể khoan thứ. Tôi không nên cao giọng,”

ông nói êm ả cùng một khoảng yên lặng kinh khủng theo sau. Khi ông lấy tay ra khỏi mặt, môi ông nhếch lên thành nụ cười không hợp với đôi mắt ông. Ông lần lượt nhìn từng người, tia nhìn chòng chọc nán lại trên khuôn mặt sững sờ của cặp sinh đôi.

“Hãy tha thứ cho chú. Lúc này chú mệt quá, quá mệt mỏi rồi; chú có thể ngủ một tuần lễ liền. Tiếp tục đi, Francis, nào. Ai huấn luyện cho anh?”

Comte de Saint-Germain lấy hơi.

“Ông ấy bảo con.. ông ấy nói rằng con được nói ra tên ông ấy,”

ông vội vã kết thúc.

Flamel chống cùi chỏ lên bàn, đan những ngón tay vào nhau và tựa cằm ông lên hai nắm tay đã đan lại. ông nhìn nhà soạn nhạc, nét mặt ông dửng dung.

“Đó là ai?”

Ông gặng hỏi một cách kiên quyết.

“Con đã hứa với ông ấy rồi,”

Saint-Germain nói một cách khổ sở.

“Đó là một trong những điều kiện ông ấy đặt ra khi huấn luyện con. Ông ấy nói có một quyền lực ẩn trong từ ngữ và một số cái tên nào đó sẽ tạo ra những rung động cho cả thế giới này lẫn các Vương quốc Bóng tối và thu hút sự chú ý không mong đợi.”

Scathach bước tới và đặt ty nhẹ lên vai Nhà Giả kim.

“Nicholas, ông biết đó là sự thật. Có những từ nào đó mà không bao giờ nên nói ra, có những cái tên không bao giờ được nhắc đến. Những chuyện xưa cũ. Những chuyện không bao giờ bỏ được.”

Nicholas gật đầu.

“Nếu anh đã hứa với người đó, thì anh không nên quay trở lại chuyện này nữa, tất nhiên. Nhưng nói cho tôi biết”

—ông dừng một chút, không nhìn vào ông bá tước—”

người bí ẩn này, ông ta có mấy tay?”

Saint-Germain bất chợt ngồi phịch xuống, và vẻ mặt kinh hoàng hiện lên trên gương mặt ông đã tiết lộ sự thật.

“Làm sao thầy biết?”

ông thều thà

Miệng nhà giả kim vặn vẹo một vẽ nhăn nhó kỳ cục.

“Ở Tây Ban Nha, sáu trăm năm trước, tôi đã gặp một người đàn ông có một tay đã dạy tôi những bí mật của cuốn Codex. Ông ấy cũng từ chối xưng tên mình ra.”

Flamel chợt nhìn vào Sophie, đôi mắt mở lớn và nhìn trừng trừng.

“Cháu mang trong mình kí ức của bà phù thủy. Nếu bây giờ có một cái tên hiện đến với cháu—sẽ tốt hơn cho tất cả mọi người ở đây nếu cháu không nói cái tên đó ra.”

Sophie ngậm miệng lại đến nỗi cắn vào bên trong môi. Cô đã biết cái tên người đàn ông mà Flamel và Saint-Germain đang nhắc đến. Cô cũng đã biết rõ ông ấy là ai—và là cái gì. Và suýt chút nữa cô đã nói cái tên đó.

Flamel quay lại Saint-Germain.

“Anh biết rằng năng lực của Sophie đã được đánh thức. Bà phù thủy đã dạy con bé những căn bản của Pháp thuật Không khí, và tôi quyết tâm rằng cả hai đứa phải được đào tạo những pháp thuật cơ bản càng nhanh càng tốt. Tôi biết ở đâu có các bậc thầy về pháp thuật Đất và Nước. Chỉ mới hôm qua, tôi mới nghĩ chúng ta phải đi tìm một trong những Elder liên kết với lửa, Maui hay Vulcan hoặc ngay cả nữ thần báo ứng cũ của anh và bản thân ông Prometheus. Bây giờ tôi hi vọng điều đó không còn cần thiết nữa.”

Ông dừng một chút để thở.

“Anh có nghĩ anh có thể dạy cho Sophie pháp thuật Lửa không?”

Saint-Germain chớp mắt ngạc nhiên. Ông ta khoanh hai tay trước ngực và đứa con gái sang nhà giả kim và bắt đầu lắc đầu.

“Con không chắc là con có thể. Thậm chí không biết con có nên…”

Joan giơ tay ra và đặt bàn tay phải của mình lên lưng cánh tay chồng. Ông ta quay lại nhìn cô và cô gật đầu, gần như không thể nhìn thấy. Đôi môi cô không hề cử động, song mọi nghe cô nói rất rõ,

“Francis, anh phải làm việc này.”

Ông bá tước không chần chừ.

“Anh sẽ làm… nhưng như vậy có khôn ngoan không?”

ông ta hỏi, nghiêm túc.

“Cần thiết,”

cô nói giản dị.

“Sẽ có nhiều thứ cô ấy phải nắm được…”

Ông cúi người về Sophie.

“Tha thứ cho tôi. Tôi không có ý nói về cô như thể cô không có mặt ở đây.”

Ông ta nhìn lại Nicholas và nói thêm một cách nghi ngờ,

“Sophie vẫn còn phải xử lí kí ức của bà phù thủy.”

“Hết rồi. Em đã lo chuyện đó.”

Joan siết chặt cánh tay chồng. Cô quay đầu nhìn từng người quanh bàn cuối cùng dừng lại nơi Sophie.

“Trong khi Sophie ngủ, tôi đã nói với cô ấy, giúp cô ấy sắp xếp lại kí ức, phân loại chúng, chia tách tư tưởng riêng của cô khỏi tư tưởng riêng của bà phù thủy. Tôi nghĩ từ nay chúng sẽ không gây rắc rối nhiều cho cô nữa.”

Sophie bàng hoàng.

“Chị vào trong đầu em khi em đang ngủ?”

Joan nhè nhẹ lắc đầu.

“Tôi không xâm nhập vào trí em… Chỉ đơn giản là tôi nói chuyện với em, hướng dẫn em làm cái gì và làm như thế nào thôi.”

“Tôi nhìn thấy chị nói chuyện…”

Josh cất lời, và rồi cau mày.

“Nhưng Sophie có vẽ như đang ngủ. Chị ấy không thể nghe chị.”

“Cô ấy có nghe tôi đó,”

Joan nói. Cô ta nhìn thẳng vào Sophie và đặt tay trái mình bệt xuống bàn. Một màn sương bạc mờ nổ lốp bốp trên những ngón tay cô, những vệt sáng lốm đốm nhỏ xíu nhảy múa trên da thịt cô nhảy vụt ra, như những giọt thủy ngân, băng ngang qua mặt bàn tiến về phía đôi bàn tay cô gái đang đặt trên mặt gỗ đánh vec-ni. Khi chúng đến gần, những ngón ta của Sophie sáng rực một lớp bạc ngầm, và rồi bất thình lình, những điểm sáng bao quanh ngón ta cô.

“Em có thể làm chị em sinh đôi với Josh, nhưng chúng ta là chị em, em và tôi. Chúng ta là Bạc. Tôi biết cảm giác thế nào khi nghe giọng nói ở trong đầu mình; tôi biết cảm giác thế nào khi tháy những điều không nên thấy, biết được những gì không nên biết.”

Đầu tiên Joan nhìn vào Josh và rồi đến Nhà Giả kim.

“Trong khi Sophie ngủ, tôi nói trực tiếp với tiềm thức của cô ấy. Tôi dạy cô ấy làm thế nào để kiểm soát đượ ký ức của bà phù thủy, làm thế nào bỏ qua những tiếng nói, đóng lại các hình ảnh. Tôi dạy cô ấy bảo vệ chính mình.”

Sophie ngẩng đầu lên, đôi mắt mở lớn đầy ngạc nhiên.

“Khác nhau biết chừng nào!”

cô nói, cả bang hoàng lẫn kinh ngạc.

“Em không còn nghe những tiếng nói nữa.”

Cô nhìn cậu em trai sinh đôi của mình.

“Chúng bắt đầu khi bà phù thủy rót kiến thức vào chị. Có đến hàng ngàn tiếng la hét, rù rì bằng những ngôn ngữ gần như chị không hiểu gì hết. Bây giờ là sự yên tĩnh.”

“Chúng vẫn còn đó,”

Joan giải thích.

“Chúng sẽ luôn luôn ở đó. Nhưng từ bây giờ em có thể gợi lại chúng khi em cần, để sử dụng những kiến thức đó. Tôi cũng bắt đầu qua trình dạy em làm sao kiểm soát được luồng điện của mình.”

“Nhưng làm sao chị có thể dạy trong lúc chị ấy ngủ?”

Josh nhấn mạnh. Thậm chí cậu thấy ý tưởng này lộn xộn không thể tin được.

“Chỉ có ý thức ngủ thôi—còn tiềm thức luôn luôn thức.”

“Ý chị là sao, kiểm soát luồng điện của em?”

Sophie bối rối hỏi.

“Em nghĩ nó chỉ là điện trường ánh bạc bao quanh người mình thôi.

Joan nhún vai, một cử động tinh tế của đôi vai cô.

“Luồng điện của em là năng lượng giống trí tưởng tượng của em. Em có thể định dạng nó, pha trộn nó, tạo hình nó theo ý em.”

Cô buông bàn tay trái ra.

“Đó là cách tôi làm nó.”

Một chiếc găng tay kim loại từ bộ giáp kêu lách cách thành một thực thể tồn tại bao quanh da thịt cô. Mỗi cái đinh tán được hình thành một cách hoàn hảo, và lưng những ngón tay còn lấm tấm bụi.

“Thử đi,”

cô ta đề nghị.

Sophie mở bàn tay ra và nhìn vào nó một cách cứng cỏi.

“Hãy hình dung ra chiếc găng tay,”

Joan gợi ý.

“Hãy nhìn thấy nó trong trí tưởng tượng của em.”

Một cái đê bằng bạc nhỏ xíu xuất hiện trên ngón tay út của cô, rồi nhấp nháy tan biến mất.

“Nào, tập lại một chút nữa, có thể được đó,”

Joan thừa nhận. Cô liếc xéo Saint-Germain và rồi nhìn thẳng vào nhà giả kim.

“Hãy để tôi làm việc với Sophie một hai giờ, dạy con bé một chút về việc kiểm soát và định hình luồng điện của nó, trước khi Francis bắt đầu dạy nó Pháp thuật Lửa.”

“Pháp thuật Lửa này. Nó có nguy hiểm không ạ?”

Josh vừa hỏi gặng, vừa nhìn khắp phòng. Cậu vẫn còn nhớ như in nhũng gì đã xảy ra với chị gái cậu khi Hekate đánh thức cô—cô như là chết rồi. Và còn hơn vậy nữa khi cô học với bà phù thủy Endor, cậu nhận ra rằng Sophie cũng gần như chết khi học phép thuật Không Khí. Khi không ai trả lời, cậu quay sang Saint-Germain.

“Có nguy hiểm không ạ?”

“Có,”

nhà soạn nhạc trả lời đơn giản.

“Rất nguy hiểm.”

Josh lắc đầu.

“Vậy thì tôi không muốn—”

Sophie đưa tay siết cánh tay cậu em trai. Cậu nhìn xuống: bàn tay cầm chặt cánh tay cậu được bọc trong một chiếc găng tay làm bằng vòng kim loại xâu vào nhau.

“Josh, chị phải học.”

“Không, chị không được.”

“Chị sẽ học.”

Josh nhìn vào khuôn mặt chị gái. Nó mang một chiếc mặt nạ ngu ngốc mà cậu biết qua rõ. Cuối cùng, cậu quay đi, không nói gì. Cậu không muốn chị cậu học thêm bất cứ phép thuật gì nữa—không chỉ nguy hiểm… mà nó cũng làm khoảng cách giữa chị ấy ngày càng xa cậu hơn nữa.

Joan quay sang Flamel.

“Và bây giờ, Nicholas, ông phải đi nghỉ thôi.”

Nhà Giả kim gật đầu.

“Tôi sẽ đi đây.”

“Chúng tôi mong ông trở lại sau một thời gian dài,”

Scathach nói.

“tôi đang nghĩ tôi phải ra ngoài tìm ông.”

“Cánh bướm dẫn tôi đến đây mấy tiếng trước,”

Nicholas mệt mỏi nói, tiếng nói bị nghẹn lại vì kiệt sức.

“Một khi tôi biết các bạn ở đâu rồi, tôi muốn chờ cho đến khi màn đêm buông xuống mới lại gần ngôi nhà, phòng khi nó bị giám sát kỹ.”

“Machiavelli còn không biết ngôi nhà này còn tồn tại.”

Saint-Germain nói một cách tự tin.

“Perenelle đã dạy tôi một câu thần chú tang hình lâu lắm rồi, nhưng nó chỉ hoạt động được trong mưa thôi—nó dùng những hạt nước mưa để khúc xạ ánh sáng quanh người sử dụng,”

Flamel giải thích.

“Tôi quyết định chờ đến khi sẫm tối để tang cơ hội giữ cho tôi cơ hội không bị trông thấy.’

“Chú đã làm gì cả ngày nay ạ?”

Sophie hỏi

“Chú đi lang thang quanh thành phố, tìm kiếm một vài nơi ngày xưa chú thường lui tới.”

“Chắc hầu hết là không còn?”

“Hầu hết thôi, không phải là tất cả.”

Flamel cúi xuống nhấc lên một vật gói trong một tờ giấy báo đang nằm trên sàn nhà. Nó phát ra một tiếng mạnh và cứng khi ông thả nó trên bàn.

“Căn nhà ở Montmorency vẫn còn ở đó.”

“Đáng lẽ tôi nên đoán ra là ông đến thăm Montmorency,”

Scathach nói với một nụ cười buồn. Cô nhìn cặp sinh đôi và giải thích,

“Đó là căn nhà mà Nicholas và Perenelle đã sống hồi thế kỉ mười lăm. Họ đã có những thời gian hạnh phúc ở đó.”

“Rất hạnh phúc,”

Flamel đồng ý.

“Và nó vẫn còn ở đó?”

Sophie hỏi, kinh ngạc.

“Một trong những căn nhà cổ nhất ở Paris,”

Flamel tự hào nói.

“Rồi thầy làm gì khác nữa ạ?”

Saint-Germain hỏi.

Nicholas nhún vai.

“Tham quan bảo tàng de Cluny. Không phải ngày nào bạn cũng có thể xem mộ của chính mình. Tôi thấy thật an ủi khi biết rằng người ta vẫn còn nhớ tôi—tôi thật kia.”

Joan mỉm cười.

“Có một con đường được đặt tên ông, Nicholas: đường Flamel. Và một con đường cũng được đặt tên để tỏ lòng trọng với Perenelle. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, tôi không nghĩ đó là lý do thật sự khiến ông đi thăm viện bảo tàng, phải không nào?”

Nhà Giả kim mỉm cười.

“Đúng, không phải chỉ lý do đó,”

ông thừa nhận. Ông thò tay vào túi áo khoác và kéo một cái ống hình trụ hẹp. Mọi người quanh bàn đều chồm tới. Ngay cả Scatty cũng bước vào để nhìn. Vặn mở hai đầu, Flamel lấy ra và cuộn mở ra một khúc giấy da nén kêu sột soạt.

“Gần sáu trăm năm trước, tôi đã giấu vật này trong ngôi mộ của tôi, thoáng nghĩ rằng không biết đến bao giờ tôi mới cần dùng đến nó.”

Ông trải tấm da nén vàng dày cộp lên bàn. Được vẽ bằng mực đỏ đã phai thành màu gỉ sét là một hình bầu dục với một vòng tròn bên trong nó, bao quanh bởi ba đường hình thành nên một tam giác thô ráp.

Josh cúi người.

“Trước đây cháu đã từng thấy cái gì giống vậy.”

Cậu cau mày.

“Không có cái gì giống vậy trên tờ đô la sao?”

“Nó giống cái gì cũng mặc,”

Flamel nói.

“Nó được vẽ theo cách này để che giấu ý nghĩa thật của nó.”

“Cái gì vậy?”

josh hỏi.

“Đó là tấm bả”

Sophie nói đột ngột.

“Đúng, tấm bản đồ,”

Nicholas đồng ý.

“Nhưng sao cháu biết? Bà phù thủy chưa thấy cái này bao giờ…”

“Không, không có gì liên quan tới bà phù thủy trong chuyện này cả,”

Sophie mỉm cười. Cô chồm người qua bàn, đầu cô chạm nhẹ vào đầu em trai. Cô chỉ tay vào gốc bên cùng bên phải của tấm da nén, nơi có một hình chữ thập nhỏ xíu gần như không thể nhìn thấy được khắc bằng mực đỏ.

“Cái này rõ ràng trong giống chữ B,”

cô vừa nói, vừa chỉ tay vào đỉnh chữ thập,

“và cái này là một chữ N.”

“Bắc và nam.”

Josh gật đầu đồng ý ngay.

“Thiên tài, Soph!”

Cậu nhìn Nicholas,

“Đây là tấm bản đồ.”

Nhà giả kim gật đầu.

“Giỏi lắm. Đây là tấm bản đồ chỉ tất cả những cổng tuyến ở Châu Âu. Các thị trấn và thành phố, những đường biên giới thậm chí thay đổi không còn nhận ra nữa, nhưng những đường tuyến vẫn giữ nguyên xi.”

Ông giơ tấm da hình vuông lên.

“Đây là hộ chiếu của chúng ta để rời khỏi châu Âu trở về Mỹ.”

“Hi vọng chúng ta có cơ hội dùng đến nó,”

Scatty nói làu bàu.

Josh chạm vào cạnh của bó gì đó gói trong giấy báo nằm giữa bàn.

“Còn đây là cái gì ạ?”

Nicholas cuộn tấm da nén cho lại vào ống và đút gọn vào túi áo khoác của mình. Rồi ông bắt đầu mở từng lớp báo ra khỏi cái vật để trên bàn.

“Tôi và Perenelle đã ở Tây Ban Nha hồi gần cuối thế kỷ mười bốn, lúc người đàn ông một tay tiết lộ bí mật thứ nhất của cuốn Codex,”

ông nói, không nhắm riêng vào một người nào, giọng Pháp của ông nghe rõ hẳn.

“Bí mật thứ nhất?”

Josh hỏi.

“Cháu đã nhìn thấy cuốn sách rồi đó—nó biến đổi… nhưng biến đổi theo một chuỗi toán nghiêm ngặt. Không phải ngẫu nhiên. Những biến đổi này nối kết với các chuyển động của các vì sao và hành tinh, những gian đoạn của mặt trăng.”

“Như một cuốn lịch vậy?”

Josh nói.

Flamel gật đầu.

“Đúng là như một cuốn lịch. Chúng tôi đã từng học về chuỗi mã này, nên biết được rằng cuối cùng mình có thể trở lại Paris. Chúng tôi mất cả đời—cả mấy đời ấy chứ—để diễn dịch cuốn sách, nhưng ít ra chúng tôi phải biết bắt đầu từ đâu. Vì vậy tôi biến vài viên đá thành kim cương, và biến vát đá phiến sét phẳng phiu thành vàng, và rồi chúng tôi gom vốn liếng bắt đầu tiến hành cuộc hành trình dài trở về Paris. Từ lúc đó, tất nhiên, chúng tôi rơi vào sự chú ý của các Elder Đen tối, và Bacon, tên tiền bối đáng kim tởm của Dee, cứ áp sát dần. Thay vì đi thẳng vào nước Pháp, chúng tôi đành chọn con đường vắng vẻ và tránh những ngọn đèo xuyên qua núi, nơi chúng tôi biết là thường dễ bị quan sát. Tuy nhiên, năm đó mùa đông đến sớm—tôi ngờ rằng các Elder Đen tối đã làm cái gì đó—và chúng tôi thấy mình bị cùng đường ở Andorra. Và đó là nơi tôi tìm thấy cái này…”

ông chạm vào vật nằm trên bàn.

Josh nhìn chị gái cậu, chân mày nhướng lên thay một câu hỏi thầm. Andorra? Cậu nói to lên; cô giỏi môn địa lý hơn cậu.

“Một trong những quốc gia nhỏ nhất thế giới,”

cô thì thào giải thích,

“ở trong rặng Pyrenees và nằm giữa Tây Ban Nha và Pháp.”

Flamel mở thêm một lớp giấy báo ra.

“Trước khi tôi ‘chết’, tôi giấu vật này bên trong phiến đá trên rầm đỡ cửa sổ của ngôi nhà trên đường de Montmorency. Tôi không bao giờ nghĩ tôi lại cần đến nó.”

“Bên trong?”

Josh hỏi, đầy bối rối.

“Chú vừa nói là chú giấu nó bên trong?”

“Bên trong. Chú đã biến đổi cấu trúc phân tử của đá granite, nhét vật này vào trong tảng đá rồi biến nó lại thành thanh dầm đỡ cứng y như tình trạng nguyên thủy. Một sự chuyển hóa: như nhấn quả hạnh đào vào cây kem vậy.”

Tờ báo trong cũng bị rách toạc khi ông kéo vật đó ra.

“Đó là thanh kiếm,”

Josh vừa sợ hãi lào thào, vừa nhìn vào thứ vũ khí nhỏ hẹp lẩn khuất trên chiếc bàn phủ đầy giấy báo. Cậu phỏng chừng nó dài khoảng năm sáu tấc, phần chuôi kiếm hình chữ thập đơn giản bọc trong những mảnh da sẫm màu đã hoen ố.

“Một cây kiếm đá,”

cậu cau mày thốt lên. Nó nhắc cậu nhớ đến một thứ—hầu như cậu đã từng thấy nó trước đây rồi.

Nhưng thậm chí khi cậu còn đang nói, Joan và Saint-Germain đã lui ra khỏi bàn, chiếc ghế của cô đổ nhào khi cô lật đật tránh xa lưỡi kiếm. Sau lưng Flamel, Scathach rít lên như con mèo, hàm răng ma cà rồng lộ ra khi cô há hốc miệng, và khi cô nói, tiếng run run, giọng khản đặc và man rợ. Âm thanh cô phát ra gần như giận giữ hay đúng hơn là… sợ hãi.

“Nicholas,”

cô nói rất chậm,

“ông định làm gì với cái thứ đồ bất nhân này?”

Nhà Giả kim không đã động gì đến cô. Ông nhìn Josh và Sophie, vẫn đang ngồi yên nơi bàn, bàng hoàng không nhúc nhích gì trước phản ứng của như những người khác, hai đứa không rõ chuyện gì đang xảy ra.

“Có bốn thanh kiếm năng lượng,”

Flamel nói vội,

“mỗi cái kết nối với một trong các yếu tố: Đất, Không kh, Lửa và Nước. Người ta nói chúng xuất hiện trước cả các giống loài Elder cổ xưa nhất. Những thanh kiếm này qua nhiều thời đại đã mang nhiều cái tên: Excalibur và Joyeuse, Mistelteinn và Curtana, Durendal và Tyrfing. Lần cuối cùng người ta sử dụng một thanh kiếm làm vũ khí trong thế giới loài người khi Charlemagne, Hoàng đế La Mã Thần thánh, mang thanh Joyeuse vào chiến trận.”

“Đây là thanh kiếm Joyeuse?”

Josh thì thầm. Chị gái cậu giỏi về địa lý, nhưng cậu biết nhiều về lịch sử, và Charlemagne luôn mê hoặc cậu.

Tiếng cười lớn của Scathach như một tiếng gầm đầy cay đắng.

“Joyeuse có nghĩa là một vật xinh đẹp. Còn cái này….cái này là một thứ đáng ghê tởm.”

Flamel cầm chuôi kiếm và những tinh thể pha lê tí xíu trong đá lấp lánh dưới ánh đèn màu xanh lá.

“Đây không phải là thanh kiếm Joyeuse, dù sự thật có lần nó thuộc về Charlemagne. Tôi cũng tin rằng bản than hoàng đế đã giấu lưỡi kiếm này ở Andorra vào một lúc nào đó trong thế kỷ thứ chin.”

“Nó cũng giống như thanh Excalibur,”

Josh nói, chợt nhận ra tại sao thanh kiếm đá này lại trong quen đến dữ vậy. Cậu nhìn chị gái.

“Dee và Excalibur; hắn đã dùng nó để phá hủy cả thế giới.”

“Excalibur là Thanh kiếm Băng Hà,”

Flamel nói tiếp.

“Còn đây là lưỡi kiếm song sinh của nó: Clarent, Thanh kiếm Hỏa Công. Vũ khí duy nhất có thể chống lại Excalibur.”

“Nó là lưỡi kiếm đáng nguyền rủa,”

Scathach nói dứt khoát.

“Tôi sẽ không chạm vào nó.”

“Tôi cũng không,”

Joan nói ngay, và Saint-Germain gật tán thành.

“Tôi không yêu cầu ai trong các vị mang nó hay sử dụng nó,”

Nicholas đốp chát. Ông xoay vũ khí trên bàn cho tới khi chuôi kiếm vào những ngón tay của cậu con trai và ông nhìn lần lượt từng người một.

“Chúng ta biết Dee và Machiavelli đang đến gần. Josh là người duy nhất trong chúng ta không có khả năng tự vệ. Từ nay cho tới khi năng lượng của cậu ấy được đánh thức, cậu ấy cần có một thứ vũ khí. Tôi muốn cậu ấy giữ thanh Clarent.”

“Nicholas,”

Scathach kinh hoảng la lên.

“Ông đang nghĩ gì vậy. Cậu ấy là một con người chưa hề qua huấn luyện—”

“—với một luồng điện vàng thuần khiết,”

Flamel lạnh lùng nói.

“Và tôi kiên quyết giữ cậu ấy an toàn.”

Ông đẩy thanh kiếm vào những ngón tay Josh.

“Cái này của cháu. Cầm lấy đi.”

Josh chồm tới trước và cảm thấy hai trang giấy của cuốn Codex nằm trong cái túi vải cưng cứng chạm vào da mình. Đây là món quà thứ hai mà nhà giả kim tặng cậu sau ngần ấy ngày. Về phần mình, cậu muốn thừa nhận những món quà theo giá trị bề ngoài của chúng—để tin cậy ông ấy và tin tưởng rằng đổi lại Flamel cũng yêu thích cậu và tin cậy cậu. Song, song… ngay cả cuộc nói chuyện giữa họ trên đường, đâu đó sâu tận trong tâm trí cậu, Josh không thể nào quên những gì Dee đã nói bên đài phun nước ở Ojai: một nửa những gì mà Flamel nói là dối trá, và nửa còn lại cũng không hoàn toàn là sự thật. Cậu cố tình quay đi khỏi thanh kiếm và nhìn vào đôi mắt nhạt màu của Flamel. Nhà Giả kim đang nhìn cậu chằm chằm, khuôn mặt ông như chiếc mặt nạ ngây ra. Vậy thì Nhà giả kim đang tính làm gì? Josh tự hỏi. Ông đang chơi trò gì? Nhiều lời của Dee bật lên trên đầu cậu hơn nữa:

“Giờ đây thì ông ta, như ông ta luôn là, một kẻ nói dối, một tay lòe bịp, và một tên lừa đảo.”

“Cậu không muốn nó sao?”

Nicholas hỏi.

“Cầm lấy đi”

Ông đẩy chuôi kiếm vào rãnh tay cháu.

Hầu như chống lại ý muốn của cậu, những ngón tay Josh  khép lại trên cái bọc da mướt rượt của thanh kiếm đá. Cậu nhấc nó lên—dù nó ngắn, nhưng có sức nặng đáng kinh ngạc—và quay nó trên đôi tay mình.

“Cháu chưa bao giờ điều khiển kiếm trong dời,”

cậu nói.

“Cháu không biết cách…”

“Scathach sẽ chỉ cháu vài điều căn bản,”

Flamel nói mà không ng tối, nhưng chuyển câu đơn giản này thành một mệnh lệnh.

“Làm sao để mang nó, đâm thọc và gạt đỡ. Tập thử và tránh để nó đâm vào người,”

ông nói thêm.

Josh nhận ra rằng cậu đang cười tơ và cố xóa đi nụ cười đó, nhưng thật khó: thanh kiếm cảm thấy kinh ngạc khi ở trong tay cậu. Cậu cử động cổ tay và thanh kiếm giật giật. Rồi cậu nhìn Scatty, Francis và Joan và cậu thây mắt họ dán chặt vào thanh kiếm, theo sát từng chuyển động của nó, và nụ cười của cậu nhạt đi.

“Có cái gì đó không ổn ở thanh kiếm ạ?”

cậu gặng hỏi.

“Tại sao mọi người sợ nó đến vậy?”

Sophie đặt tay mình lên cánh tay em trai, đôi mắt cô lấp loáng ánh bạc với kiến thức của bà phù thuỷ.

“Clarent,”

cô nói,

“là một tai họa, một vũ khí bị nguyền rủa, thỉnh thoảng còn bị gọi là lưỡi kiếm hèn nhát. Đây là thanh kiếm Mordred dùng để giết cậu mình, Vua Arthur.”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx