sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Ảo thuật gia - Chương 11 - 12 - 13

CHƯƠNG 11

Dịch: Nguyễn Hà Ly nguyen_ly Làm prc: Vanlydocnhan

Elder một mắt đi qua một thế giới bằng kim loại. Ông biết rằng từng có sự sống ở Vương quốc bóng tối này, nhưng không còn có thể nhận ra gì ở đây nữa.

Cát đen vặn xoắn và hình thành những hoa văn kỳ bí dưới chân ông ta, những cồn cát lung lay và bay về khía trước khi ông đi qua. Những bong bóng thủy ngân nổi lên từ mặt hồ lấp lánh sáng bạc. Khi chúng vỡ ra, những giọt nhỏ bay về phía hình dáng rắn chắc kia. Không có bầu trời, chỉ có mái nhà bằng kim loại trên cao được bao phủ bởi những ánh sáng nhiều màu sắc. Đã từng có một nguồn năng lượng ở trung tâm mái nhà, nhưng đã lâu rồi.

Odin không biết ai tạo ra Vương quốc bóng tối kim loại này. Ông tin bừng đây từng là một thế giới sống động, và ông biết nó phải rất qun trọng – nỗ lực tạo ra nó là không tưởng tượng được, vượt trên quyền năng có hạn của ông. Thế mà nó còn không có nổi một cái tên.

Vị Elder trèo lên một đồi cát đen thấp và quay lưng lại nhìn toàn cảnh. Hàng loạt các đụng cát đen kết thúc ở đường chân trời đỏ. Vẫn có không khí, nhưng không có gió làm bay áo choàng đen xám của ông. Hàng thiên niên kỷ trước, một trong những nô bộc loài người của ông đã giết một con rồng Archon xấu xí và tặng cho ông chiếc áo choàng làm từ da sinh vật đó. Màu tự nhiên của nó là xanh dương, nhưng nó đã đổi màu tùy theo môi trường xung quanh, và theo mức nguy hiểm.

Tấm áo choàng đã trở nên cứng như sắt và nặng đè lên vai ông.

“Ai đó đó?” Odin gọi. Phong cảnh kim loại này khiến giọng ông vang vọng khắp miền cát, đập lên trần và từng ngóc ngánh những hòn đá kim loại. Bàn tay trái của vị Elder cầm chặt cây quyền trượng, thứ còn sót lại của cây Yggdrasill nguyên thủy, đã từng mọc ở trung tâm Danu Talis.

Odin đưa cây quyền trượng lên trước mắt trái. MẮt phải của ông được che bằng một mảnh da đã bạc màu; ông đã đổi nó với Archon Mimer cách đây rất lâu để có được kho kiến thức vô tận, và ông chưa bao giờ ân hận vì quyết định đó. Ngọn lửa đỏ như máu bập bùng ở đầu cây quyền trượng. Bên trong ngọn lửa là những sinh vật còn tồn tại trước khi các Chúa Đất sinh sống, những sinh vật nhó bé của pha lê và xương, của gốm và ki tin.

Odin nhìn ngọn lửa và để cho một chút luồng điện của ông chảy vào cây quyền trượng Yggdrasill. Một luồng khói xám vặn xoắn khỏi cây gậy và không khí sặc mùi dầu của kim loại bị biến mất thay vào đó là sự trong lành của tầng ozone.

Thế giới được định hình, những màu sắc xuất hiện theo – và trong một lúc ngắn ngủi – Odin nhìn thấy Vương quốc Bóng tối đã từng là: một vùng trù phú cỏ cây, nơi những kim loại định hình và được định hình cả vùng đất, tạo nên những kỳ quan đẹp tuyệt vời. Con mắt còn tinh anh của vị Elder hấp háy và hình ảnh nhòe đi và để lộ ra thế giới của ngày này... và sinh vật đang lén theo ông.

Nó trườn đi trên tay và chân. Nó giống hình dạng phụ nữ, lùn và béo lẳn. Mái tóc nhờn dày màu đen bên thành hai bím dày ở hai bên đầu. Khuôn mặt và cánh tay trần có dấu hiệu bệnh, với những đốm đen trắng. Nó ngửng đầu lên và hít không khí như một con thú.

“Ta có thể nhìn thấy ngươi,” Odin nói.

Sinh vật đứng lên, xóa bỏ kết giới xung quanh và tập tách bước về phía vị Elder. Cô ta đã từng rất xinh đẹp nhưng giờ không như thế nữa. Những đường nét trên khuôn mặt giờ giống chó, với hai răng nanh dài ở dưới môi. Đôi mắt thụt lùi hẳn trong xương sọ, từ đó chảy ra một chấy lỏng màu đen có mùi khó chịu trên mặt. Thi thoảng nó thụt thò lưỡi để đánh hơi không khí. Kể từ khi ông biết cô ta, cô ta vẫn ăn mặc như vậy: áo choàng ngắn bằng da xám, hợp với chiếc quần da và đôi bốt cao cổ đế dày.

Odin để ý thấy trong khí cát dưới chân ông hình thành những đường tròn mờ mờ, đất dưới chân cô ta lại có hình tia chớp. Cát dường như có xu hướng tiến về phía ông nhưng lại tránh xa sinh vật kia. “Cô muốn gì?” ông gọi.

Miệng sinh vật cử động, nhưng phải mất một lúc từ ngữ mới được hình thanh, như thể cô ta không biết cách nói. “Tôi muốn cái ông muốn,” cô ta nói lầm bầm. Cô ta lê chân về phía ông và suýt ngã xuống nền cát đen đang chuyển động.

Odin lắc đầu. “Không.”

Sinh vật cố trèo lên trên đụn cát nhưng đầu gối cô ta không thể cong lại khiến cô ta ngã bổ chửng về phía trước. Odin biết rằng cũng một lời nguyền tương tự đã lấy đi sắc đẹp cũng như lấy đi các cơ bắp trên chân, và giờ hầu như chỉ còn da bọc xương, dễ gẫy và hầu như không mang nổi trọng lượng cơ thể cô. Cô ta lại bò chầm chậm và đau đớn lên đồi tiến tới vị Elder. “Tôi muốn cái ông muốn,” cô ta nhắc lại. “Công bằng cho thế giới đã chết của tôi. Trả thu cho những cái đã chết.”

Odin lại lắc đầu. “Không.”

Sinh vật nằm trên cát và ngóc đầu nhìn lên. “Hắn đã hủy hoại vương quốc bóng tối của chúng ta. Hắn đã cố thả Coatlicue,” cô ta nói và thở dốc. “Có những kẻ khác đang săn đuổi hắn ta. Khi Isis và Osiris tuyên án hắn là utlaga, họ đã trao phần thưởng lớn cho ai tóm được hắn. Những Vương quốc bóng tối. Sự bất tử. NHững kho báu và tri thức không thể đong đếm nổi cho người bắt sống hắn.” Sinh vật cố đứng trên chân mình nhưng không được và cô ta lại ngã xuống. “Nhưng ông và tôi không muốn mang hắn ra vòng công lý. Cuộc tranh đấu của chúng ta với người bất tử đó là vấn đề cá nhân. Ông ta đã giết người chúng ta yêu thương... và chúng ta sẽ báo thù.”

Odin thương tiếc sinh vật kia và chìa cây trượng ra. Cô ta tóm lấy nó, những ngón tay móng đen xỉn nắm lấy cây gỗ cổ xưa. Luồng điện của cô ta lóe màu đỏ như máu và trong một nhịp đập Odin đã thấy lại hình ảnh ngày xưa của cô ta: cao, tao nhã, rất xinh đẹp, đôi mắt màu bầu trời ban sáng và mái tóc như những đám mây lúc bão. Rồi hình ảnh nhòa đi, để lại hình ảnh sinh vật đang đứng im, xấu xí trước ông. Odin đỡ cô ta đứng lên và ngồi cạnh ông. Dù đã đi bốt cao nhưng cô ta cũng chỉ đứng tới ngực ông.

“Isis và Orisis đã tới – cả hai người – và hứa sẽ trả lại tôi sắc đẹp nếu tôi đãn đường cho họ tìm ra hắn.”

“Sao họ lại hỏi cô?”

“Họ biết tôi đã gửi Torbalan – Ông Túi – theo dấu hắn.”

“Cô nói với họ cái gì?”

“Tôi nói tôi không biết chắc hắn ở đâu?”

“Nói dối à?”

“Không nói toàn bộ sự thật,” cô nói. “tôi không muốn họ là những người đầu tiên tìm ra hắn.”

“Vì hắn sẽ được xét xử.”

Sinh vật gật đầu. “Chỉ có như thế. Nếu họ có hắn, hắn sẽ nằm ngoài tầm với của tôi.”

“Hình như cả hai chúng ta đều muốn trả thù.”

“Tôi thích nói là đòi lại công bằng hơn.”

“Công bằng. Tôi cứ thấy nhột nhạt khi cô thốt ra từ đó đó.” Odin đặt tay dưới cằm cô ta và nâng lên. “Cháu thế nào, Hel?”

“Tức giận, chú ạ. Còn chú?”

“Cũng tức giận,” ông hưởng ứng.

“Cháu có thể giúp chú,” Hel nói.

“Cách nào?”

Sinh vật giơ chiếc di động lên đưa trước mặt vị Elder. Trên màn hình là hình ảnh chiếc xe đen. Khuôn mặt Tiến sĩ John Dee khó nhìn rõ qua lớp kính đen. “Cháu biết Dee đang ở đâu. Cháu có thể đưa chú tới đó.”

CHƯƠNG 12

Dịch: Nguyễn Hà Ly nguyen_ly Làm prc: Vanlydocnhan

“Em không muốn anh nói gì làm dì em thất vọng,” Sophie nói khi họ tới gần góc đường Sacramento ở Pacific Heights – nhà dì Agnes.

“Anh sẽ không nói gì,” Niten hứa.

“NẾu em có thể vào nhà và lấy quần áo mà không bị dì phát hiện là tốt nhất, nhưng mà bà thường ở phòng khách trước nhà xem TV hoặc nhìn ra đường xá,” cô nói tiếp. Mặt cô đỏ lựng và thở không ra hơi trên đường từ Coit Tower tới đây. “Thế nên em có thể sẽ phải giới thiệu anh với bà ấy. Nếu dì ấy vẫn nhớ a, em sẽ bảo anh là bạn em.”

“Cám ơn,” Niten lẩm bẩm, khuôn mặt không biểu cảm.

“Sau đó, khi anh nói chuyện với dì, e sẽ lẻn lên tầng thay quần áo. Em sẽ mang vài bộ đồ của Josh cho anh, dù có lẽ chúng hơi to hơn chút.”

“Anh rất cám ơn,” Niten nói. Anh giơ cổ áo véc đen hỏng lên mũi và hít hít cẩn thận. “Anh có mùi khói và mùi ma thuật cổ xưa. Em cũng thế, em gái à,” anh nói thêm. “Em nên đi tắm nữa.”

Má Sophie ửng đỏ. “Anh nói em có mùi hả?”

“Em sợ là thế.” Anh nhắm mắt nghiêng đầu lại và hít một hơi sâu. “Nhưng không chỉ có mùi luồng điện trong không khí. Nói với anh em có thể ngửi thấy gì?” anh hỏi.

Sophie hít một hơi thật sâu vào phổi. “Em có thể ngửi mùi khói trong quần áo em,” cô nói. “Mùi muối trong không khí... mùi chất thải oto,” cô dừng lại, rồi nói. “Có mùi gì khác nữa cơ.” Cô hít thêm một hơi nưa và nhìn những khu vườn xung quanh. “Có lẽ là mùi hoa hồng.”

“Không phải hoa hồng,” Niten nói.

“Nhưng quen lắm,” cô nói. “THế mùi gì?”

“Hoa nhài,”

“Đúng là hoa nhài. Nhưng sao lại có mùi hoa nhài nhỉ?”

“Đó là mùi của ma thuật cổ xưa. Tsagaglalal đang yếu đi.”

Cô gái không nhận thức được là mình đang run rẩy. Cô khoanh tay quanh người và quay sang nhìn Niten. “Bà ấy là ai? Bà ấy là gì? Mỗi lần em cố tiếp cận với ký ức của Bà phù thủy đều không có gì.. kể cả một mảnh.”

“Tsagaglalal là một bí ẩn.” Niten thừa nhận. “Cô ấy không phải Elder hay Thế hệ Kế tiếp, không phải người bất tử mà cũng không hẳn là người, không già như Vua Gilgamesh. Aoife từng nói với anh rằng Tsagaglal biết mọi thứ và đã ở trên Vương quốc bóng tối này từ hồi khởi thủy để quan sát và chờ đợi.”

“Chờ đợi cái gì, quan sát cái gì?” Sophie nhấn mạnh. Cô cố một lần nữa gợi lại trí nhớ của Bà phù thủy về Tsagaglalal. Nhưng không được gì.

Niten nhún vai. “Khó nói lắm. Có những sinh vật không suy nghĩ như con người. Tsagaglalal và một số khác đã từng ở trên trái đất này trong hàng thiên niên kỷ đã chứng kiến các nền văn minh thịnh rồi suy. Thế thì vì sao họ cân quan tâm tới đời sống loài người? Chúng ta – loài người – không có nghĩa lý gì với họ.”

Họ tiếp tục đi xuống đường Scott Street và Sophie lại hít một hơi lần nữa. Mùi hoa nhài dường như còn mạnh hơn.

“Người bất tử thay đổi cách con người suy nghĩ,” Niten nói, và cô đột nhiên nhận ra rằng anh ấy ít khi bắt đầu nói trước. “Không chỉ về bản thân họ, mà còn về thế giới xung quanh họ. Anh biết sống hàng trăm năm là như thế nào, anh đã chứng kiến ảnh hưởng của điều đó trên anh...và anh không thể không tự hỏi nó sẽ ảnh hưởng ra sao đối với những người sống hàng ngàn, chục ngàn năm.”

“Em trai em và em đã gặp Vua Gilgamesh ở Luân Đôn. Nicholas nói ông ấy là người già nhất hành tinh này.” Những cảm xúc ùa về khi ông nhớ về Nhà vua. Cô chưa từng thương tiếc ai trong đời.

Niten liếc nhìn sang cô gái, một chút biểu cảm xuất hiện trên khuôn mặt. “Em đã gặp Người cổ đại sống lâu đó rồi hả? Một vinh hạnh hiếm có. Anh đã đừng sánh vai chiến đấu cùng ông ấy. Ông ấy là một chiến binh phi thường.”

“Ông ấy điên loạn và cô đơn,” Sophie nói, đong đầy nước mắt.

“Ừ.”

“Anh là người bất tử, Niten. Anh có hối hận không?”

Niten nhìn đi, mặt không cảm xúc.

“EM xin lỗi,’ Sophie nói nhanh. “Em không định thọc mạch.”

“Em không cần xin lỗi. Anh đang suy nghĩ về câu hỏi của em. Anh nghĩ về điều đó hàng ngày trong đời,” anh thừa nhận với một nụ cười buồn.”Đúng là anh hối hận vì những gì bất tử bắt anh trả giá: cơ hội giành cho gia đình, bạn bè và cả quốc gia. Anh trở thành một người cô đơn, một người ngoài, một lãng khách – dầu thực sự, anh đã từng như thế trước khi trở thành người bất tử. Nhưng sống lâu cũng giúp anh chứng kiến nhiều điều kỳ diệu,” anh nói thêm, và đây là lần đầu tiên Sophie thấy Kiếm sĩ có vẻ sống động. “Anh đã thấy quá nhiều những thứ kỳ diệu. ĐỜi người quá ngắn khong thể trải qua những thứ mà thế giới này dành cho họ. Anh đã thăm mọi ngóc ngách của mọi châu lục trên hành tinh này và khám phá những Vương quốc bóng tối khác cả những cái đáng sợ và những cái đáng ngưỡng mộ. Anh cũng học được nhiều. Bất tử là một món quà còn hơn cả sự tưởng tượng. Nếu em được tặng: hãy nhận nó. Những lợi ích của nó vượt xa những bất lợi.” Anh đột nhiên dừng lại. Có thể đây là cuộc nói chuyện dài nhấ Sophie và anh có.

“Scathach bảo với em bất tử là một lời nguyền.”

“Bất tử là cách em nghĩ về nó,” Niten nói. “Một lời nguyền hoặc một lời chúc phúc - ừ, có thể la cả hai. Nhưng nếu em dũng cảm và tò mò thì không món quà nào tuyệt hơn đâu.”

“Em sẽ nhớ nếu có ai đó đề nghị tặng nó cho em,” cô nói.

“Và tất nhiên cũng phụ thuộc xem ai là người tặng nữa chứ!”

Sophie hít một hơi sâu khi cô nhìn thấy ngôi nhà gỗ trắng của dì cô ở góc rẽ. Cô sẽ nói gì với Dì Agnes đây? Đầu tiên cô đã biến mất; giờ cô trở veefl nhưng em trai thì đi mát. Agnes có thể già lão, nhưng bà không ngốc: bà đã biết cặp sinh đôi luôn kè kè bên nhau. Ít khi tìm được người này mà không có người kia. Sophie biết cô phải cẩn thận. Mọi điều cô nói với dì Agnes có thể được truyền đạt thẳng lại với bố mẹ cô. Và cô sẽ giải thích chuyện của Josh thế nào? Cô không biết cậu ta ở đâu. Lần cuối cùng cô thấy cậu, cậu đã không còn là cậu em cùng lớn lên với cô. Cậu vẫn giống Josh, nhưng đôi mắt cậu, đã từng là tấm gương soi đôi mắt cô, lại giống một người xa lạ.

Cô nuốt khó khăn và chớp mắt để xua đi nước mắt. Cô sẽ tìm ra cậu. Cô phải tìm ra cậu.

Sophie thấy tấm thảm lưới trắn khi bước tới bậc tam cấp và biết dì đang nhìn mình. Cô liếc nhìn Niten và anh gật đầu nhẹ. Anh cũng nìn thấy những cử động. “Dù em nói gì cũng nói đơn giản thôi,” anh khuyên.

Cửa mở và dì Agnes xuất hiện, một người nhỏ bé, gầy gò và xương xẩu, với đầu gối củ lạc và những ngón tay xưng vù vì chứng viêm khớp. Khuôn mặt bà góc cạnh, cằm nhòn, xương gò má thẳng khiến mắt bà sâu hoắm. Mái tóc xám chải gọn về đằng sau và búi sau đầu. Nó kéo da mặt bà căng ra.

“Sophie,” người phụ nữ nhẹ nhàng nói. Bà rướn người lên và nheo mắt nhìn. “Em trai cháu đâu?”

“Ờ, cậu ấy đang tới mà dì.” Sophie vừa nói vừa bước lên bậc thang dẫn vào cửa chính. Khi tới bậc caao nhất, cô vươn người và hôn vào má dì. “Dì thế nào ạ?”

“Đợi cháu về nhà,” bà lão nói, có vẻ mệt mỏi.

Sophie cảm thấy tội lỗi. Dù dì của cặp song sinh khiến họ điên lên, họ đều biết bà tốt bụng. “Dì à, con muốn dì gặp bạn con. Đây là...”

“Miyamoto Musashi,” Dì Agnes nói, có chút thay đổi âm sắc trong giọng nói, trầm hơn, nghe giống một câu ra lệnh. “Chúng ta lại gặp lại nhau rồi Kiếm sĩ.”

Sophie vừa đi qua dì bước vào hành lang tối tăm, nhưng khi nghe những từ ngữ lạ lùng của bà lão, cô dừng lại và đi xung quanh. Dì vừa nói tiếng Nhật! Và bằng cách nào đó dì biết tên Niten – tên thật ấy. Sophie chưa từng giới thiệu anh! Cô gái chớp mắt: một luồng khói mờ nhất đang thoát ra từ nguwofi bà lão. Và đột nhiên mùi hoa nhài mạnh lên.

Hoa nhài...

Các ký ức tụ họp lại.

Những ký ức đáng sợ và đen tối: hỏa hoạn và lũ lụt, bầu trời đầy khói đen biển đầy xác tàu.

Còn Aoife bóng tối đáng nghi đâu rồi?” Agnes nói tiếp, chuyển từ tiếng Nhật về tiếng Anh.

Ký ức của những tòa tháp pha lê, trôi nổi trên biên đang sôi sùng sục. Những vết nứt dài xuất hiện trên bề mặt tòa tháp, rồi liền ngay lập tức. Chớp lóe xung quanh tòa tháp. Và người phụ nữ, chạy mãi, chạy mãi lên những bậc thang không biết đâu là diểm dừng.

Sophie thấy thế giới đang đảo lộn xung quanh cô. Cô vươn tay ra chạm vào tường và nhận ra luồng điện bạc đang lấp lánh trên da thịt cô.

Hoa nhài...

Ký ức của một phụ nữ quỳ trước bức tượng vàng, đang ôm một cuốn sách bìa kim loại, đằng sau cô thế giới vỡ thành từng mảnh kính và lửa .

Niten bước lên trước Agnes và cúi thấp người. “Đi vào Vương quốc bóng tối với Archon Coatlicue, thưa bà.” Anh nói.

“Ta tiếc cho Archon đó,” Dì Agnes nói nhẹ nhàng.

Và đột nhiên Sophie nhớ ra vì sao mùi hoa nhài lại quen thuộc đến thế. Đó là mùi nước hoa yêu thích của dì. Và đó cũng là mùi hương của Tsagaglalal, Giám quan.

Và giờ thế giới xung quanh chuyển thành màu đen.

CHƯƠNG 13

Dịch: Nguyễn Hà Ly nguyen_ly Làm prc: Vanlydocnhan

Ở bờ biển Đông Bắc đảo Danu Talis, một tháp cao không tưởng, thanh mảnh không ngờ nâng lên từ dưới biển. Đó chính là thành phố Murias. Thành phố đó cổ cưa nhưng tháp đó còn hơn thành phố cả thiên niên kỷ. Khi các Elder vĩ đại tạo ra hòn đảo Danu Talis bằng cách nâng đáy biển lên nhờ vào những Phép thuật cơ bản, tòa tháp bằng kính này và phần còn lại của thành phố của các Chúa Đất đã nằm ở đó. Hâu hết các thành phố cổ đại chỉ còn lại những mảnh kính vỡ và vàng vụn, băng chứng của trận chiến kinh khủng giữa các Chúa đất với các Archon và các Elder Vĩ đại thời khởi thủy.

Nhưng tòa tháp pha lên đó vẫn ở đó, không bị động chạm hay ảnh hưởng bởi nhiệt độ đã làm nóng chảy những tòa nhà xung quanh. Nó trở thành một điểm. Bình thường nó là một đỉnh núi nhưng khi thủy triều lên cao nó trở thành đảo. Ngọn tháp pha lên trắng có thể chuyển màu theo thời tiết và thủy triều, từ màu xám đậm tới xanh đậm, từ màu trắng của núi tuyết tới màu xanh của băng cực. Khi những đợt thủy triều xô sóng vào bức tường phẳng, nước biển sùi lên và bị đun nóng, vì thế tòa tháp có hơi bốc lên dù bản thân đá làm tường mát lạnh. Buổi tối, tòa tháp lập lòe ánh sáng lân tinh màu chữa chua, sáng lên từng đợt theo nhịp đập chầm chậm như của một trái tim vĩ đại, tỏa ra những tia sáng – đỏ và tím – như một sợi chỉ. Trong những tháng mùa đông, khi những cơn mưa đá phủ trắng Đại Băng trên ĐỈnh của Thế giới và phủ trắng Murias, ngọn tháp vẫn đứng nguyên không bị động đến.

Các Elder và các Elder vĩ đại sống tại Murias vừa sợ hãi vừa ngưỡng mộ tòa tháp. Dù ai xây dựng tòa tháp, họ cũng là những Chủ nhân của Phép thuật cơ bản, và hầu như không có gì có thể nằm ngoài quyền năng của họ. Họ biết rằng họ sống ở một thế giới cổ xưa, một thế giới cổ đại, và những phần của bí mật xa xưa vẫn còn năm yên trong bóng tối. Qua nhiều thế hệ, những Elder Vĩ đại và các Elder tới sau họ đã chiến đấu với các Archon và đánh bại họ, đã xóa sổ những Chúa đất xấu xí cuối cùng. Quyền năng của các Elder – hòa hợp của khoa học và năng lượng luồng điện – đã giúp họ đầu như không thể bị tổn thương. Nhưng đến họ cũng sợ tòa tháp. Truyền thuyết gọi hòn đảo đó là Tor Ri. Theo ngôn ngữ cổ của Danu Talis từ đó có nghĩa là “Tòa tháp của Nhà Vua,” – nhưng không có vị vua nào sống ở đó.

Tòa tháp pha lê đó là ngôi nhà của Nhà thông thái Abraham.

Chiếc binh tóc đỏ mặc bộ giáp sáng loáng loạng choạng bước qua cánh cửa nhỏ hẹp và vươn người ra phía trước, tay chống hông, thở dốc. “Abraham, những bậc thang này giết tôi mất,” ông thở hổn hển. “Cứ như thể chúng dài vô tận và luôn luôn khiến tôi không thở nổi. MỘt ngày nào đó tôi sẽ tính xem có bao nhiêu bậc.”

“Hai trăm bốn mươi tám,” một người đàn ông cao và góc cạnh đứng ở giữa phòng lơ đãng nói. Ông đang tập trung vào quả địa cầu màu xanh trắng đang xoay quanh ông trong không khí.

“Tôi nghĩ có nhiều hơn cơ. Tôi luôn thấy như thể mình leo hàng năm trời.”

Abraham nửa quay lại, ánh sáng từ quả địa cầu đang quay hắt ánh sáng lên nửa mặt bên phải của ông, khiến lớp da trắng của ông có màu xanh bệnh tật. “Anh đã đi vào và ra ít nhất cả tá các Vương quốc bóng tối trên đường tới đây mà, Prometheus. Tại sao anh lại nghĩ tôi đã bảo anh không bao giờ được nán lại ở một bậc thang?” ông nói thêm kèm một nụ cười tinh khôn. “Anh có tin gì cho tôi à?” Nhà thông thái Abraham quay cả người đối diện với người chiến binh cao lớn.

Prometheus đứng thẳng người, kỷ luật của người chiến binh cho ông biết rằng khi ông nhìn vào Nhà thông thái, khuôn mặt ông không biểu cảm gì. Trước khi ông nói, quả địa cầu xanh trôi xuống và bay thẳng về phía ông, ở giữa hai người.

“Anh nhìn thấy gì hả anh bạn già?”

Prometheus chớp mắt và tập trung vào quả cầu. “Thế giới...,” ông dợm lời, rồi nhíu mày. “Nhưng có gì đó không đúng. Có quá nhiều nước,” ông chậm rãi nói khi theo dõi khối cầu xoay vần. Ông nhận ra quê hương mình khi ông nhìn thấy các lục địa hình thành. “Không còn Danu Talis nữa.”

Abraham đưa bàn tay đeo găng kim loại ra và chỉ ngón tay trỏ vào quả cầu: nó nổ như bóng bóng. “Danu Talis không còn,” ông đông tình. “Đây là thế giới không giống như nó sẽ thế, nhưng như nó có thể thế.”

“Gần không?” Prometheus hỏi.

“Gần thôi.”

Prometheus nhìn thẳng vào Nhà thông thái Abraham. Từ trước khi gặp ông ta, vị Elder đã nghe những huyền thoại vầ một bậc hiền triết lang bạt, người được truyền tụng là không phải Elder cũng chẳng phải Archon nhưng già hơn cả hai, thậm chí còn hơn cả Chúa Đất. Người ta nói rằng ông sống từ thời Khởi thủy, nhưng Abraham chưa bao giờ nói về tuổi của mình. Chị gái của Prometheus, Zephaniah, đã nói với ông rằng lịch sử của mọi loài đều nói tới một hiền triết, một học giả thông thái, người đã mang những kiến thức và trí khôn tới cho những con người từ thời xa xưa của lịch sử. Có rất ít miêu tả về nhà hiền triết...nhưn rất nhiều câu chuyện kể về một người có thể là Nhà thông thái Abraham.

Nhà thông thái có mái tóc màu vàng nhạt, mắt xám, da xạm đi chứng tỏ ông tới từ vùng đất phía bắc xa xôi, nhưng ông cao hơn những người Miền Bắc rất nhiều, và đặc điểm trên khuôn mặt ông đẹp hơn, với gò má cao, và đôi mắt hơi xếch. Những ngón tay của ông thì dài khác thường.

Trong những thập kỷ gần đây, Sự thay đổi đã bắt đầu tác động lên Abraham.

Prometheus biết rằng có những điều tương tự đối với các Elder Vĩ đại – thê nên có thể Abraham thuộc giống loài đó – nhưng vì còn rất ít người trong số họ sống sót và không ai xuất hiện công khai, nên không ai biết sự thực như thế nào. Zephaniah từng giải thích với ông rằng khi những Elder Vĩ đại có thể cực kỳ già, một căn bênh hoặc đột biến gì đó, thậm chí có thể là tái cấu trúc, bắt đầu xảy ra trên DNA của họ.

Các Elder Vĩ đại thay đổi. Và các Thay đổi lại khác nhau.

Có vài người chuyển hóa hoàn toàn thành quái vật, mọc lông và răng nanh; một số khác trở thành những sinh vật lai mọc cánh hoặc vẩy trên người. Một số lùn đi, trong khi số khác cao lớn đồ sộ. Rất nhiều người phát điên.

Abraham đang dần dần chuyển hóa thành một bức tượng mỹ miều. Nguồn điện vàng của ông không còn tỏa sáng trên người ông nữa. Nó đóng vẩy trên da thịt ông, khóac lên mình ông, biến da thịt ông thành kim loại. Phía mặt trái từ trán tới cằn và từ mũi tới tai đã biến thành một mặt nạ vàng cứng. Chỉ có con mắt của ông là không bị động tới dù phần lòng trắng đã chuyển sang màu nghệ tây nhạt với những sợi chỉ vàng xoắn vặn vào mống mắt màu xám. Hàm răng trên và dưới bên nửa trái khuôn mặt ông biến thành vàng còn tay trái như thể đeo găng tay vàng, dù Prometheus biết đó thực ra là lớp da của ông.

Prometheus chợt nhận ra Abraham đang nhìn mình chằm chằm. Ông cười nhếch môi. “Hôm qua anh thấy tôi rồi đấy,” Nhà thông thái chậm rãi nói. “Tôi không thay đổi gì cả.”

Vị Elder gật đầu, má ông đang chuyển sang cùng màu với tóc.

Quá trình biến đổi vừa kinh khủng mà vừa đẹp. Và dù Abraham không nói gì nhưng cả ông và Prometheus đều biết nó sẽ kết thúc ra sao: Thay đổi sẽ khiến nhà Thông thái thành một pho tượng sống, không thể nói hay cử động, dù đầu óc ông vẫn hoạt động. Prometheus chưa từng hỏi nhưng ông nghi ngờ rằng Abraham biết chính xác mình còn bao nhiêu thời gian.

“Nói cho tôi có gì mới nào,”Abraham nói.

“Tin không tốt,” Prometheus cảnh báo. Ông nhìn thấy sự đau đớn trên nét mặt Nhà thông thái nhưng vẫn tiếp tục nói tiếp. “Những người lạ đã xuất hiện – nhưng ông nói – trên ngọn đồi phía nam thành phố. Nhưng những anpu đã đón lõng họ. Họ bị bắt và đưa tới kim tự tháp. Tôi không biết giờ họ ở đâu, nhưng tôi đoán họ ở ngục thất bên dưới tòa án đế chế.”

“Vậy là chúng ta đã lạc mất họ và chúng ta đi tong.” Abraham quay đi. Ông giơ cả hai tay lên và một lần nữa quả cầu xanh lại xuất hiện trong không khí. Những cụm mây trắng bao quanh khối câu, lững lờ trôi trên vùng đất màu xanh và nâu. Giữa khối câu là Danu Talis.”

“Giờ sao rồi?” Prometheus hỏi.

Abraham giơ cả hai tay, bằng kim loại và bọc da lên tới gần thế giới đang trôi nổi. RỒi ông nắm chắt lấy. Những hạt bụi màu xanh và trắng, xanh lơ và nâu biến thành những hạt cát trên tay ông. Ông quay qua vị Elder, ánh sáng tắt hẳn tren nửa mắt kim loại hóa của ông. “Giờ thế giới kết thúc.”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx