sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bí mật của Nicholas Flamel bất tử (Phần 3) - Chương 24 - 25

Chương hai mươi bốn

“Nhà Giả kim,” Palamedes la lên đầy tuyệt vọng, “ông đã lên án tử cho tất cả chúng ta đấy!”

Flamel nằm ình xuống trước hai cái màn hình đã bị hư hại nặng nề. Nước da ông có màu vàng khè như màu giấy da dê, thêm những vết nhăn mới quanh khóe mắt ông và những đường hằn nơi trán giờ trông thật sâu. Khi ông quay sang nhìn Saracen, đôi mắt ông đờ đẫn và vô định, tròng trắng nhuốm màu xanh lá.

“Tôi đã bảo ông không được sử dụng luồng điện của mình kia mà,” chàng hiệp sĩ càu nhàu. “Tôi đã cảnh cáo ông rồi.” Palamedes đi vòng quanh Shakespeare. “Chuẩn bị chiến đấu. Báo động cho lính canh.” Đại thi hào gật đầu và vội vã lao ra ngoài, những con chó mắt đỏ im lặng, giờ dàn rải ra xếp theo hình rẽ quạt xung quanh ông ta thành một tấm khiên bảo vệ. Bộ áo giáp bằng xích của chàng hiệp sĩ xuất hiện như bóng ma quanh thân hình lực lưỡng của anh ta, rồi đông chắc lại. “Tôi đã nói gì nào, Nhà Giả kim? Sự chết chóc và phá hủy luôn theo sát bên ông. Đêm nay vì ông mà sẽ có bao nhiêu người chết nữa đây?” Anh ta hét toáng lên loạn xị trước khi phóng ào ra cửa.

Josh nảy đom đóm mắt. Nhìn thấy cô chị gái mình lắc lư lảo đảo nên cậu vội chụp lấy cánh tay cô bé. “Em mệt rã rời,” cậu nói.

Sophie gật đầu tán đồng. “Chị cũng vậy.”

“Em có thể thật sự cảm thấy năng lượng chảy lên khắp thân mình em và xuống cánh tay,” cậu nói đầy vẻ kinh ngạc. Cậu nhìn những ngón tay mình. Lớp da tay đỏ ửng và có những vết bỏng mọng nước nơi đầu ngón tay. Cậu đỡ cô chị sinh đôi đến một cái ghế và đặt cô bé ngồi xuống, rồi cậu quỳ xuống trước mặt cô bé. “Chị cảm thấy thế nào?”

“Kiệt quệ,” Sophie lầm bầm, và Josh để ý thấy đôi mắt cô bé như hai chiếc đĩa bạc phẳng bẹt, giống hệt tấm gương soi. Cậu lo lắng khi trông thấy một hình ảnh méo mó của chính mình phản chiếu trong đó. Chính một thay đổi nhỏ như thế nơi người cô bé, làm cho khuôn mặ cô bé trông đầy sát khí và gần như có vẻ xa lạ. Đang khi cậu quan sát, lớp bạc dần dần nhòa đi va màu xanh bình thường hiện ra trở lại. “Perenelle?” Cô bé nói, nhưng miệng mồm cô bé khô queo và mọi lời nói hóa ra khó khăn nặng nề. “Chuyện gì xảy ra cho cô ấy nhỉ?” Cô bé thì thào với giọng khàn khàn, rồi cô bé nói thêm, “Cho chị miếng nước.”

Josh đang đứng dậy thì Shakespeare xuất hiện bên cạnh cậu với hai ly nước có màu như bùn. “Uống cái này đi.”

Josh cầm lấy hai ly nhưng hớp một ngụm thăm dò ly của cậu trước khi đưa ly kia cho cô chị gái. Cậu nhăn mặt. “Nghe ngọt ngọt. Cái gì trong này vậy ạ?”

“Chỉ là nước thôi. Tôi đã mạn phép thêm vào mỗi ly một muỗng mật ong thiên nhiên,” người bất tử nói. “Các bạn đã sử dụng một lượng lớn calorie và tiêu thụ rất nhiều lượng đường và muối tự nhiên trong cơ thể mình. Các bạn cần phải bổ sung chúng càng nhanh càng tốt.” Ông ta mỉm cười vặn vẹo, đưa ra hàm răng thật tồi tệ. “Hãy xem đó như cái giá của ma thuật.” Còn ly thứ ba, lớn hơn hai ly trước, lớp mật ong màu nâu đang cuộn xoáy, ông đặt xuống chiếc bàn bên cạnh Nhà Giả kim. “Và ông cũng vậy, Nicholas ạ,” ông ta nói dịu dàng. “Uống nhanh đi. Còn nhiều việc phải làm.” Rồi ông ta quay người vội vã bước vào bóng đêm.

Sophie và Josh chăm chú nhìn Nicholas đưa ly nước lên môi và hớp một chút chất lỏng sóng sánh. Bàn tay phải của ông run run và ông dùng bàn tay trái nắm lấy nó và giữ cho nó yên. Thấy hai đứa nhìn, ông gượng mỉm cười, nhưng nụ cười ấy trông giống một cái nhăn nhó vì đau đớn hơn. “Cám ơn,” ông thều thào, giọng ông thô ráp. “Hai đứa đã cứu cô ấy.”

“Perenelle,” Sophie nhắc lại. “Chuyện gì xảy ra vậy?”

Nicholas lắc đầu. “Chú không biết,” ông thú nhận.

“Những sinh vật đó...” Josh vọt miệng.

“Vetala,” Nicholas nói.

“Còn có cái gì trông giống như một con ma nữa,” Sophie nói thêm.

Nicholas uống hết nước và rùng mình đặt cái ly xuống bàn.

“Thật ra, hình ảnh đó cho chú lý do để hy vọng,” ông nói, và lần này nụ cười của ông mới là nụ cười thật. “Perenelle là con gái thứ bảy của một người cũng là con gái thứ bảy trong gia đình. Cô ấy có thể giao tiếp với những vong hồn người chết; họ giúp cô ấy không cảm thấy sợ. Alcatraz là một hòn đảo đầy những bóng ma và mà thì hầu như vô hại.”

“Hầu như ạ?” Josh nói.

“Ừ hầu như vậy,” Nicholas đồng ý. “Nhưng không ai có thể làm hại được Perenelle của chú cả,” ông nói thêm với giọng đầy tin tưởng.

“Chú nghĩ có gì xảy ra cho cô ấy không?” Sophie nói, ngay khi Josh mở miệng định hỏi đúng câu đó.

Ngưng một chút, roi Flamel mới trả lời. “Chú không nghĩ vậy đâu. Chúng ta đều thấy luồng điện của bọn mình - đặc biệt của hai đứa - cô ấy sẽ mạnh mẽ ngay thôi.”

“Nhưng cô ấy có ý gì khi nói chú giết chết cô ấy mất?” Sophie hỏi, bây giờ giọng cô bé đã mạnh hơn rồi.

“Chú chả biết nữa,” ông nói khẽ. “Nhưng chú chắc chắn rằng: nếu có bất cứ chuyện gì không hay xảy đến cho cô ấy, thì chú sẽ biết. Chú sẽ cảm thấy điều đó ngay.” Ông đứng lên từ từ và rất khó nhọc, ấn hai bàn tay vào chỗ eo phía sau lưng. Ông nhìn quanh căn nhà chòi trống trải và hất đầu về phía hai cái ba-lô của hai đứa sinh đôi. “Lấy đồ đạc của tụi cháu đi, mình cần phải rời khỏi đây ngay.”

“Rồi đi đâu ạ?” Josh gặng hỏi.

“Bất cứ nơi đâu xa chỗ này,” Nicholas nói. “Luồng điện được kết hợp của chúng ta sẽ có tác dụng như một ngọn lửa hiệu người ngày xưa thường phát ra trên một đỉnh đồi. Chú cược là mọi Elder, Thế hệ Kế tiếp, và người bất tử ở London sẽ hướng về con đường này ngay bây giờ cho xem. Đó là điều làm Palamedes rất bực bội.”

Sophie đứng lên. Josh giơ tay ra đỡ chị, nhưng cô bé lắc đầu. “Cháu tưởng là chúng ta sẽ ở lại đây mà chiến đấu chứ,” cô bé nói với Nicholas. “Đó là những gì Perenelle muốn chú làm mà, mà không phải đó cũng là những gì Shakespeare và Palamedes, cả hai đã nói chúng ta nên làm đó sao?”

Flamel leo xuống mấy bậc thềm và chờ cho tới khi hai đứa song sinh cùng ông đi ra ngoài bầu khí đêm mát lạnh rồi ông mới trả lời. Ông nhìn Josh. “Cháu có nghĩ vậy không? Ở lại chiến đấu hay bỏ trốn?”

Josh nhìn ông rất đỗi kinh ngạc. “Chú đang hỏi cháu à? Tại sao vậy chứ?”

“Cháu là nhà chiến thuật của chúng ta, cháu đã được bản thân Mars truyền kinh nghiệm cho. Nếu có bất cứ người nào có thể biết phải làm gì trong một trận chiến, thì người đó chính là cháu. Và, như Perenelle đã nhắc chú, cả hai đứa là cặp song sinh huyền thoại: quả thật cháu là người rất mạnh mẽ. Vậy nói chú nghe di, Josh, tụi chú phải làm gì?”

Josh định cãi lại là cậu không biết gì cả... nhưng thậm chí ngay khi cậu đang lắc đầu, thì tự dưng cậu biết được câu trả lời. “Không biết chuyện gì sẽ đến với chúng ta, thật không thể nói được.” Cậu nhìn quanh. “Một mặt, chúng ta được bảo vệ trong một pháo đài được thiết kế và cài nhiều cạm bẫy rất khôn ngoan. Chúng ta biết có một vùng bảo vệ quanh lâu đài này và những căn nhà kia đã được chiếm đóng bởi những sinh vật trung thành với hiệp sĩ. Cháu chắc chắn Shakespeare và Palamedes có những chiến thuật phòng thủ khác nữa. Nhưng nếu chúng ta ở lại và cùng chiến đấu, chúng ta sẽ bị mắc kẹt ở đây, và bởi vì đây là đất nước của Dee, sẽ có thì giờ để hắn đưa quân tiếp viện đến, hoàn toàn giam hãm chúng ta.” Cậu nhìn cô chị gái. “Em bảo chúng ta phải chạy thôi. Khi chiến đấu, chúng ta cần phải chọn đúng thời điểm.”

“Nói hay lắm.” Nhà Giả kim gật gù. “Chú đồng ý. Chúng ta phải chạy trốn ngay bây giờ và cố giữ toàn mạng để chiến đấu vào một ngày khác.”

Palamedes từ vùng bóng tối bước ra, mùi thơm đinh hương tỏa theo sau. Sự biến đổi của anh ta thành chàng Hiệp sĩ Saracen, người đã cùng chiến đấu bên Vua Arthur, giờ đã hoàn thiện rồi. Anh ta mặc một bộ giáp từ đầu đến chân dát kim loại màu đen trơn láng bên ngoài một bộ giáp xích cũng màu đen. Một chiếc mũ trùm đầu làm bằng những vòng kim loại xâu vào nhau bảo vệ hoàn toàn vùng đầu và cổ và rũ xuống tận vai. Bên ngoài là một chiếc mũ bảo hiểm bascinet thời Trung cổ bằng kim loại trơn láng với một miếng dài ra để bảo vệ mũi. Một thanh kiếm shamshir lưỡi cong treo lủng lẳng bên hông và một thanh gươm to bản của người vùng núi Ê-cốt đeo qua vai vòng ra sau lưng anh ta. Bộ giáp khiến người đàn ông vốn đã lực lưỡng nay trông còn khổng lồ hơn nữa. Anh ta chưa kịp nói gì, Shakespeare đã gấp rút chạy đến, năm con chó mắt đỏ im lặng theo sau ông ta. “Tình hình có tệ lắm không?” Palamedes quát vang rền.

“Tệ,” Shakespeare làu bàu. “Mới vài phút trước đây thôi, một số người riêng lẻ - chủ yếu là những người bất tử, và vài tên thuộc giống người chuyên săn tội phạm để lĩnh thưởng - đã đi vào đường phố do nhóm ấu trùng và vượn cáo tuần tra. Bọn chúng không đi xa.” Luồng điện của Shakespeare nổ lốp bốp một màu vàng đục và không khí thoáng mùi hương chanh. Một bộ giáp nguyên người hiện đại của cảnh sát trùm ra ngoài bộ đồ bảo hộ lấm lem bùn đất của người bất tử ấy. Tay trái ông ta cầm một cái chùy và dây xích thòng lòng, một đầu chùy có nạm ngọc bị kéo lê dưới bùn. “Nhóm ấu trùng và vượn cáo là hàng phòng thủ đầu tiên của chúng tôi,” ông ta vừa nói tiếp, vừa nhìn từ Nhà Giả kim sang hai đứa nhỏ. “Họ rất trung thành, nhưng không sáng dạ nhanh trí lắm. Cứ mỗi lần ăn no, là họ sẽ ngủ ngay. Bọn tấn công sẽ đến được những bức tường ấy trước nửa đêm nay.”

“Lâu đài sẽ giữ được mà,” Palamedes nói đầy tự tin.

“Không lâu đài nào hoàn toàn không thể đánh chiếm được hết,”Josh nói đơn giản, và rồi chợt im bặt khi hình thù một con chó đỏ to tướng hiện ra lù lù trong đêm. Mọi người quay lại nhìn theo hướng mắt cậu. Đó là con chó lớn nhất trong bọn. Lông nó bện lại vì dơ bẩn và một vết đứt dài trên lưng rất nguy hiểm sát nơi cột xương sống của nó.

“Gabriel!” Shakespeare hét lên.

Trong khoảnh khắc chỉ một tích tắc, giữa khoảng cách hai bước chân, con chó biến hình. Cơ bắp rũ xuống, xương thụt vào và kêu răng rắc, con chó đứng lên bằng hai chân sau, cổ ngắn lại, những chỗ phẳng và góc cạnh trên khuôn mặt nó và đường nét của quai hàm biến chuyển. Con chó trở thành một anh thanh niên trông gần giống như con người với mái tóc màu nâu xám. Những hình xăm xoắn cuộn màu xanh ngả tím xoáy theo hình trôn ốc trên hai má, chạy xuống cổ và nở rộng qua bộ ngực để trần của anh ta. Anh ta đi chân trần, chỉ mặc độc một cái quần vải len xù xì cũ kỹ có mẫu hoa văn kẻ ô vuông hai màu đen đỏ. Đôi mắt đỏ tươi như máu ló ra từ bên dưới những vết đứt khá trầm trọng.

“Gabriel, cậu bị thương rồi,” Đại thi hào nói.

“Một vết cào thôi mà,” người chó trả lời. “Ngoài ra đâu có gì nữa. Mà sinh vật cào vào tôi cũng sẽ không làm gì hơn được nữa.” Anh ta nói với trọng âm ê a trầm bổng mà Sophie nhận ra là của người xứ Wales.

Từng con chó một đứng quanh Shakespeare chớp nhoáng đều biến thành hình dáng con người hết thảy.

“Các người là Torc Allta hả?” Josh vừa hỏi, vừa nhớ lại các sinh vật từng canh giữ Vương quốc Bóng tối của Hekate.

“Bọn họ cùng quan hệ họ hàng với chúng tôi,” Gabriel nói. “Chúng tôi là Torc Madra.”

“Gabriel Hounds,” Sophie nói, đôi mắt cô bé lóe lên ánh bạc. “Loài ratchet.”

Gabriel quay lại nhìn cô gái nhỏ, cái lưỡi chẻ ngọn của anh ta nếm nếm trong không khí như lưỡi rắn. “Lâu lắm rồi tôi mới được gọi lại bằng cái tên đó.” Cái lưỡi lại thè ra. “Nhưng cô hoàn toàn là người mà, phải không, Sophie Newman? Cô là Người Sinh đôi Mặt trăng mà, và còn trẻ, rất trẻ, một người trẻ như thế lại đang mang trong mình một kiến thức già cỗi lâu năm. Cô xem ra rất khó ưa vì cái mụ phù thủy hôi thối Endor ấy,” anh ta vừa nói một cách thô bạo, vừa quay người đi, cánh mũi nhăn nhăn ghê tởm.

“Ơ này, ông không thể nói với chị của...” Josh buột miệng, nhưng Sophie giật mạnh cánh tay cậu, kéo cậu trở lại.

Phớt lờ cơn giận ấy, Gabriel quay sang Palamedes. “Nhóm ấu trùng và vượn cáo thất bại mất rồi.”

“Nhanh thế!” Hiệp sĩ Saracen la lên. Cả anh ta và Shakespeare đều run thấy rõ. “Chắc chắn không phải là hết thảy chứ?”

“Hết thảy. Không còn sót một ai.”

“Có đến gần năm ngàn kia...,” Shakespeare nói ngay.

“Dee đang ở đây,” Gabriel nói, giọng anh ta chỉ nhỉnh hơn một tiếng gầm gừ một chút. “Và Bastet cũng có mặt nữa.” Anh ta quay tròn vai và nhăn mặt vì vết thương trên lưng bị động.

“Tuy vậy, vẫn phải có một cái gì khác nữa, đúng không nào?” Flamel nói với vẻ mệt mỏi. “Những người đi theo các Elder Đen tối và bọn tay sai của Dee trong thành phố này là một khối liên minh gồm những kẻ cùng đinh mạt vận của những phe phái đối lập sẵn sàng chiến đấu cùng nhau cũng được mà đánh nhau tan nát cũng được. Để giết được ấu trùng và bọn vượn cáo cần phải dùng đến một đạo quân, được huấn luyện bài bản và có tổ chức, trung thành với một vị lãnh đạo duy nhất.”

Gabriel hơi cúi xuống. “Bọn Hunt đang ở ngoài kia.”

“Ồ không.” Palamedes rít lên một hơi thở đứt quãng và rùn vai rút thanh trường kiếm ra khỏi lưng.

“Cùng chủ nhân của chúng,” Gabriel nói thêm một cách dứt khoát.

Josh nhìn chị mình, tự hỏi không biết cô bé có biết Torc Madra đang nói về cái gì không. Đôi mắt cô bé lại biến thành hai cái đĩa bạc phẳng lì và gương mặt cô không có vẻ sợ hãi mà gần như là kính sợ.

“Cernunnos đã trở lại,” Gabriel nói, giọng anh ta thoáng một nỗi kinh hãi đích thực. Và rồi, từng con một, tất cả các ratchet đều rụt đầu vào cổ và tru lên thảm thương.

“Thần sừng,” Sophie thều thào và bắt đầu thấy lạnh run. “Thủ lĩnh của đạo quân Wild Hunt.”

“Một Elder hả?” Josh hỏi.

“Một Quan chấp chính.”

Chương hai mươi lăm

“Tôi nghe nói người phụ nữ tên Perenelle này đang bị giam cầm, yếu ớt, và không thể tự bảo vệ được chính mình,” Billy the Kid nói rõ từng tiếng vào chiếc mi-crô Bluetooth thanh mảnh ôm sát theo quai hàm không cạo của hắn ta. “Thông tin đó quả là không thật.” Qua tấm kính chắn gió của chiếc Thunderbird, hắn ta có thể nhìn thấy rõ Alcatraz ở bên kia vịnh. “Và tôi nghĩ chúng ta gặp vấn đề rồi. Một vấn đề gay go.”

Cả nửa thế giới bỗng tan biến, Nicolò Machiavelli cẩn thận lắng nghe tiếng nói trên loa trong khi sắp xếp mọi thứ vào chiếc va-li nhỏ. Y không nhớ nổi lần gần đây nhất y tự thu xếp đồ đạc cho mình là khi nào; luôn có Dagon lo chuyện đó. “Mà tại sao anh gọi tôi?” Machiavelli hỏi. Y bỏ đôi giày thứ ba vào va-li, một đôi giày đóng theo đơn hàng đặt riêng, rồi sau đó y quyết định hai đôi là đủ và lấy đôi thứ ba ấy ra lịa.

“Tôi sẽ nói thật với ông,” Billy the Kid miễn cưỡng thú nhận. “Tôi đã từng nghĩ không cần đến ông phải ra tay. Chắc chắn tôi có thể xử lý người phụ nữ này một mình.”

“Một sai lầm từng có giá phải trả bằng nhiều mạng sống,” Machiavelli nói lầm bầm bằng tiếng Ý; rồi y chuyển lại thành tiếng Anh. “Vậy chuyện gì đã làm anh đổi ý?”

“Mới vài phút trước đây thôi, đã có chuyện gì đó xảy ra trên Alcatraz. Cái gì đó kỳ quặc lắm... cái gì đó rất mạnh mẽ.”

“Sao anh biết? Anh đâu có ở trên hòn đảo ấy.”

Tay người Ý nghe rõ ràng nỗi kinh sợ trong giọng nói của anh chàng người Mỹ bất tử này. “Tôi cảm nhận được điều đó - từ cách đây gần năm cây số!”

Machiavelli rướn thắng người. “Khi nào? Chính xác là khi nào?” Y vừa hỏi dồn, vừa kiểm tra lại đồng hồ. Băng qua bên kia gian phòng, y mở chiếc máy tính xách tay và rà ngón trỏ ngang qua đầu đọc vân tay để khởi động máy tính. Y nhận được hơn cả chục e-mail đã được mã hóa từ những tay gián điệp của y ở London, báo cáo rằng có chuyện gì đó rất khác thường đã xảy ra. Những e-mail này đến vào lúc 8 giờ 45 phút chiều nay, chỉ mới cach đây hơn mười lăm phút.

“Cách đây mười lăm phút.” Billy nói.

“Hãy nói cho tôi biết chính xác là chuyện gì,” Machiavelli nói. Y nhấn một cái nút bên cạnh chiếc điện thoại của mình để bắt đầu ghi âm cuộc nói chuyện này.

Billy the Kid bước ra khỏi chiếc xe và nâng cái ống nhóm mòn vẹt màu xanh quân đội lên đôi mắt xanh thẫm của mình. Hắn ta đang đậu xe ở gần Cầu Golden Gate; ngay phía trước và bên phải hắn ta, hòn đảo xa xa trông êm ả và yên bình, đang phơi mình dưới bầu trời buổi trưa không gợn chút mây, nhưng hắn ta biết cảnh tượng đó chỉ là để đánh lừa thôi. Hắn ta cau mày, cố nhớ lại chính xác những gì vừa xảy ra. “Cái đó... cái đó giống như một luồng điện bắt lửa bốc cháy,” hắn ta giải thích. “Nhưng rất mạnh mẽ, mạnh mẽ hơn bất cứ thứ gì tôi từng gặp phải trong đời mình.”

Giọng Machiavelli rõ ràng đến ngạc nhiên tren đường dây xuyên Đại Tây Dương. “Một luồng điện mạnh mẽ...”

“Rất mạnh.”

“Có mùi gì không?”

Billy ngập ngừng, hít vào theo bản năng, nhưng hắn ta chỉ ngửi thấy mùi muối luôn hiện hữu của nước biển và mùi đậm đặc đăng đắng của không khí ô nhiễm. Hắn lắc đầu, rồi, chợt nhớ ra là Machiavelli đâu có nhìn thấy mình được, hắn ta mới nói. “Nếu có, thì tôi cũng không nhớ nữa. Không, chắc chắn là không có.”

“Làm thế nào anh cảm nhận được?”

“Trời lạnh, thật lạnh. Và nó khiến luồng điện của tôi phát ra tia lửa. Chỉ trong vài phút khi tôi không kiểm soát.” Giọng Billy hơi run. “Tôi tưởng như mình sắp bùng cháy lên mất.”

“Còn gì khác nữa?” Machiavelli hỏi, giữ cho giọng y thật điềm tĩnh, buộc tay người Mỹ này phải tập trung. Mọi người bất tử đều biết rằng một luồng điện không được kiểm soát có thể làm tiêu hao hoàn toàn thân người mà nó bao quanh; quá trình này được gọi là hiện tượng bốc cháy tự phát của con người. “Nói tôi ghe xem.”

“Rất may là khi chuyện đó xảy ra thì xe tôi đang đậu; nếu tôi đang lái xe chắc hẳn sẽ làm hỏng chiếc xe mất thôi. Mắt tôi hoàn toàn mù và tai thì điếc đặc. Thậm chí còn không thể nghe được tiếng đập của tim mình. Và khi có thể nghe lại được, tôi nghe như thể mọi con chó trong thành phố này đều tru lên. Tất cả loài chim cũng kêu thét đầy kinh hãi.”

“Có lẽ đó là con nhân sư đang giết chết Nữ Phù thủy chăng,” tay người Ý lẩm bẩm, và Billy cau mày, đôi tai nhạy cảm của hắn ta cắt được cái gì đó có thể là một thoáng tiếc nuối trong giọng nói người đàn ông này. “Tôi hiểu là mụ ta được phép giết chết người đàn bà này mà.”

“Đó cũng là những gì tôi đã nghĩ,” Billy nói. “Tôi có một cái tô bói cầu. Gốm sức Anasazi, rất hiếm, rất mạnh.”

“Thứ tốt nhất đấy, tôi nghe nói vậy,” Machiavelli đồng ý.

“Khi tôi kiểm soát được luồng điện của mình trở lại, ngay lập tức thôi thử xem bói cầu trên hòn đảo đó. Tôi thoáng thấy, chỉ loáng thoáng hiện ra rất nhanh hình ảnh Nữ Phù thủy đang đứng dựa vào bức tường trong sân tập thể dục. Bà ta đang tắm nắng, xin ông bình tĩnh nhé. Và rồi - mà tôi biết chuyện này là không thể - bà ta mở choàng mắt ra và ngẩng mặt nhìn lên... và tôi dám cam đoan là bà ta đã nhìn thấy tôi.”

“May mà chuyện đó đã xảy ra,” Machiavelli lẩm bẩm. “Không ai biết sức mạnh của Nữ Phù thủy đến cỡ nào. Rồi sao nữa...?”

“Chất lỏng trong tô bói cầu của tôi đông thành một miếng nước đá cứng ngắc.” The Kid nhìn xuống chỗ ngồi của hành khách, nơi những mảnh vỡ của cái tô nằm bọc trong tờ báo mới ra sáng nay. “Cái tô vỡ tan,” hắn ta nói, một thoáng thất vọng hiện lên trong giọng nói. “Tôi đã giữ cái tô này lâu lắm rồi.” Và rồi giọng hắn ta chợt đanh lại. “Nữ Phù thủy vẫn còn sống, nhưng tôi không thấy con nhân sư đâu cả. Tôi nghĩ chắc Perenelle đã giết mụ ta rồi quá,” hắn ta nói, đầy vẻ kinh sợ.

“Chuyện đó cũng có thể xảy ra lắm chứ,” Machiavelli nói chậm rãi. “Nhưng không chắc. Chúng ta đừng lo xa quá. Tất cả những gì chúng ta biết chắc là Nữ Phù thủy vẫn còn sống.”

The Kid hít thở thật sâu. “Tôi những tưởng mình có thể đảm đương vụ Perenelle Flamel riêng một mình thôi; giờ thì tôi biết là không thể. Nếu ông có bất cứ ma thuật hay cầu thần chú Âu châu nào, thì đã đến lúc mang hết ra rồi đó.” Billy the Kid cười lớn, nhưng không có chút gì hài hước trong tiếng cười đó cả. “Chúng ta chỉ có một dịp duy nhất này để giết chết Nữ Phù thủy thôi; nếu chúng ta thất bại, chúng ta sẽ không thể rời khỏi hòn đảo Đá ấy mà còn sống đâu.”

Niccolò Machiavelli chợt thấy mình đang gật đầu đồng ý. Y băn khoăn tự hỏi không biết tay người Mỹ này có biết Morrigan cũng đã biến mất rồi không. Nhưng có chuyện the Kid không thể biết được, đó là đúng ngay giây phút luồng điện dao động dữ dội trên hòn đảo, thì một thứ năng lượng tương tự cũng lung linh sống động ở miền Bắc London. Machiavelli nhanh chóng đọc lướt qua các e-mail y vừa nhận được; tất cả đều báo cáo về một thứ phải là một luồng điện mạnh không thể tưởng tượng đang bùng nổ hồi sinh.

... mạnh hơn bất cứ thứ gì tôi từng gặp phải từ trước tới nay...

... có thể so sánh với luồng điện của các Elder...

... những báo cáo về các luồng điện lóe sáng tự phát trên vùng đất hoang Hamstead Heath và đường Camden, cả trong nghĩa trang Highgate Cemetery...

Thú vị thay, có hai e-mail nhắc đến mùi hương rất dễ nhận ra của bạc hà.

Dấu hiệu đặc trưng của Flamel.

Machiavelli lắc đầu với vẻ ngưỡng mộ. Nhà Giả kim chắc hẳn đã kết nối được với Perenelle. Bói cầu tương đối đơn giản, và nguyên tắc này thường có tác dụng tốt nhất trong những khoảng cách ngắn. Hai người này đã cưới nhau và năm 1350, và đã sống với nhau hơn 650 năm rồi. Sự kết nối giữa họ rất mạnh, và thật hợp lý là họ có thể nối qua mấy ngàn ki-lô-mét. Nhưng bói cầu không thể kích hoạt hai luồng điện của Flamel và Perenelle một cách đầy kịch tích gây ấn tượng sâu sắc như vạy được. Trừ phi... trừ phi Perenelle đang gặp nguy hiểm và Nhà Giả kim phải lấy luồng điện của mình tăng cường cho luồng điện của bà ta. Muxtang cau mày. Nhưng Nicholas đang yếu lắm rồi; quá trình đó chắc hẳn sẽ - đúng ra là phải chắc chắn đã - giết chết ông ta mới phải.

Cặp song sinh!

Niccolò Machiavelli lắc đầu ngao ngán. Y nghĩ, chắc y đã chậm chạp cùng với tuổi già của mình mất rồi. Đúng là phải được kết nối với cặp song sinh này. Y từng trông thấy chúng làm việc với nhau hồi ở Totre Dame để đánh bại bọn gargoyle. Chắc chẳn chúng đã cho Flamel một ít sức mạnh của chúng, và ông ta, đến lượt mình, đã bằng cách nào đó kết nối được với Alcatraz và Perenelle. Đó là lý do tại sao dấu hiệu của luồng điện này quá mạnh.

“Tại sao anh liên lạc với tôi?” Machiavelli băn khoăn thốt lên.

“Ông không phải là cuộc gọi đầu tiên của tôi,” the Kid thú nhận. “Nhưng tôi không bắt liên lạc được với chủ nhân của tôi. Tôi nghĩ tôi nên cảnh cáo cho ông... và tôi hy vọng rằng có thể ông có cách nào đó đánh bại mụ Perenelle Flamel này. Ông đã bao giờ gặp mụ ta chưa?”

“Rồi.” Machiavelli mỉm cười cay đắng, hồi tưởng lại. “Mới một lần. Đã lâu lắm rồi: vào năm 1669. Dee đã mất dấu tích nhà Flamel sau Trận Hỏa hoạn Lớn ở London, và bọn họ đã bỏ trốn đến lục địa chậu Âu. Tôi đang có một kỳ nghỉ ở Sicily thì bất chợt bắt gặp họ, hoàn toàn do tình cờ. Nicholas đang bị ốm, nằm mọp vì ngộ độc thực phẩm, và tôi chắc chắn là thầy thuốc địa phương đã thêm một phần thuốc ngủ nào đó vào thuốc của ông ta. Vì kiêu căng ngạo mạn, tôi đã nghĩ, tôi có thể đánh bại Perenelle trước đã rồi tính đến Nhà Giả kim sau.” Tay người Ý giơ bàn tay trái lên về phía ánh sáng. Một mảng thẹo sắc lẻm vẫn có thể thấy rõ vắt ngang từ bên này sang bên kia lớp thịt của y, và có những vết thẹo khác trên vai và sau lưng y nữa. “Chúng tôi đánh nhau trọn cả ngày - thuật phù thủy của bà ta đấu với pháp thuật và thuật giả kim của tôi...” Giọng nói y kéo dài dần rồi rơi vào im lặng.

“Rồi chuyện gì xảy ra?” Cuối cùng Billy hỏi.

“Năng lượng chúng tôi phòng thích ra đã làm cho ngọn Mount Etna phun trào. Ngày hôm ấy, tôi suýt chết trên hòn đảo đó.”

Billy the Kid hạ ống nhòm, rồi quay lưng về phía vịnh và ngồi xuống một bức tường đá thấp. Hắn ta nhìn chăm chăm vào đôi giày ủng cao-bồi mòn vẹt của mình; lớp da giày đã trầy xước và bị toạc ra, gần như hỏng mọi chỗ. Đã đến lúc mua một đôi mới, nhưng như vậy nghĩa là phải lái xe xuống một người thợ đóng giày hắn ta quen ở New Mexico, ông này vẫn còn làm những đôi giày thường và giày ống theo mẫu mã truyền thống. Billy có vài người bạn ở Albuquerque và Las Cruces, những người khác ở Silver City, nơi hắn ta từng lớn lên, và Fort Summer, nơi hắn ta bị Pat Garret bắn chết.

“Tôi có thể gầy dựng một băng nhóm,” hắn ta nói chậm rãi. Hắn mong đợi tay người Ý phản đối và thật ngạc nhiên khi hắn không nghe nói gì cả. “Giống như những ngày xa xưa. Tôi biết một số người bất tử - một hai tên cao-bồi, một người Tây Ban Nha xâm chiếm Trung Mỹ, và hai chiến binh Apache vĩ đại - luôn trung thành với chúng ta. Có lẽ nếu hết thỷ chúng ta đều cùng nhau tấn công vào hòn đảo...”

“Đó là một ý tưởng hay, nhưng có thể anh sẽ kết án tử hình các bạn anh mất thôi,” Machiavelli nói. “Có một cách khác mà.” Đường dây nổ lốp bốp. “Có một đạo quân trên hòn đảo - một đạo quân toàn những bọn quái vật. Tôi nghĩ rằng còn hơn cả việc tấn công Perenelle, đơn giản là chúng ta nên đánh thức bọn quái thú đang say ngủ này. Nhiều tên đã ngủ như bị bỏ bùa mê suốt cả tháng nay hay còn hơn thế nữa; chúng sẽ đói... và sẽ đi tìm bữa ăn có máu nóng gần chúng nhất: đó là Quý bà Perenelle.”

Billy the Kid gật đầu, và rồi một ý tưởng chợt ập đến với hắn ta. “Ơ này, nhưng lúc ấy chẳng phải chúng ta cũng đang ở trên hòn đảo đó sao?”

“Tin tôi đi,” Machiavelli nói. “Một khi chúng ta đánh thức đạo quân đang say ngủ kia, chúng ta sẽ không phải đi lang thang đâu đó làm gì. Tôi sẽ gặp anh vào ngày mai lúc 12 giờ 30 phút trưa giờ địa phương, lúc máy bay của tôi hạ cánh. Nếu mọi thứ đúng theo kế hoạch, thì Perenelle sẽ không còn sống để trông thấy ngày đó lụi tàn đâu.”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx