sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bí mật của Nicholas Flamel bất tử (Phần 3) - Chương 41 - 42

Chương bốn mươi mốt

“Bà có thể gọi ai đó đến giúp được không?” Juan Manuel de Ayala hỏi.

“Tôi không chắc là sẽ có ai.” Perenelle đang tựa vào thanh chắn bằng gỗ gần như ngay phía trên tấm biển đón chào khách đến tham quan hòn đảo.

NHÀ LAO HOA KỲ

KHU VỰC ĐẢO ALCATRAZ 4,85 HEC-TA

CÁCH BẾN TÀU VẬN TẢI 2.414 MÉT

CHỈ TÀU THUYỀN CỦA CHÍNH PHỦ

MỚI ĐƯỢC PHÉP VÀO

MỌI PHƯƠNG TIỆN KHÁC

PHẢI GIỮ KHOẢNG CÁCH 183 MÉT

KHÔNG AI ĐƯỢC PHÉP LÊN BỜ

MÀ KHÔNG CÓ GIẤY PHÉP

Phía trên tấm biển, hàng chữ Người Indian Đón chào Quý khách đã bị một lớp sơn đỏ trát đè lên và bên dưới đó là hàng chữ Đất của Người Indian với cỡ chữ lớn hơn bằng mực đỏ nay đã bạc phếch. Bà biết mấy hàng chữ này đã được vẽ lên đó từ năm 1969 khi Phong trào Người Inian chiếm cứ hòn đảo này.

Nữ Phù thủy đã dùng thời gian còn lại của buổi chiều để đi khắp hòn đảo một cách có hệ thống, tìm xem có đường nào trốn thoát được không. Không có thuyền bè gì cả, dù có rất nhiều củi và gỗ, và bà cân nhắc ngay đến việc làm một cái bè, dùng khăn và chăn mền trong xà-lim trưng bày để buộc củi vào với nhau. Vào năm 1962, người ta cho rằng đã có ba tù nhân trốn thoát bằng cách tự làm một cái bè cho họ. Nhưng Perenelle biết rằng không gì có thể đi qua được Nereus và những cô con gái tàn ác của lão. Từ vị trí ở tầng hai trên chiếc cầu tàu phía trên hiệu sách, Perenelle có thể nhìn thấy mấy cái đầu của Nữ thần Biển trồi lên thụp xuống trong làn nước ngay phía trước mặt bà, mái tóc dài nổi lềnh bềnh đằng sau hệt như đám rong biển. Từ xa có thể trông chúng giống những con hải cẩu, nhưng những sinh vật này không hề động đậy và nhìn chằm chằm vào bà bằng những con mắt không hề chớp. Đôi khi bà bắt gặp thoáng một hàm răng lởm chởm khi chúng nhai những con cá hẵng còn đang ngoe nguẩy. Chắc chắn chúng đã nghe thấy những gì bà đã làm cho cha chúng.

Bà tìm được quần áo trong lúc đi một vòng trên đảo và thế là bây giờ bà đang mặc một chiếc quần bằng vải thô dành cho người tù cùng với một chiếc áo sơ-mi, cả hai đều có kích cỡ lớn hơn bà đến hai số là ít và bị cào xước hết cả. Bộ quần áo nằm trong phòng trưng bày từng chào đón nhiều khách hàng đến tham quan hòn đảo. Tuy nhiên kể từ khi công ty của Dee tiếp quản, không có khách tham quan nào đến Alcatraz suốt mấy tháng qua. Perenelle tìm thấy nhiều xà-lim được trang trí bằng những dụng cụ và những đồ vật trước kia từng là của người tù. Đi thăm dò khắp các xà-lim, bà còn tìm thấy một chiếc áo khoác đen treo trên một cái mắc áo và bà đã lấy nó. Dù có mùi meo mốc và hơi ẩm, nhưng nó vẫn ấm hơn nhiều so với chiếc áo đầm bằng lụa mỏng bà đang mặc, và như vậ có nghĩa là bà không cần phải tiêu hao năng lượng của mình để giữ ấm nữa. Bà không tìm được chút thức ăn nào nhưng đã thấy một cái tách bằng kim loại dơ bẩn nằm trong góc nhà bếp và khi đi tìm chỗ rửa, bà đã phát hiện ra có nhiều ao nước mưa rải rác quanh hòn đảo. Nước hơi nhuốm chút vị muối, nhưng không nhiều đến độ làm bà cảm thấy khó chịu.

Khi chiều dần buông, cũng là lúc cuối cùng bà kết thúc một vòng khám phá của mình ngay trên cầu tàu, nơi tất cả mọi hành khách - tù nhân và khách du lịch - đến Atcatraz bắt đầu và kết thúc cuộc hành trình của họ. Bà phát hiện thấy mấy dãy bậc thang phía bên trái hiệu sách dẫn lên tới tầng hai, và bà trèo lên. Bây giờ, chồm người trên thanh chắn, bà nhìn ra những con sóng. Thành phố gần đến mức như muốn trêu ngươi, chỉ còn cách khoảng hai cây số rưỡi. Perenelle đã lớn lên tại một vùng bờ biển lạnh lẽo tây bắc nước Pháp, ở Britany. Bà là một tay bơi cừ khôi và rất thích nước, nhưng bơi trong làn nước luôn thay đổi và lạnh buốt của vịnh lại là một vấn đề khác - thậm chí cả khi không có Nereus và mấy cô con gái của lão túc trực sẵn. Bà ý thức rằng lẽ ra bà nên học bay hồi ha vợ chồng ở Ấn Độ trong thời Đế chế Mughal*.

* Triều đại Hồi giáo Mông Cổ từng thống trị Ấn Dộ thời kỳ 1526 - 1857.

Nước vỗ vào cầu tàu, làm bắn tung những tia nước màu trắng bạc vào không trung... và hồn ma của de Ayala hiện ra những giọt nước lấp lánh.

“Chắc phải có người nào ở San Francisco mà bà có thể gọi nhờ giúp đỡ chứ,” hồn ma nói. “Một người bất tử nào đó, có lẽ vậy?”

Perenelle lắc đầu. “Tôi và Nicholas sống rất khép kín, không giao du với ai. Hãy nhớ rằng phần lớn những người bất tử đều là người phục vụ hoặc thậm chí là nô lệ của các Elder Đen tối.”

“Chắc chán không phải mọi người bất tử đều chịu ơn một Elder nào đó,” de Ayala nói.

“Không phải tất cả,” bà nhất trí. “Chúng tôi đâu có vậy; Saint Germain cũng không mà Joan cũng không. Tôi đã nghe đồn có những người khác cũng giống như chúng tôi.”

“Mà có thể có một vài trong số những người đó đang sống ở San Francisco chứ?” Ông ta cứ nằn nì.

“Đó là một thành phố lớn. Những người bất tử thích những thành phố lớn có dân số thay đổi liên miên, đó là nơi dễ dàng để mai danh ẩn tính. Vậy thì, đúng đó, chắc là có.”

Hồn ma di chuyển loanh quanh rồi lơ lửng bên tay trái bà. “Nếu bà đi ngang qua một người bất tử trên đường phố, liệu bà có nhận ra người này không?”

“Có chữ.” Perenelle mỉm cười. “Nicholas thì chịu thua.”

Hồn mà trờ tới ngay trước mặt Nữ Phù thủy. “Vậy nếu bà không hề liên lạc với ai cùng thuộc nhóm người như bà ở thành phố này, thì làm sao Dee tìm ra bà được?”

Perenelle nhún vai. “Đó thật là một câu hỏi hay, phải không nào? Chúng tôi luôn cẩn thận một cách khác thường, nhưng Dee có gián điệp ở khắp nơi, và sớm muộn gì, hắn cũng tìm thấy chúng tôi. Thật tình, tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao chúng tôi có thể ẩn náu ở San Francisco này lâu đến thế.”

“Bộ bà không có người bạn nào trong thành phố sao?” Bóng ma dồn ép.

“Chúng tôi quen biết vài người,” Perenelle nói, “nhưng không nhiều, và cũng không thân lắm.” Vén mớ tóc màu bạc lòa xòa trên mặt ra, bà liếc lên người thủy thủ đã chết. Trong ráng chiều, de Ayala hầu như hoàn toàn tàng hình, chỉ một vài nét chập chờn trong không khí, thấp thoáng đôi mắt trong trẻo để lộ ra vị trí của ông. “Ông làm hồn ma thế này bao lâu rồi?” Bà hỏi.

“Hơn hai trăm năm...”

“Và trong suốt thời gian đó ông có bao giờ ước ao được bất tử không?” Bà hỏi.

“Tôi không bao giờ nghĩ đến điều đó,” bóng ma nói chậm rãi. “Có nhiều lần tôi ước gì mình còn sống. Vào những ngày khi sương mù cuồn cuộn băng qua vịnh, hoặc là gió quất những bụi nước bay vào không trung, tôi đã ước mong mình có được một thân thể thực sự để trải nghiệm được những cảm giác ấy. Nhưng tôi không chắc là mình lại thích làm người bất tử.”

“Bất tử là một lời nguyền,” Perenelle nói chắc nịch. “Đó là nỗi đau buồn xé ruột xé gan. Ông không thể gần gũi với người khác. Chính sự hiện diện của chúng tôi là một mối nguy hiểm cho họ. Dee đã san bằng toàn bộ các thành phố để cố bắt chúng tôi cho kỳ được, đã gây ra nạn cháy và đói kém, thậm chí cả những trận động đất khi hắn lùng sục để chặn bắt chúng tôi. Và vì thế tôi và Nicholas đã phải dùng cả cuộc đời chúng tôi để bỏ chạy, để ẩn nấp, trốn tránh lẩn lút trong bóng tối.”

“Bà không muốn bỏ chạy hả?” Bóng ma hỏi.

“Lẽ ra chúng tôi phải dừng lại và chiến đấu,” Perenelle vừa nóiv vừa gật đầu. Tựa cánh tay trên thanh chắn bằng gỗ, bà cúi nhìn qua bến tàu đậu. Không gian mờ mờ, và trong phút chốc, bà thoáng thấy rất nhanh vô số những hình thù mặc trang phục và quân phcj thời quá khứ, đang tụ tập trên bến tàu. Nữ Phù thủy tập trung lại và những hồn mà Atcatraz liền biến mất. “Lẽ ra chúng tôi phải chiến đấu. Lẽ ra chúng tôi đã có thể ngăn chặn Dee. Chúng tôi có một cơ hội ở New Mexico vào năm 1945, và hai mươi năm trước, năm 1923, ở Tokyo, hắn đã phải phó mặc mình trong tay chúng tôi, yếu ớt gần như muốn chết theo cơn động đất hắn đã gây nên.”

“Vậy sao bà lại không?” de Ayala ngạc nhiên thốt lên.

Perenelle xem xét lưng bàn tay mình, nhìn những vết nhăn mới và những đường gân nổi lên trên làn da từng rất trơn láng. Những đường gân của tuổi già có màu xanh lá ngả sang xanh lơ giờ đã thấy rõ ràng bên dưới làn da; nơi mà mới hôm qua chúng chưa hề xuất hiện. “Bởi vì Nicholas bảo rằng rồi thì chúng tôi cũng chẳng giỏi hơn Dee cùng những loại người như hắn được.”

“Và bà không đồng ý chứ?”

“Ông đã bao giờ nghe đến một tay người Ý có tên là Niccolò Machiavelli chưa?” Perenelle hỏi.

“Chưa từng.”

“Một đầu óc lỗi lạc, xảo quyệt, tàn nhẫn và bây giờ thật đáng buồn - ngạc nhiên thì đúng hơn - là y đang làm việc cho các Elder Đen tối,” Nữ Phù thủy nói. “Nhưng nhiều năm trước, y đã nêu ra một ý thế này, nếu bạn làm tổn thương ai đó, vậy thì hãy làm cho việc đó trở nên trầm trọng đến nỗi sự báo thù của anh ta không còn làm cho bạn sợ hãi.”

“Ông ta nói nghe có vẻ như không phải là người tế nhị nhỉ,” de Ayala nói.

“Y không thế nhị. Nhưng y nói đúng đấy. Ba thế kỷ trước, người bất tử Temujin đã đề nghị tống giam Dee vào một Vương quốc Bóng tối xa xăm nào đó vĩnh viễn. Lẽ ra chúng tôi nên chấp nhận lời đề nghị đó mới phải.”

“Và bà muốn vậy?” de Ayala hỏi.

“Đúng, tôi rất muốn tống giam hắn trong Vương quốc Bóng tối Đế chế Mông Cổ của Temujin.”

“Nhưng chồng bà lại bảo đừng phải không?”

“Nicholas bảo chúng tôi có nhiệm vụ bảo vệ cuốn Codex và tìm cho được cặp song sinh đã được tiên đoán, chứ không có nhiệm vụ gây chiến với các Elder Đen tối. Nhưng tôi sẽ không phu chứ không có nhiệm vụ gây chiến với các Elder Đen tối. Nhưng tôi sẽ không phủ nhận rằng thật là dễ chịu hơn nhiều nếu không có Dee cứ luôn bám theo chúng tôi. Chúng tôi đã có một cơ hội ở Tokyo để tước đi quyền lực của hắn, ký ức của hắn, thậm chí còn có thể cả sự bất tử của hắn nữa. Chắc hẳn lúc đó hắn sẽ không còn là mối đe dọa cho chúng tôi nữa. Lẽ ra chúng tôi nên làm như thế.”

“Nhưng việc đó có ngăn chặn được các Elder Đen tối không?” Hồn ma hỏi.

Perenelle cân nhắc một chút. “Chắc hẳn là sẽ gây bất tiện cho họ, làm họ chậm lại một chút, nhưng không, việc đó làm sao mà ngăn chặn họ được.”

“Cả hai vợ chồng bà có thể nào hoàn toàn viến mất được không?”

Nụ cười của Perenelle đầy cay đắng. “Có lẽ không. Chúng tôi kết thúc ở đâu không quan trọng là, sẽ đến một lúc nào đó chúng tôi phải đi tiếp thôi. Sớm hay muộn gì, chúng tôi cũng phải đi.” Bà thở dài. “Chúng tôi đã ở quá lâu trong San Francisco. Thậm chí người phụ nữ chủ tiệm cà-phê ở bên kia đương đối diện với tiệm sách của chúng tôi cũng đã bắt đầu có ý kiến về làn da không có vết nhăn của tôi.” Perenelle phá ra cười. “Chắc chắn bà ấy sẽ nghĩ toi chích Botox cho mà xem.” Bà đưa hai bàn tay lên ngang mặt và xem xét chúng một cách tỉ mỉ. “Tôi băn khoăn tự hỏi không biết bà ấy sẽ nói gì nếu bà ấy nhìn thấy tôi bây giờ đây nhỉ?”

“Người phụ nữ ấy có phải là một người bạn không?” de Ayala hỏi ngay. “Bà ấy có thể giúp đỡ không?”

“Bà ấy là một người quen biết thôi, không phải bạn. Và bà ấy là một con người bình thường. Cố giải thích với bà ấy thậm chí chỉ là một phần rất nhỏ thôi cũng không thể được đâu,” Perenelle nói, “mà không được, tôi sẽ không nhờ bà ấy. Làm như vậy chỉ đưa bà ấy vào vòng nguy hiểm thôi.”

“Nghĩ đi, quý bà, suy nghĩ đi: phải có một ai đó mà bà có thể gọi nhờ giúp đỡ chứ,” de Ayala nằng nặc một cách quyết liệt. “Một Elder thân thiện với chính nghĩa của bà, một người bất tử không về phe với các Elder Đen tối ấy? Hãy cho tôi một cái tên. Tôi sẽ đi tìm họ. Bà sung sức và mạnh mẽ, nhưng thậm chí bằng chính sức mình bà còn không thể chống cự nổi với con nhân sư, Ông Già Biển và các con quái thú trong xà-lim. Và người đã gởi những con ruồi đến đây sáng nay, bất kể họ là ai thì chắc chắn họ đang cố làm chuyện gì đó, một chuyện thậm chí còn chết người hơn nữa.”

“Tôi biết điều đó,” Perenelle rầu rĩ nói. Nữ Phù thủy nhìn chăm chăm vào các Nữ thần Biển đang trồi lên sụt xuống trên làn nước biển và để mặc tư tưởng của bà lang thang. Chắc chắn phải có những người bất tử ở San Francisco - thật vậy, bà biết là có; mới hồi sớm nay bà thực sự bắt gặp một cảm giác thoáng qua về một cậu con trai có đôi mắt chết người trông còn rất trẻ đang nhìn bà trân trân. Cậu ta đang dùng một cái tô bói cầu để theo dõi bà. Nữ Phù thủy nhếch môi cười; cậu ta sẽ không còn dùng cái tô đó được nữa rồi. Tuy vậy, có cái gì đó nơi cậu ta, cái gì đó hoang dã và chết người trong cách thức cậu ta di chuyển và quan sát bà đã gợi co bà nhớ đến...

“Có một người,” bà chợt thốt lên. “Cô ấy sống ở đây hàng mấy thập kỷ rồi; tôi đánh cược là cô ấy sẽ biết mọi Thế hệ Kế tiếp và Elder trong thành phố này. Cô ấy sẽ biết chúng ta có thể tin được ai.”

“Hãy để tôi đến với người này,” de Ayala nói. “Tôi có thể bảo cô ta là bà đang ở đâu.”

“Ồ, cô ấy không có ở San Francisco bây giờ đâu.” Perenelle mỉm cười. “Nhưng chuyện đó không quan trọng.”

Bóng ma trông có vẻ bối rối. “Vậy thì bà sẽ liên lạc với cô ấy bằng cách nào?”

“Tôi sẽ bói cầu.”

“Bà sẽ gọi ai vậy?” Hồn ma hỏi, hơi tò mò.

“Nữ Chiến binh: Scathach Bóng tối.”

Chương bốn mươi hai

Chiếc taxi đầy những vết sẹo và móp méo phóng xuống Millbank, xẹt ngang Tòa nhà Nghị viện Anh rồi dừng lại nơi một cột đèn giao thông và ngay lập tức, một người lang thang đầu bù tóc rối râu ria bờm xờm quấn mình trong cả mấy lớp quần áo lèn người ra khỏi hàng rào chắn bằng kim loại và vội vã đến bên chiếc xe. Nhúng ống lăn vào một cái thùng nhựa màu xanh lơ, ông ta lăn cái ống từ bên này qua bên kia tấm kính chắn gió đã nứt nẻ của chiếc taxi và kéo rê nó qua qua lại lại ba lần thật nhanh tay, tẩy sạch đi vết bùn và lớp bụi của bọn Wild Hunt đọng lại trên mặt kính một cách thành thạo. Palamedes quay hạ tấm kính cửa sổ xuống và thò tay đưa ra cho ông già ấy đồng hai bảng tiền keng. “Có vẻ như đêm nay cả hai chúng ta đều làm việc trễ, ông già nhỉ. Ông khỏe chứ?”

“Ấm và khô cùng với thức ăn đầy bụng, Pally. Tôi còn đòi hỏi gì hơn nữa chứ? Không cần gì nữa, thật sự là vậy. Ngoại trừ có lẽ là một con chó. Tôi thích có một con chó.” Giọng ông ta cất cao và rơi vào một giai điệu ngân nga kỳ lạ. Người lang thang khịt khịt hít mạnh, mũi nhăn lên với vẻ ghê tởm. “Dừng lại xem! Có cái gì bốc mùi ghê quá. Tôi nghĩ chắc ông đã cán phải cái gì đó. Đánh cược là nó dính vào gầm xe rồi. Tốt nhất là tẩy sạch nó đi, bằng không ông sẽ không rước được nhiều khách đâu.” Ông ta cười lớn, nghe như có chất lỏng ùng ục trong ngực ông. Ông ta hấp háy mắt như người bị cận thị, thình lình chợt nhận ra rằng có hành khách ngồi ở băng sau của chiếc taxi. “Ấy chết, tôi không nhìn thấy họ ngồi đó.” Ông ta cúi sát người xuống Palamedes và nói giọng khàn khàn nhưng là một lời thì thầm nghe rất rõ, “Cứ cho là họ không nhạy cảm với mùi.”

“Ồ, họ biết đó là cái gì mà, ổn thôi,” Palamedes nói nhẹ nhàng. Đèn tín hiệu đổi sang màu xanh lá và anh ta kiểm tra kính chiếu hậu, nhưng không có gì đằng sau nên anh ta cứ đậu nguyên nơi giao lộ, để máy xe chạy không. “Đó là tàn dư của bọn Wild Hunt. Hoặc chí ít cũng là cái thứ đó không nhanh đu kịp tránh đường cho xe tôi chạy qua.”

“Bọn Wild Hunt hả?” Người lang thang cà ngón tay cái lên cạnh kính, quệt một chút bụi cám và đưa lên miệng. Cái lưỡi hồng hồng thè ra khỏi mớ râu ria rối bù, nếm nếm. “Ông dính một chút của người Hittite, trộn lẫn với một tên La Mã và một chút của bọn Magyar*.” Ông ta phun ra phì cười. “Tên quái dị có sừng vẫn tưởng lão là bậc thầy của bọn đi săn chứ?”

* Hittite: người ở cùng Anatolia (Tiểu Á) trong thiên niên kỷ thứ hai trước công nguyên, Magyar: người Hung-ga-ry.

“Vẫn vậy.”

“Chẳng bao giờ ưa nổi lão ta,” người lang thang nói gọn lỏn. “Lão thế nào?”

“Bị cháy, lần cuối cùng tôi nhìn thấy lão là thế.”

Người lang thang gí bàn tay lên cánh cửa đầy sẹo phía bên tài xế. “Sẽ không đến nỗi vàng rụm đâu.” Ông ta cười toe và nháy mắt. “Tôi biết một bãi phế liệu ngon lành, có thể tìm được ở đó một hai cánh cửa không dùng đến.”

“Bãi phế liệu đâu còn nữa,” Palamedes thản nhiên nói. “Cernunnos và bọn Wild Hunt vừa đến viếng thăm cách đây một hai tiếng đồng hồ. Khi chúng tôi rời khỏi đó thì Cernunnos đang bị đốt cháy ngay giữa bãi đất ấy. Tôi e rằng có thể lão ta sẽ đoán được chúng tôi đến tìm ông ấy chăng,” Palamedes khẽ khàng nói tiếp, ánh đèn giao thông vừa đổi lượt đã phết lên mặt anh ta một màu đỏ rực, làm cho tròng trắng trong mắt cũng hóa thành đỏ thẫm.

“Lão ta chỉ toàn là hăm dọa ầm ĩ thôi, lão sẽ không làm gì đâu,” người đàn ông cười khúc khích, rồi thình lình bỗng nghiêm mặt. “Lão ta sợ tôi, anh biết mà.”

“Tay Pháp sư người Anh, Dee ấy, hắn đang đi cùng với lão ta,” Palamedes nói thêm.

Hàm răng hoàn hảo đến ngạc nhiên của người lang thang hiện rõ trong một nụ cười kỳ lạ. “Cả hắn cũng sợ tôi.” Rồi nụ cười ấy nhạt dần đi. “Nhưng hắn cũng đủ ngu ngốc để không biết điều đó.” Thọc cái ông lăn vào thùng, ông ta đi trở lại hàng rào chắn và nhét đồ nghề của ông ta bên dưới một bụi rậm. “Thời buổi này thật khó để kiếm được một cái ống lăn ngon lành,” ông ta vừa nói, vừa quay lại chiếc xe. “Phải mất biết bao lâu chúng mới thuần tay được.” Ông ta kéo mở cánh cửa sau xe và nhìn săm soi vào bên trong. “Bây giờ, để xem chúng ta có cái gì đây?”

Ánh đèn bên trong chớp nháy khi người lang thang mở cửa, làm Josh choàng tỉnh, mở he hé nhìn rồi che mắt lại. Cậu ngồi lên, giật nảy mình khi trông thấy mọt kẻ lang thang không nhà cửa trông thật rách rưới và bẩn thỉu đang trèo vào xe. “Chuyện gì vậy? Ông là... là... ai?” Cậu càu nhàu.

Người lang thang quay đôi mắt màu xanh lơ đầy vẻ ngạc nhiên sang cậu con trai rồi cau mày. “Tôi là... tôi là...” Ông ta nhìn Sophie. “Cô có biết tôi là ai không?” Khi cô bé lắc đầu, ông ta liền quay sang Nhà Giả kim, đang ngồi trong bóng tối. “Trông ông có vẻ như một người hiểu biết. Xin hỏi ông lại một lần nữa, tôi là ai?” Ông ta hỏi gằn.

“Ông là Vua Gilgamesh,” Nicholas Flamel nói nhẹ nhàng. “Ông là người bất tử già nhất thế giới.”

Người lang thang chèn vào giữa Sophie và Josh, mỉm cười vui vẻ. “Chính tôi là thế đó.” Ông ta thở ra. “Tôi là Vua.”

Ánh đèn đổi sang màu xanh và chiếc taxi rồ máy chạy đi. Đằng sau họ, đồng hồ Big Ben gõ mười hai giờ đêm.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx